← Quay lại trang sách

- V - Thịnh- khoa

Ở quãng góc hai con đường từ Ô Cầu Giấy đi Hànội và Ô Cầu Giấy đi Ô Cầu Rền có một cánh đồng rộng. Đời Lê, đó là trường thi.

Nói đến trường thi, đừng ai tưởng rằng đó phải có nhà cửa lâu đài gì. Muốn hình dung cái trường thi cổ ấy, ta chỉ phải lấy tưởng tượng bỏ hết ngô lúa đỗ trồng ở cánh đồng ấy đi, rồi lại lấy tưởng tượng rào khu ấy lại thành một hình vuông thật rộng. Có thế mà thôi.

Đó, trường thi nhà Lê lúc ngày thường. Ngày thường, bỏ hàng rào đi, thì trường thi cũng như cánh đồng khác. Khách đi qua ngày thưởng chỉ có thể nhận khu vực của nó khi đất có trồng trọt gì. Vì khu ấy là đất công, mỗi người chia nhau làm một năm, không ai chịu phân tro gì, vì thỉnh thoảng lại phải nghỉ một vụ để thi, nên không ai thiết trồng trọt ở khu ấy, vì những lẽ ấy, ngô, đỗ, khoai, trồng ở đây kém mầu, kém chăm nom đều leo heo xơ xác. Giữa vụ cây cối đương lên, khu ấy lờ mờ in thành một hình vuông những cây kém mầu cằn cội, ở giữa một cánh đồng xanh tốt.

Trường thi, theo nghĩa đúng của nó phải ở chỗ lộ thiên. Trường là một khoảng đất lộ thiên dùng để làm một việc ganh đua gì. Văn trường là chỗ học trò đua văn, chiến trường là chỗ lộ thiên để chiến sĩ đua nhau chết: trường đấu mã là đất lộ thiên để ngựa đua nhau chạy.

Sĩ tử đua nhau văn có khi cũng gay gắt như ngựa đua nhau chạy, nhất lá cái giải thủ khoa. Tựa như ngựa tranh nhau về nước nhất, một khoa kia, hai ông cử ghen nhau:

Hai đứa tranh nhau cái Thủ-khoa,

Tuân khoe văn cứng, Nghị văn già,

Rồi tựa như lũ người xem đua ngựa, bàng quan cũng tức tối hộ con ngựa hay, đáng nhất nhì ba lại lạc loại về thứ tư; cũng lấy làm lạ cho con ngựa hèn về liền với con ngựa thứ hai:

Quan trường lấy hết phường hay chữ,

Mà bác Lê Tuyên đỗ thứ ba.

Con ngựa thứ tư ấy là ông cử Đỗ Túc, danh sĩ Bắc Hà hồi năm sáu mươi năm trước đây.

Sĩ tử đua nhau, văn có khi cũng nguy hiểm như đi chiến trường. Khoa nhâm tử gần đây (1912) vì mưa gió, có người chết trong trường thi. Ông Ấm Hiếu cùng thi khoa ấy, bị trược về nhà hãy còn mừng gượng:

Văn không hay chẳng đỗ thì đừng.

Gió mưa khỏi chết, nửa mừng anh

lại nửa thương.

Cái nghiệp bút nghiên nguy hiểm

Dủ trăm đường [1]

Sĩ tử vào trường đua văn, có khi cũng có cái cảm tưởng như chiến sĩ đi chiến trường.

Chiến sĩ lên đường, còn có người dặn bà con

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

Say nằm ai cũng đứng cười

Xưa nay chiến sĩ mấy người về đâu?

Ông Tú Trần Tế Xương, trước khi bước chân đi thi, cũng dặn với vợ con:

Ngày mai tớ hỏng tớ đi ngay

Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày.

Quãng đất chỗ góc đường cửa Ô Cầu-Giấy, hồi Hậu-Lê dùng làm nơi văn trường bút chiến cho hết thảy sĩ phu nước ta.

Ba năm một lần, gần tới kỳ thi, người ta rào khu đất ấy lại thành một khu đất vuông chừng hơn mười mẫu ruộng, mỗi bề dài chừng bảy mươi trượng. Ở giữa bốn mặt, mở bốn cửa thật to. Trên mỗi cửa dựng một cái nhà chòi để lính đứng trên bắc loa gọi sĩ tử vào trường và trông nom sĩ từ làm bài thi. Hai con thập đạo nối cổng nọ với cổng kia và cắt trường thi làm bốn vi giáp, ất, binh, đinh, cửa chính ở phía Nam. Cửa ấy to nhất vì là nơi quan trường tiến trường. Cửa ấy chạy giữa hai vi giáp, ất và đi thẳng vào gian giữa nhà thập-đạo làm ở giữa chỗ hai con đường gặp nhau và ở giữa trường thi. Nhà ấy là chỗ ở của quan Tri cống-cử [2] và là chỗ văn phòng của ngài. Cái sập kê giữa gian là chỗ định đoạt số phận của sĩ tử,

Cửa đông chạy giữa hai vi ất, bính và chạy thẳng vào nhà ở và nơi làm việc của quan Đề Điệu [3]. Cửa bắc chạy giữa hai vi bính, đinh và chạy thẳng vào nhà ở và nơi làm việc của bọn lễ sinh, văn-sinh [4] cùng lính hai đội Nhưng Nhất, Nhưng Nhị. Cửa Tây chạy giữa hai vì đinh, giáp và chạy thẳng vào nhà ở và nơi làm việc của các quan giám khảo, phân khảo.

Bốn góc giáp bốn vi, cạnh chỗ các nhà quan trường, dựng bốn cái nhà chòi để lính đứng cạnh trường. Từng dưới chòi là chỗ học trò đến chép đầu bài, lấy quyển, cánh - quyển [5] lấy dấu nhật trung vào quyển và nộp quyển [6]. Hồi Lê, cả nước - kể từ bờ Bắc Linh giang trở ra là cơ nghiệp của vua Lê, chúa Trịnh - chỉ có một trường thi ấy là to thôi. Thường thường, vào những khóa thi thường, thì hương thi thì ở các tỉnh, nhưng mỗi khi có một kỳ thi đặc biệt, thí dụ như những kỳ thi hoành từ bác văn hoặc như kỳ thi Thịnh khoa năm Cảnh Hưng thứ 40, thì hàng vạn sĩ tử bốn trấn cùng vùng Thanh, Nghệ, Bố chính đều về trường thi ấy cả. Mỗi lần như thế thì học trò, khi tựu trường phải theo đúng thể lệ sau này để khỏi loạn trật tự:

1.) Các sĩ tử thuộc các trấn Thanh Hoa Nội [7] Nghệ An, Bắc Bố chánh [8] và Thuận Hoá, Quảng Nam, đứng chờ sẵn ở trước cửa Nam; khi được gọi vào rồi, thì đi rẻ ngay sang tay trái mà cắm lều ở vi giáp.

2.) Các sĩ tử Thượng Hồng, Hạ Hồng, An Bang, đứng chờ ở cửa Đông, rồi rẻ sang tay trái mà cắm lều ở vi ất;

3.) Các sĩ tử Tuyên Quang, Hưng Hóa, Sơn Tây chờ ở cửa Bắc và vào cắm lều ở vi bính;

4.) Các sĩ tử ở Lạng Sơn, Kinh Bắc, Thái Nguyên, Sơn Nam chờ ở cửa Tây và cắm lều ở vi đinh.

Năm ấy, - năm Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40, đời vua Lê Hiền Tông Vĩnh Hoàng Đế, tức năm thứ mười ba đời chúa Thánh Tổ Thịnh Vương Trịnh Sâm, lịch tây vào năm 1779 – chúa Tĩnh-Đô Vương [9] cho mở Hương Hội Thịnh Khoa.

Từ năm Giáp Ngọ - Cảnh Hưng thứ ba mươi lăm (1774) – người ta thấy cử động của nhà chúa khác lắm. Từ lúc nhà chúa còn ở Lương phủ [10], sĩ phu trong nước cũng đã nhận thấy rằng thế tử là bực lỗi lạc khác thường. Năm Cảnh Hưng thứ 14, được dựng làm thế tử. Năm ấy chúa mới có 12 tuổi. Một hôm quan A Bảo [11] là Nguyễn Công Thể đưa ông Lê Quí Đôn vào hầu, thế tử hỏi rằng:

— Ông đỗ đầu luôn ba kỳ thi hương, hội, đình, hẳn là cái gì cũng biết?

Lê Quí Đôn nói:

— Tôi có là thánh đâu mà cái gì cũng biết: Tôi được thế là mông Ân Vương thượng.

Thế tử cười:

— Ông mông ân ông chứ! Ông mà dốt thì Vương thượng dù muốn ban ân cho ông cũng không được. Tôi tưởng đỗ đầu cả ba kỳ thì là giỏi lắm, cái gì cũng biết.

Khi Lê Quí Đôn ra khỏi, thế tử bảo với quan A Bảo rằng:

— Ta trông Lê Quí Đôn là người cậy tài, khinh người, mà lại gian.

— Sao thế tử biết?

— Hay nhìn trộm là tính gian. Nói hay ngửa mặt lên là ý kiêu. Kiêu không đã đáng ghét, huống hồ lại gian nữa.

Năm 17 tuổi, chúa Nghị Tổ Ân Vương cho thế tử ra ở riêng, mở Lượng Quốc Phủ, phong làm Tiết Chế Thủy Bộ Chư Quân, Thái úy, Tĩnh Quốc Công, coi hết việc nước. Phàm việc các trấn, các bộ, các phiên, đều phải qua tay cả. Tĩnh Quốc Công xét đoán công việc linh lợi lắm, các quan trong triều ngoài quận đều rất phục.

Nhiều lần Tĩnh Quốc Công xui ngầm các quan khải [12] xin chúa Minh Đô gia xưng hiệu [13]- Lần thứ nhất, vào năm Cảnh Hưng 16. Vì thế, chúa Minh-Đô mới giả mệnh vua tự phong Nhất tự Vương [14] là Minh Vương – Lần thứ hai, vào năm Cảnh Hưng 27, Tĩnh Quốc Công bảo A Bảo là Nguyễn Hoãn:

— Tiên Vương ta tái tạo lại cơ đồ cho nhà Lê. Giá đức Thái Vương cứ chính danh vị ngay, thì nay việc ấy cũng thành cố sự đi rồi. Một cái nước vương hờ, sao cho xứng với Chúa thượng là chủ thần dân.

Nguyễn Hoãn chỉ cười mà không nói gì.

Thế tử gắt:

— Tiên sinh cười là nghĩa làm sao? Cười ta hay cười Chúa thượng?

Nguyễn Hoãn vội đỡ ngay:

— Tôi cười cái ngu của mấy ông tân khoa bữa nọ vào hầu thế tử mà cứ bô bô nói nhờ hồng phúc Hoàng thượng và đại nguyên súy...

— Họ ngu thật. Tiên sinh cười là phải.

Thế rồi, mấy hôm sau, lại có khải lên. Chúa Minh Đô xem xong nói:

— Bây giờ dân thì bị lụt, bị mưa, mùa màng mất, nhà cửa trôi. Ta chưa được nghe chư khanh hiến sách gì cứu dân mà chỉ thấy khải xin gia hiệu. Lúc này không phải lúc làm những việc ấy. Các khanh đừng nói đến nữa.

Từ đó việc ấy mới thôi. Ý thế tử định để cha gia hiệu trước, rồi mình sau này gia hiệu sau thì thuận tiện hơn.

Người ta nhớ nhất và để ý nhất là việc thế tử Sâm xung đột với Thái Tử Duy-Vĩ năm Giáp Thân (Cảnh-Hưng XXV — 1764).

Nguyên thế tử và thái tử hai người đều tài bộ thông minh cả, vì thế Thế tử có ý ghen ghét. Một hôm thái tử và thế tử cùng ăn cơm trong phủ Chúa. Quân hầu theo ý chúa Minh Đô Vương, trải một chiếc chiếu trên một cái sập để hai người cùng ngồi. Khi thế tử sắp leo lên sập ngồi, bà Vương phi nói rằng:

— Thế tử đối với thái tử có lễ vua tôi đối với nhau, sao lại ngồi cùng chiếu thế được?

Rồi bà khiến lính trải chiếu khác ở giường khác.

Thế tử dỗi bỏ ra, không ăn nữa.

Ra ngoài thế tử lấy chiếc đũa bẻ làm đôi mà thề rằng:

-Sâm cùng Duy Vĩ thằng nọ sống thì thằng kia chết.

Từ đó, người ta lại càng hiểu ý thế tử Sâm lắm. Tới năm thế tử Sâm thành Chúa Tĩnh Đô Vương thì ai ai cũng cầm chắc là thái tử ít ra cũng bị phế.

Làm chúa được hai năm, Chúa Tĩnh Đô giết thái tử Duy Vĩ; rồi thì luôn luôn có việc canh cải.

Từ năm Giáp Ngọ, người ta thấy cửa Đông của nhà chúa lại càng khác lắm. Lấy thêm được đất Thuận Hóa xong thì ở phương Nam cho mở trường đúc tiền ở Thuận Hóa, hợp Nam-Bắc-Bố Chính vào một gọi là phủ Hà-Hoa ; mở khoa thi hương ở Thuận-Hóa ; ở phương Bắc sai Vũ Trần Thiệu mang biểu sang sứ mật tâu nhà Thanh xin nối nhà Lê làm vua An Nam.

Năm Đinh Dậu, nhân dịp Vương tử Cán sinh, lại mở một khoa thi hương. Đầu bài năm ấy ra

Sơn xuyên anh dục,

Hà hải tú chung phú.

(Khi linh tú của non sông chung đúc lại). Sĩ tử khéo đón ý bề trên, thành ra bài thi nào cũng là một bài tán cả. Nhiều bài tán vô lối quá, quan trường phải đánh hỏng - Có bài nói lộ ý quá đến rằng: ‘‘Thiên ý nhân tâm qui Trịnh...’’ ( Ý trời, lòng người về theo Trịnh cả ), cũng bị đánh hỏng, Quyển tuy bị phê hỏng, nhưng người thì được đem vào vương phủ dùng làm nội thần.

Năm Mậu Tuất - Cảnh Hưng 39 - nhà Chúa lại triệu sĩ tử vào nội phủ, tự ra bài và tự chấm, tự hỏi lấy để lấy một bọn võ tuyển và văn tuyển cử nhân. Thật ra là ý Chúa muốn lựa lấy những người ở trong dân gian thật trung thành với họ Trịnh để dự bị sẵn. Nguyễn Danh Hiến, người khéo lựa ý Chúa một cách hoạt bát thông minh nhất, được bổ ngay.

Năm Kỷ Hợi - Cảnh Hưng 39 - Mở Thịnh Khoa.

— Khéo chẳng mà voi xéo bẹp đó.

— Ui chà! mỗ đây thì voi nào xéo bẹp được. Nếu chết dưới chân voi thì đã chết từ đời tám hoánh nào rồi, còn đâu đến ngày nay nữa.

— Coi đó! giỡn mãi! voi tiến đến sau lưng rồi kia kìa.

— Không sao cả. Mọi khoa tựu trường từ giờ Sửu, trời còn tối mò mà mỗ đây cũng cứ đi cùng với voi, còn chẳng sợ chi, nữa là bây giờ trời đương đóng Ngọ.

Đó là tiếng hai ông Đồ đương nói chuyện trên con đường từ Giảng Võ đến trường thi. Một ông sợ voi xéo bẹp nhắc bạn đi cho cẩn thận, một ông khoe mình rằng đã đi thi nhiều phen, đã từng đi lẫn với voi mà đi vào giữa lúc còn tối mặt người.

Các khoa thi trước, học trò phải chực ở cửa trường từ quá nửa đêm, đợi gọi xong tên thì vào trường làm bài từ sáng đến tối. Khoa này, trái lệ mọi năm, kỳ đệ nhất, học trò tựu trường từ trưa đến tối mới gọi hết tên. Rồi thì bắt đầu làm bài từ tối đến sáng. Khoa này vì là thịnh khoa, nên văn sách ‘‘tháu đấm’’ làm ngay vào kỳ đệ nhất.

Tới đây, kẻ chép chuyện này có lẽ cần phải nói qua về lối thi văn sách viết ‘‘tháu đấm’’ hồi nhà Lê. Vì sợ gian lận nên cứ mỗi khoa thi, đến kỳ văn sách, nhà nước bắt sĩ tử làm bài vào lúc đêm tối. Khi đã chép xong đầu bài rồi, nghe xong ba hồi trống ‘‘diệt - hỏa’’ - (diệt hỏa cổ = trống tắt lửa) là bao nhiêu nến, bạch lạp, đèn dầu trong các lều phải tắt hết. Rồi thì, sĩ tử phải lấy tay bấm phỏng lấy dòng mà viết mò trong xó tối. Vì phải viết như thế nên được phép viết tháu. Vì phải viết tháu trong xó tối nên sĩ tử mới bày ra lối viết ‘‘tháu đấm’’ cho nhanh. Lối viết tháu ấy ra ngoài cả phép tắc viết của các thiếp chữ thảo của Tàu. Chữ ‘‘tháu đấm’’ là những chữ viết một bộ phận chữ ở giữa rồi ‘‘đấm’’ hai bên tả hữu hai nét chấm. Những chữ quốc viết tháu chữ vương ở giữa rồi đấm hai bên hai chấm ; chữ tuy viết một nửa rồi đấm hai bên hai chấm v...v... là những chữ còn sót lại của hồi ấy. Mười chữ thì viết ‘‘ tháu đấm’’ đến sáu bảy. Lâu dần ‘‘tháu đấm’’ thành một lối thư pháp đặc biệt. Những bản viết hồi ấy còn sót, ít người có thể đọc được nữa. Thế mà hồi ấy, thành một thói quen các ông ấy viết tài lắm. Bấm dòng trong xó tối, thế mà các ông viết thẳng thắn lắm, chỉ phải cái tội tháu lòi tói, tháu đấm nhiều quá mà thôi.

Mọi khoa, kỳ tháu đấm thường vào kỳ cuối để hạch lại lần cuối cùng xem sĩ tử có thật làm không, xem các bài kỳ trước có phải thật làm lấy không hay là mượn ai tá gà hộ.

Khoa này nhà chúa cho kỳ ‘‘tháu đấm’’ đi trước, là muốn lọc sĩ tử ngay từ kỳ đầu cho nhanh cho tiện.

Bốn con voi vẫn từ từ tiến giữa đám sóng người lều chiếu kềnh càng. Mỗi thí sinh vác theo mình một cái lều, một đôi chiếu, một cái tráp. Cái lều để giương lên làm chỗ trú mưa nắng, cái tráp để bút mực giấy và thực phẩm đủ ăn hai bữa trong trường. Người sang trọng thì lều chiếu trao cho một tên đầy tớ mang hộ đến cửa trường, mình chỉ đeo một cái ống quyển sơn đen. Trông bọn người đi thi - hoặc người mang hộ người đi thi - thật như một bọn lính ra đi chiến trường. Trong bọn hàng nghìn vạn người ấy, người ta phân biệt các ông sĩ tử với người nhà các ông ở chỗ vai đeo ống quyển.

Đeo ống chứa quyển thi là một nghĩa vụ, là một vinh dự mà không khi nào các ông cho bọn đầy tớ người nhà được có.

Bốn con voi vẫn rẽ làn sóng người mà thủng thỉnh bước đi.

— Nghếch mắt đi đâu thế? Voi xéo chết bây giờ!

— Voi nào dám xéo cái bụng chứa kinh nghĩa văn sách, thơ phú, từ lúc này!

— Chứa cả bách gia chư tử mà vô ý thì nó cũng xéo bẹp cho mà xem.

— Bác này dáng chừng mới ‘‘đeo lọ’’ [15] đeo ống quyển một lần này? Voi đội Nội Tượng khôn lắm, có bao giờ xéo chết học trò.