← Quay lại trang sách

Chương 3 HARTGILL

Buổi sáng hôm sau, tôi mệt mỏi rã rời đến mức chật vật mãi mới buộc được dây giày. Angus và Stu nhìn nhau đầy lo lắng lúc tôi đi đến chỗ cửa sổ nhìn chòng chọc vào bức tường nơi tôi đã nhìn thấy lũ ma. Tuy nhiên không ai trong số chúng tôi mở miệng nói lời nào về những điều đã xảy ra đêm hôm trước. Lúc ăn sáng, tôi ních căng một bụng cháo yến mạch mà không bị nôn mửa, rồi quyết định quên hết mọi chuyện.

Đến giờ ăn trưa thì tôi đã trở lại với suy nghĩ liệu Râu Xồm có đang nằm dài sưởi nắng Tây Ban Nha với mẹ tôi hay không và đến chiều thì bài kiểm tra ngữ pháp làm tôi quên sạch ba cái bóng nhợt nhạt.

Trời chỉ mới bắt đầu tối khi thầy Rifkin, như mọi buổi tối, tập hợp lũ học sinh nội trú lại trước trường để dẫn chúng tôi đi qua khoảng sân thắp sáng thưa thớt của nhà thờ lớn, quay lại với vòng tay chăm sóc của bà Alma và ông Edward Popplewell. Chả ai trong số chúng tôi thích thầy Rifkin. Tôi tin rằng chính thầy cũng chẳng ưa gì bản thân mình cho lắm. Thầy không cao hơn mấy đứa chúng tôi là mấy và luôn nhìn bọn tôi với một khuôn mặt chua chát như thể chúng tôi làm thầy bị đau răng mãn tính vậy. Điều duy nhất khiến thầy Rifkin hạnh phúc là những trận chiến xưa cũ. Thầy đã hào hứng mài hết ít nhất một tá cây phấn để vẽ lại trận đồ dàn quân của mấy trận đụng độ quân sự nổi tiếng. Việc đó, và cả những cố gắng vô vọng trong việc chải mấy sợi tóc lơ thơ che đi cái đầu hói, đã mang lại cho thầy biệt danh Bonapart (vâng, tôi biết là thiếu mất một chữ “e” - cơ mà đánh vần tiếng Pháp không phải là điểm mạnh của chúng tôi).

Trên bãi cỏ trước nhà thờ, mấy ngọn đèn pha cũng vừa mới bật lên. Ánh đèn pha tẩy trắng những bức tường, cứ như thể ai đó đã tráng qua chúng bằng ánh trăng vậy. Vào quãng đó buổi tối, sân nhà thờ thường chả có ai và thầy Bonapart nôn nóng xua chúng tôi đi qua bãi đỗ xe. Không khí buổi tối mát rượi, và trong lúc cả bọn rùng mình trong cơn gió ẩm ướt của đêm tối nước Anh, tôi tự hỏi không biết Râu Xồm đã cháy nắng đen thui chưa và liệu điều đó có khiến ông ta bớt hấp dẫn trong mắt mẹ không.

Ba gã kỵ sĩ bóng ma, vào thời điểm đó, chỉ còn là một cơn ác mộng bị gột sạch khỏi ký ức bởi ánh sáng ban ngày. Tuy nhiên, bọn chúng lại chưa hề quên tôi. Và lần này chúng quyết chứng minh cho tôi thấy chúng không phải chỉ là những sản phẩm từ trí tưởng tượng phong phú của tôi.

Khu nhà nội trú không nằm trên mặt phố. Nó nằm ở phía cuối một vỉa hè rộng tách ra từ con phố, dẫn qua vài ngôi nhà tới một cánh cổng, phía bên kia cánh cổng là khu nhà và khoảng vườn. Và chính ở bên cạnh cánh cổng ấy, bọn chúng đang đợi tôi. Chúng vẫn ngồi trên lưng ngựa, hệt như tối hôm trước. Chỉ khác là lần này có những bốn gã.

Tôi dừng lại đột ngột khiến Stu đâm sầm vào lưng tôi.

Tất nhiên là nó không nhìn thấy bọn chúng. Chả ai thấy chúng cả. Ngoại trừ tôi.

Con ma thứ tư khiến ba con ma còn lại trông như những kẻ côn đồ vô gia cư. Khuôn mặt hốc hác của lão cứng đơ với một vẻ tự phụ phô trương và bộ y phục của lão rõ ràng là đã từng thuộc về một kẻ giàu có. Tuy nhiên, lão lại mang xích sắt quanh cổ tay và thòng lọng trên cổ.

Trông lão ghê rợn đến mức tôi chỉ biết đứng nhìn chằm chằm. Thế mà thầy Bonapart lại thản nhiên đi xuyên qua lão, chả buồn ngoái đầu lại.

Khi đứng đó, tay chân đờ ra, tôi nghe thấy trong đầu vang lên tiếng thì thầm: Đi tiếp đi, Jon Whitcroft, tốt hơn hết là mày nên đối mặt với chúng. Mày nghĩ tại sao không ai khác có thể nhìn thấy bọn chúng chứ? Bọn chúng bám theo mày, chỉ mình mày mà thôi!

Nhưng tại sao? - tôi gào lại trong đầu. Khốn kiếp, tại sao lại là mình? Bọn chúng muốn gì từ mình?

Một con quạ cất tiếng kêu từ một mái nhà gần đó, và con ma cầm đầu thúc ngựa, như thể tiếng kêu khàn khàn của con chim đã gửi tín hiệu đến cho lão. Con ngựa chồm lên với một tiếng hí khô khốc - và tôi quay mình bỏ chạy.

Tôi không phải là một đứa giỏi môn chạy. Nhưng tối hôm đó, tôi đã chạy vì mạng sống của mình. Bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn có thể cảm thấy tim mình đập thình thịch với những cơn đau như muốn nổ tung lồng ngực. Tôi chạy qua những ngôi nhà cổ núp dưới bóng nhà thờ như đang cố tìm kiếm chút chở che khỏi thế giới ồn ào bên ngoài những bức tường; tôi chạy qua bãi đỗ xe, những ô cửa sổ sáng đèn và những cánh cổng khóa chặt, chạy đi, Jon! Đằng sau tôi, tiếng vó ngựa vang vọng dọc khoảng sân tối tăm và tôi nghĩ mình có thể cảm thấy hơi thở của mấy con ngựa ma quỷ phà vào cổ.

“Whitcroft!” thầy Bonapart thét gào tên tôi. “Whitcroft, có chuyện quái quỷ gì đang xảy ra vậy? Dừng lại ngay!” Nhưng lũ ma đang đuổi theo tôi, và rồi bỗng nhiên tôi nghe thấy một giọng nói nữa... nếu như đó là từ ta có thể dùng để gọi âm thanh ấy.

Tôi nghe thấy nó trong đầu và trong tim mình. Trầm, khàn và hoang dại như có một con dao cùn xuyên qua người tôi.

“Đúng rồi đấy! chạy đi, Hartgill!” giọng nói chế nhạo tôi. “Cứ chạy đi! Bọn ta không yêu thích gì hơn việc săn lùng lũ người bẩn thỉu tụi bây. Và chưa ai trong số chúng bây từng trốn thoát đâu.”

Hartgill? Đó là tên thời con gái của mẹ tôi. Dẫu vậy, trông bọn chúng không có vẻ gì là sẽ để ý đến những chi tiết đó. Tôi luống cuống, thổn thức trong nỗi sợ hãi khôn cùng. Con ma tóc bù xù đang cố chặn đầu tôi trong khi ba gã còn lại bám sát sau lưng. Bên phải tôi là nhà thờ, ngọn tháp vẫn đang vươn lên những vì sao.

Có lẽ tôi chạy về hướng đó bởi có vẻ như không gì có thể xâm nhập qua những bức tường của nhà thờ. Bãi cỏ rộng bao quanh nhà thờ ướt sũng sau cơn mưa khiến tôi liên tục trượt chân, cho đến khi cuối cùng tôi cũng quỵ gối xuống, há miệng hớp lấy không khí. Tôi cuộn tròn trên nền đất lạnh, run rẩy, hai tay ôm đầu, cứ như làm thế có thể giúp tôi trở nên vô hình với những kẻ đang truy đuổi mình. Cái lạnh giá buốt bao quanh tôi như một lớp sương. Tôi nghe thấy tiếng ngựa hí phía trên mình.

“Kết liễu mà không phải săn đuổi thì chả vui vẻ gì, Hartgill!” giọng nói thì thầm trong đầu tôi. “Mặc dù lũ thỏ nhãi nhép kiểu gì cũng chết thôi.”

“Tên... tên tôi là... Whitcroft!” tôi lắp bắp. “Whitcroft!” Tôi muốn vùng lên đấm đá lại bọn chúng, tống lũ ma trắng ởn đó xuống lại địa ngục hoặc bất cứ đâu mà chúng chui ra. Ngược lại, tôi thu mình trên đám cỏ ướt và tí nữa thì nôn hết ra.

“Whitcroft!” thầy Bonapart cúi người về phía tôi. “Whitcroft, đứng dậy đi!”

Chưa bao giờ trong đời tôi thấy hạnh phúc khi nghe giọng một giáo viên đến thế. Tôi giấu mặt mình trong đám cỏ, thổn thức - lần này là vì nhẹ nhõm.

“Jon Whitcroft! Nhìn thầy này.”

Tôi làm như thầy Bonapart bảo. Thầy nhìn vào khuôn mặt đẫm nước mắt của tôi và nhanh chóng rút từ trong túi ra một chiếc khăn tay. Tôi đưa những ngón tay run rẩy với lấy chiếc khăn trước khi thận trọng nhòm qua vai thầy.

Những bóng ma đã biến mất. Giọng nói cũng vậy. Nhưng nỗi sợ hãi thì vẫn còn nguyên, dính chặt vào trái tim tôi như bồ hóng.

“Quỷ thần ơi! Whitcroft! Em đứng lên được rồi đấy!” thầy Bonapart kéo tôi dậy. Bọn trẻ đã đứng hết ở mép bãi cỏ, mắt mở to lom lom nhìn chúng tôi.

“Cầu Chúa là em có thể giải thích cho việc chạy tán loạn giữa đêm này?” thầy Bonapart hỏi, nhìn cái quần dính đầy bùn của tôi với vẻ ghê tởm không che giấu. “Hay là em định chứng minh khả năng chạy tốc độ của mình?”

Lão già vênh váo.

Hai đầu gối tôi vẫn còn đang run lẩy bẩy, nhưng tôi vẫn cố hết sức để tỏ ra bình tĩnh khi trả lời thầy, “Có bốn con ma. Ba con cưỡi ngựa. Chúng... chúng đuổi theo em.”

Những lời này khi nói ra nghe thật ngu xuẩn, đến lỗ tai tôi cũng thấy không lọt. Tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng, ước gì mặt cỏ ẩm ướt có thể nuốt trọn tôi ngay tại đây. Sợ hãi và hổ thẹn. Tình hình có thể nào xấu hơn không? Ồ có đấy, Jon. Có thể đấy... và đúng là nó sẽ xấu đi thật.

Thầy Bonapart thở dài. Thầy liếc nhìn về phía nhà thờ với vẻ cực kỳ điên tiết, cứ như thể nhà thờ cổ đã gợi ý cho tôi ý tưởng câu chuyện vậy.

“Tốt thôi, Whitcroft,” thầy nói, kéo mạnh tôi ngược về phía con phố. “Theo thầy thấy thì em đã có một cơn nhớ nhà dữ dội hiếm thấy. Có lẽ những con ma đó đã ra lệnh cho em chạy về nhà. Đúng thế không?”

Chúng tôi đến chỗ cả đám đang đứng, một vài đứa con gái bắt đầu cười khúc khích. Tuy nhiên, những đứa khác thì nhìn tôi một cách lo lắng, y như Stu vào đêm hôm trước.

Đáng ra tôi nên cắn lưỡi, nuốt cơn tức giận xuống, bất chấp cả đống sự mù quáng và chế giễu đầy bất công. Nhưng tôi chưa bao giờ giỏi nuốt cái gì xuống - đến giờ tôi vẫn chưa học được điều đó.

“Bọn chúng đã ở đó! Em thề! Sao việc không ai khác có thể thấy chúng lại là lỗi của em? Bọn chúng đã suýt giết chết em!”

Một sự im lặng nặng như chì khiến cả nhóm chùng xuống. Một vài đứa nhỏ hơn nhích xa ra khỏi tôi, cứ như thể cơn điên của tôi có thể lây lan vậy.

“Rất ấn tượng!” thầy Bonapart nói, những ngón tay múp míp của thầy bóp chặt lấy vai tôi. “Thầy mong em cũng sẽ phô ra ngần đấy trí tưởng tượng trong bài kiểm tra lịch sử tới.”

Thầy Bonapart chỉ chịu bỏ vai tôi ra khi đã giao tôi cho ông bà Popplewell. Thật may là thầy không hề nhắc một lời về việc đã xảy ra. Stu và Angus giữ im lặng trong suốt phần còn lại của buổi tối. Đến lúc đó chúng nó đã tin chắc là mình đang ở cùng phòng với một thằng điên và bắt đầu lo lắng về những điều sẽ xảy ra khi tôi hoàn toàn mất trí.