← Quay lại trang sách

- IV - (tt)

Trời tang tảng sáng. Một hồi trống trong trường vang ra. Hàng ngàn người chạy đến cửa trường chờ người lính mang loa ra gọi.

Người lính vừa cầm cái loa đồng cất lên thì bên cạnh tôi, có một ông đồ ngã gục xuống cái rãnh dưới chân, trong khi người lính vẫn thét mãi trong loa:

— Nguyễn Huy Văn! Nguyên Huy Văn!

Mà lạ nhấl là ba chữ Nguyễn Huy Văn cứ vang ở loa ra thật to trong khi bọn người tủm tít quanh người học trò chết ngất cũng ồn ào gọi tên Nguyễn Huy Văn. Thành ra: ở cửa trường, loa truyền Nguyễn Huy Văn vào trường lĩnh mũ áo trong khi ở bờ chiếc rãnh bà con thân thích cũng đương hú hồn Nguyễn Huy Văn về mà nghe xướng danh mình đầu bảng.

Tôi khi ấy tuy còn bé dại - năm ấy tôi chừng lên bảy lên tám - nhưng dại cái gì chứ những lề lối đi thi thi tôi rõ lắm vì nhà tôi là nhà đi thi chuyên môn. Tôi hỏi anh tôi:

- Kìa anh, có phải thủ khoa là ông Nguyễn Huy Văn nằm dưới rãnh kia không?

Thấy tôi đem hai chữ thủ khoa nhét xuống rãnh, anh tôi không trả lời câu tôi hỏi nữa, mà mắng át một câu:

— Trẻ con ra chỗ đông phải im.

Tôi đành phải im, bụng vẫn phàn nàn cho ông thủ khoa Văn chết ngất giữa lúc xướng danh mình. Tôi áy náy trong dạ: Qua khỏi đi thì không sao, ngộ lỡ chết thật uổng quá.

Sau tôi mới rõ là vì ông hỏng thi nhiều quá, mỗi lần trông thấy cái loa giơ lên là ông ngây, ngất cả người - Trong mấy khoa trước, thiên hạ cứ đồn ông đỗ - vì ông học giỏi, ai cũng biết - mà rồi mấy lần liền, nghe xong 25 tiếng loa ông cũng không thấy tên ông. Do thế ông đâm sợ cái loa. Ông vẫn nói với bạn:

— Cái tôi khiếp nhất trong trường thi là cái loa đồng xướng danh, là cái dáng tên lính cất cái loa lên. Khoa ấy, thiên hạ đồn rầm trước lên rằng ông đỗ thủ khoa.

Ông cũng ậm-ừ biết vậy thôi nhưng không tin. Tiếng đồn kia đã lừa ông nhiều lần lắm rồi. Miệng loa kia đã lừa ông lắm bận rồi. Tới khi tên lính cất cái loa lên, cái quán tính cũ của ông nó lại bùng dậy mà choán hết tâm thần ông, làm cho ông chỉ còn là cây thịt không hồn đỗ nhào xuống rãnh [11].

Đêm hôm ấy, ông đồ Trạc phường Đồng Xuân cũng có cái tâm tình trạng-huống ‘‘đỗ nhào’’ như ông thủ khoa Văn. Ông không chết ngất đi nhưng người ông cũng tê tái, không còn đủ sức đứng dậy vào màn đi ngủ nữa. Ngồi lặng cả như thế rồi dần dần gục xuống thiếp đi. Ông thiếp đi chứ không phải ngủ. Đương thiêm thiếp như thế thì con yêu lại đến. Lần này nó tươi cười. Cái cười lần này của nó có vẻ đầm ấm thân mật chứ không có vẻ lạnh lùng chế nhạo như lúc nãy - Tự nhiên ông cũng thấy ưa-ưa con yêu quái vừa trêu tức ông ban nãy. Nó ôn tồn rủ ông:

— Thôi học hành làm chi. Trời sáng rồi, em cùng ông đi chơi một vòng quanh các phố xem lại nơi đế đô này một lần chót. Đi, đi!

Ông trèo qua cửa sổ, cùng nó đi qua chiếc phương đình rồi do cổng trái đi ra ngõ hàng Khoai. Rồi ông cùng nó đi ra phía cửa ô An Hoa, theo phía bờ sông đi lên đến làng Nhật Chiêu. Tới đó, con yêu chỉ vào một cái quán vệ đường mà bảo ông rằng:

— Đây là chỗ chôn sống mấy trăm năm cơ nghiệp của Trịnh Vương.

Rồi nó lại đưa ông trở về, cũng theo lối cũ. Đi đến làng Quảng Bá, nó chỉ ra sông mà bảo ông rằng:

— Chỗ này là chỗ hoàng đế qua đò. Qua đò xong thì mấy trăm năm cơ nghiệp của nhà Lê cũng qua đò nốt.

Ông hỏi:

— Hoàng thượng qua đò rồi không trở lại Kẻ Chợ [12] nữa à?

— Có, còn trở lại một lần nữa, xong rồi lại qua đò lần thứ hai. Lần này thì ‘‘nhất khứ bất phục phản’’ [13]. Mà qua đo giữa nơi trăm giáo nghìn mác.

— Cũng qua đò ở bến này?

— Không, ở bến dưới kia. Lát nữa tôi chỉ cho ông xem.

Đi một lúc đến bến làng Nghi Tâm, con yêu trỏ bãi cát ven sông nói:

— Kìa, chỗ bãi cát thè-Iè lưỡi trai kia là chỗ hoàng thượng độ hà lần thứ hai.

— Thế rồi sao nữa?

— Sao nữa! Lần này đi thật lâu mà lúc về thì chỉ có một quả tim. Ta vào cửa Đông Hoa qua thành rồi ra cửa Đại Hưng xem phủ chúa.

Qua cửa Đại Hưng hai người đi đến phường Nam Ngư rồi đến Trịnh Vương phủ.

Con yêu chỉ Các Môn:

— Cung điện này rồi tan nát ra tro!

— Bao giờ thì xẩy ra những biến cố lạ thường như thế?

Con yêu cười khanh khách.

— Ông lấy thế làm lạ thường à? Có lạ chi! Có hình thì có diệt, có thịnh thì có suy, lấy chi làm lạ. Còn năm nào xẩy ra thì xin ông đừng hỏi kỹ quá như thế. Chỉ biết rằng:

Đục cùng phải giữ lấy tông.

Tông còn chẳng chắc cán mong nỗi gì?...

Sáu dê năm ngựa ra đi

Ba con đom đóm lập lòe sấm vang.

Năm dê xiết nỗi kinh hoàng qua sông.

Đọc đến đấy, tay nó chỉ cửa Tuyên Vũ mà kêu:

- Kìa! Kìa! ông đồ! người ta làm gì kia kìa, ông chạy lại xem, tôi đứng đây chờ.

Nhin ra thấy ở cửa Tuyên Vũ có đám đông người đứng lố nhố đập cửa kêu thét ầm ỹ.

Ông vội chạy lại thì bị một tên kiêu binh sừng sộ hỏi:

— Anh này đến đây làm gì?

— Tôi đến xem các cậu làm gì?

— Làm gì thì việc gì đến anh?

Nói đoạn tên lính đấm mạnh ông một cái.

Ông không kịp tránh, bị một cái đấm mạnh ngã xuống đất thì vừa giật mình tỉnh dậy thành ra một giấc chiêm bao. Cạnh ông, đứa con đứng. Ông ngẩng đầu lên hỏi:

— Giờ chừng bao giờ con?

— Giờ gần sáng rồi. Trống canh đã điểm sang canh tư mà gà cũng đã gáy hai lượt rồi. Đêm qua sao thầy không đi nghỉ mà lại nằm gục đầu xuống đóng sách cho đến sáng thế?

— Thầy xem sách mệt quá.

Hôm ấy, vì thức gần hết đêm, ông ngũ cả ngày, bỏ cả bữa cơm sáng. Vợ con thấy ông nằm ngủ mà chân tay cứ thỉnh thoảng lại vật vã luôn, cho là ông trở trời. Thỉnh thoảng lại thấy ông thở dài, người nhà không hiểu vì sao, vì đâu. Mỗi người đều hết sức tự hỏi mình xem đã có làm điều gì trái ý trái phép với ông không, vì họ tưởng rằng vì việc gì trái ý trong nhà mà ông vật vã cùng thở dài. Đến chiều, chừng cuối giờ Mùi ông mới trở dậy. Vợ còn len lét sợ không ai dám nói gì cả. Ở một gia đình ông nhà nho cổ, người bố, người cha mà có ý không vui vẻ là cả nhà phải sợ hãi như bọn phạm nhân. Ăn cơm chiều xong, ông vội chít khăn mặc áo ra đi. Người nhà lại càng cho là vì ông có giận gì ai. Lúc ông cầm ống thuốc khăn tay ra cửa, bà đồ đánh bạo hỏi:

— Thầy nó có điều gi mà hôm nay tôi thấy như giận dữ ai, như buồn bực vì ai?

Ông trả lời một câu lạnh lùng gọn Iỏn:

— Chẳng có điều gì cả.

— Thầy nó khó ở hay sao?

— Chẳng sao cả.

Hai câu trả lời lạnh lùng khiến bà đồ lại càng bối rối. Bà cố hỏi câu nữa:

— Hay là tôi có điều gì, hay là trẻ chúng nó có điều gì mà thầy phiền muộn.

Ông phát cáu:

— Chẳng ai làm sao cả. Để cho người ta đi chơi. Đừng săn đón lôi thôi.

Bà đồ bị ba câu lạnh lùng gắt gỏng liền, nín thít xuống nhà dưới, an chí là trong nhà có ai làm điều gì, hoặc ăn nói vô ý vô tứ thế nào mà chồng bà giận.

Ông vội vàng đến chơi đồ Đồng Lạc bạn thân của ông và rủ bạn về nhà, pha ấm trà đặc, kể lại câu chuyên đêm qua cho bạn nghe.

Nghe hết câu chuyện, đồ Ngọc nói:

— Kể ra thì phần trên câu nói, của con yêu cũng có thể tin được mà cái bác vừa thấy thường rồi sau phát hiện cũng nên.

— Còn phần dưới, bác nghĩ thế nào?

— Hãy nói phần trên trước. Hãy nói chuyện ‘‘quốc tương vương’’ trước đã. Còn câu chuyện ‘‘quân diệc bất đệ’’ thì để nói sau:

Xưa nay, từ ngày hai người chơi với nhau ; đồ Trạc vẫn cho đồ Ngọc là người thạo việc đời, hiểu thời vụ. Cho nên hễ có việc gì quan hệ đến chuyện giao thiệp xử thế, đến việc đời thì ông hỏi bạn.

-Vâng, thế xin bác nói chuyện trên trước và ý nghĩ của bác về việc ấy cho tôi nghe.

Đồ Ngọc pha lại ấm nước, uống một chén, hút một điếu thuốc, rồi thong thả nói:

— Cứ xem công việc xảy ra trong mấy năm gần đây thì rõ. Trong Nam, tuy trừ được chúa Nguyễn, tuy lấy thêm được đất Thuận-Hóa, Nam- Bố-Chánh, nhưng...

À mà tôi quên! phải nói cho có đầu đuôi. Xin bắt đầu nói công việc từ năm Chúa Thượng bây giờ mới nhập thừa đại thống [14]. Nếu quả có chuyện ‘‘quốc tương vương’’ đi nữa thì cũng phải hết đời Chúa Thượng [15]. Vậy công việc xẩy ra trong đời ngài là trưng triệu, là manh nha, là nguyên nhân [16] cho việc đại biến sau này.

— Công việc của Chúa Thượng có cái gì dở.

— Bác hãy để tôi nói. Năm Chúa Thượng tập vị [17] đã có những điều chẳng hay. Tháng giêng, giữa Tết Nguyên đán, nhật thực, núi Mật Sơn sạt ba trượng, ở Quỳnh Lưu trong Nghệ thì động đất nữa. Tháng hai, ở Kinh sư lại động đất nữa. Ngay tháng ấy có loạn ở hạt Siêu Loại. Tháng tư sao Thái Bạch và sao Huỳnh Hoặc phạm vào địa phận sao Tỉnh. Tháng sáu năm ấy, sao Thái Bạch hiện giữa ban ngày. Tháng bảy trời không mưa, tháng tám mặt trăng đi vào giữa sao Tâm...

Đồ Trạc ngắt lời:

— Nói làm gì mãi chuyện trời đất cùng triệu trẫm ấy. Tôi không tin đâu. Bình nhật bác vẫn nói là bác theo Vương Kinh Công: Thiên biến bất túc úy, tổ tông bất túc pháp, nhân ngôn bất túc tuất [18] Sao bây giờ bác lại lấy chuyện thiên biến ra làm nê thế?

— Bất túc úy, đành rằng bất túc úy. Tôi mà là người đương lộ [19] thì tôi cũng mặc thây cả thiên biến lẫn nhân ngôn. Song trời có hiện thì đất có tượng. Trời đất có ràng buộc cùng nhau. Nói rằrg thiên biến bất túc úy nghĩa là chẳng sợ cái tượng xẩy ra sau cái hiện báo trước chứ có phải không tin rằng hai cái đó không có quan hệ cùng nhau đâu. Bác muốn nghe việc người thì đây tôi xin nói việc người.

Nghị Tổ thừa đại thống đã là hơ trái rồi. Nay Chúa thượng lại nối theo, thế là bỏ dòng đích đó [20]

— Có sao! con nối cha, có làm sao! Nếu trái nhân tâm thì Nghị Tổ có ở ngôi đâu nổi hàng mấy chục năm.

— Đành rằng thế. Nhưng Dụ Tổ cũng còn một người con khác. Mối loạn ở đó là một.

— Trịnh Bồng người đôn hậu.

— Ông đô -hậu thuần thục nhưng ai cấm những kẻ muốn bưng ông lên để hưởng phú quí làm loạn nước? Mối loạn ở đó là một. Mối loạn ấy đã phát ra ngay lúc Chúa thượng mới nối ngôi rồi. Trịnh Lệ chẳng vịn cớ ấy mà làm loạn là gì?

Nói sang chuyện khác:

Năm Kỷ Sửu, Chúa thượng phế Thái tử Duy Vĩ vì một mối thù con. Điều ấy nhiều người lấy làm bất mãn lắm. Mối loạn ở đó là hai..

— Bác chỉ nói những việc trái con con của Chúa Thượng mà quên rằng Chúa Thượng là một người anh minh, tài lược, có chí hùng vĩ.

— Tôi vẫn biết ngài là một đấng anh quân, ngài là một vị chúa anh hùng. Còn ngài thì không sao. Tài ngài to, chí ngài lớn, thì những cái tật nhỏ có thể che đi được. Nhưng tôi sợ rằng một khi ngài nằm xuống thì những cái ác nhân con con ấy nó mới phát hiện ra. Tô Triệt cho rằng cái loạn ở Tề là do Quản Trọng gây ra, điều đó khí nghiệt quá. Song mầm mống nổi loạn ấy thật manh nha từ lúc Tề Hoàn Quản-Trọng còn sống, Bác cứ để tôi nói nốt…

Hút một điếu thuốc, hâm một chén nước, Đồ Ngọc lại nói tiếp:

— Chúa Thượng lại còn tự gây ra cái họa tiêu tường nữa [21]. Vương trưởng tử Khải không có tội gì mà bị Chúa thượng ghét bỏ. Theo cố sự, Vương trưởng tử 12 tuổi thì xuất các [22] dựng làm thế tử. Năm Ngọ, các quan xin, Chúa thượng không nghe, ý chừng là ngài đợi bà Chúa chè [23] đẻ con trai. Năm nay, Vương Trưởng tử đã mười bảy rồi mà ngài vẫn chưa phong. Đông Cung vẫn để hư vị đó, ý chừng ngài đợi cậu bé con lên bốn lớn lên rồi phong. Triều thần bây giờ đã sinh bè đảng rồi đó. Mối loạn, đó là ba.

Ngài chỉ biết lo việc mở đất, đánh nước khác [24] mà không để ý đến việc trong.

Dụng binh nhiều thì tướng võ và quân lính được dùng nhiều và có nhiều công. Do thế sinh kiêu. Cái kiêu ấy, nhất là ở quân lính, nếu không biết kén ai thì có ngày sinh họa.

Mối loạn ở đó nữa là bốn.

Đất của Tiên vương là kiểu đất: phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, nhị bách dư niên, tiêu tường khởi họa [25].

Đã đúng chưa bác? Kể từ năm Đức Thánh-Tổ Triết Vương [26] cầm binh bính [27] đến giờ đã được hai trăm mười năm rồi. Mà cái họa tiêu tường thì hiện rõ ra rồi đó.

Đó là mới nói đến cái họa tiêu tường, chưa nói đến cái họa ngoài cõi. Tuy rằng về phía Nam đã diệt được Chúa Nguyễn, đã lấy thêm được mấy hạt Nam Bố-Chánh, Thuận Hóa, nhưng lại nẩy ra một địch quốc khác là anh em Tây Sơn. Thuận Hóa bây giờ là đất phiên bình [28] cho quốc gia mà Chúa thượng để cho Tạo Quận là anh tầm thường giữ. Một ngày kia y tất đánh mất Thuận Hóa thôi. Thuận Hóa mà mất thì Hoan Ái[29] cũng đi đời.

Họa ngay ở đó, ở đó, ở đó.

Đồ Trạc nói:

— Anh em Tây Sơn là lũ giặc ở miền Nam, có giỏi thì chẳng qua cũng là giỏi ở đó thôi, có thể nào đứng địch-thể với quốc gia được?

— Thế thì bác lầm to. Bác không nhớ rằng năm trước đây các ông Lê Quí Đôn, Nguyễn Lệnh Tân khi cùng bị triệu về, có làm sớ xin Chúa thượng nên để ý đến anh em Nhạc Huệ đó à? Tôi nhớ trong sớ có đoạn rằng: ‘‘ Xin thêm bốn quân trấn thủ Thuận Hóa, đặt thêm đồn quân ở đèo Hải Vân và xin chế ngự anh em Tây Sơn ngay từ bây giờ. Cứ ý thần thì mười năm nữa chúng sẽ mạnh ; khi đó không thể sao chế ngự được nữa.

Đồ Trạc nghe bạn nói xong, ngồi thừ ra một hồi. Những người quá thật thà hay có cái dáng ngồi thừ người ra ngồi lặng cá người đi mỗi khi có việc gì phải nghĩ ngợi đôi chút. Đời họ lúc nào cũng bằng phẳng như nước trong ao, như đất ở đồng bằng, hơi có chút gì khác là trong óc bí tắc cả lại không biết ăn làm sao, nói làm sao, cất chân cất tay ra làm sao nữa. Ngồi thừ người ra một lúc rồi ông gắt gỏng giữa trời một câu:

— Thế là cái chó gì!

Đời họ lúc nào họ cũng muốn êm đềm như đi đất phẳng cánh đồng bằng, động qua chỗ đất

núi hơi gồ ghề là chân nam đá chân chiêu ngả nghiêng muốn ngã.

Đời có người thật là khó chịu. Khó chịu cho người ngoài đã đành, họ lai khó chịu cả với bằng hữu chí thân nữa. Họ tựa như người kia đi chơi nơi lạ, lỡ ra gặp phải đường xấu, quán dột, chỗ ngồi bẩn là họ gắt mà người bị họ gắt đầu tiên là người bạn cùng đi với họ. Họ coi như vì những người kia nên họ mới bị những cái khó chịu dọc đường này. Họ quên rằng người bạn cùng đi với họ cũng cùng phải chịu những cái khó chịu như họ và lại đèo thêm cái khó chịu bị người bạn gắt nữa.

Đời tâm tư của ông đồ Trạc xưa đến nay không có gì cả, trừ một ít chữ bã mía ông đã nhai lại được ở những bài văn sách bài phú làm sẵn; trừ một dúm chữ thánh-hiền - tôi nói chữ, chứ không nói nghĩa lý của những chữ ấy cùng giáo lý của thánh hiền - mà ông thường phun ra phè phè luôn; trừ một ít sáo thi nhân, văn nhân; trừ những cái cảm giác tê tái lúc thi hỏng cùng những lời nói, những văn cảm khái ‘‘sáo hết chỗ nói’’. Nay bỗng dưng đời tâm tư ông qua hồi bão táp. Hiệu quả thứ nhất là làm cho ông tê liệt thần trí, ngồi lặng cá hàng giờ. Hiệu quả thứ hai là làm cho ông bản tính gắt gỏng vô lý. Người chịu đựng sự gắt gỏng đầu tiên ấy là vợ ông, người bạn cùng đi con đường với ông. Người chịu đựng nỗi gắt gỏng thứ hai là bạn ông, ông Đồ Ngọc phường Đồng-Lạc.

— Thế là cái chó gì!

Tươi cười, Đồ Ngọc vừa vỗ về vừa trêu ghẹo bạn:

— Chẳng là cái chó gì cả. Chỉ là việc người cả thôi. Còn phần dưới câu chuyện, tôi đã thưa chuyện cùng bác đâu. Câu chuyện quân diệc bất đệ.

— Nói làm cái con tườu gì!

— Nói để làm cái cống sinh cái tiến sĩ khoa này chứ khi nào lại làm con tườu.

— Thôi đi! Đừng nói lỡm nữa. Bác đi thi mà đỗ cống sinh với tiến sĩ. Bác đừng trêu ghẹo tôi.

— Tôi nào dám trêu ghẹo bác. Bác thật thà quá đi mất thôi. Mấy chữ quân diệc bất đệ là con yêu nó nói ý nói từ xa xôi thế thôi chứ đệ hay bất đệ còn ở học lực mình nữa chứ. Ý con yêu nó định nói rằng: ‘‘Nước gần mất rồi, dù ông đi thi có đỗ thì rồi cũng vô ích như là không đỗ’’. Đáng lẽ nó nói thế thì phải, nhưng chắc vì nó biết rằng bác cay cú đã nhiều về việc thi cử nên nó nói như thế để trêu bác đó thôi... Bác khoa này thì nhất định là đỗ. Bác chỉ hỏng về văn sách mà văn sách bác bây giờ được phê ưu luôn.

Đồ Ngọc nói đến đây làm cho bạn tươi ngay:

— Văn sách tôi bây giờ thì đố anh nào ăn đứt. Thủ khoa Phan Huy Ôn là con nhà dòng cũng chẳng ăn đứt tôi được.

Đồ Ngọc vỗ vai bạn:

— Vậy thì bác ạ. Tháng sau ta vào trường, tháng sau nữa ta là ông Cống, rồi ta vào thi hội. Sang giêng ta vào điện thí. Sang năm ta là ông Nghè, ta về vinh qui. Và, hôm nay tôi xin phép bác về nhà sửa soạn lều chiếu.

Cáo biệt bạn xong. Đồ Ngọc ra về. Đi đường ông vừa nghĩ vừa cười thầm:

— Con người thật đáng thương. Thôi thì mình cũng vác lều chiếu vào trường cùng hắn cho hắn có bè có bạn. Đỗ với đậu thì làm con tườu gì.

Chú thích:

[1] Có chế nghĩa là có tang

[2] Hành = đi, làm. Chỉ = dừng lại, thôi. Tiến=bước lên. Thối= lùi xuống.

[3] Ông người làng Bảo Triện, huyện Gia Bình, Bắc Ninh. Ông đỗ Hoàng giáp nên gọi là ông Hoàng.

[4] Lối học cổ, ông thầy chỉ ra bài cho học trò đem về nhà làm. Thỉnh thoảng mới có một kỳ làm ngay ở nhà thầy, gọi là kỳ nhật khắc.

[5] Mỗi tháng hoặc nửa tháng một lần ông thầy chọn những bài văn hay của học trò định ngày đem ra bình cho cả trường nghe.

[6] Bạn quên tuổi, quên rằng mình hơn tuổi người ta.

[7] Trường thi chia ra bốn khu gọi là bốn vi.

[8] Lối phê bài có: thứ mác giải tức như passable thứ phê mác ngắn cũng như médiocre

[9] Tức là cái ô ở phố Mới, bây giờ hãy còn.

[10] Nghĩa là: Nước sắp mất, ông cũng chẳng đỗ đâu. Đừng dọc sách mà nát tôi nữa. Chữ quốc đây dùng theo nghĩa cổ, chỉ triều Lê Trịnh lúc bấy giờ.

[11] Câu chuyện có thật. Vì không có quyền làm giảm giá một người như ông nên tôi đặt ra cái tên nguyễn Huy Văn để giấu tên thật đi. Ông bây giờ « văn minh» lắm, không ông đồ lắm nữa.

[12] Kinh đô, chỗ vua đóng.

[13] Đi rồi chẳng còn về nữa.

[14] Nôm na thì nói là: mới nối ngôi.

[15] Chỉ Thánh Tổ Thịnh Vương, tức là chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm.

[16] Manh nha là mầm mống.

[17] Tập vị là nối ngôi.

[18] Vương An Thạch tước phong là Kinh Công, có nói: ‘‘Ta biến của trời không đủ sợ, tổ tông chẳng đủ làm phép cho ta, lời người bàn tán không đủ ta để ý.’’.

[19] Cũng như ta nói những nhà ccam62 quyền hành chánh.

[20] Dụ Tổ Thuận Vương Trịnh Giang nhường ngôi cho em là Nghị Tổ Ân Vương Doanh. Nghị Tổ để ngôi cho con là Thánh Tổ Thịnh Vương Sâm, tức là chúa Trịnh lúc thời ông đồ này. Dụ Tổ còn người con là Trịnh Bồng, năm Nghị Tổ nối ngôi Dụ Tổ còn trứng nước.

[21] Họa cạnh nách mình.

[22] Ra ở riêng.

[23] Tức là Đặng thị Huệ cung phi của Thịnh Vương. (Xin đọc Bà Chúa Chè, cùng một tác giả sách này)

[24] Lúc đó nam bắc chia rẽ tự coi nhau như nước khác. Cái tâm lý ấy đáng chán thật nhưng thật có đúng như thế.

[25] Không phải đế, không phải bá mà quyền hành nghiêng thiên hạ.

[26] Tức Trịnh Tùng.

[27] Binh bính: Quyền coi quân

[28] Cái phên cái bình (bình phong là cái che gió).

[29] Nghệ An, Thanh Hóa.