
Bóng Ma Trong Nhà Thờ Cổ
Tổng số chương: 23
Tặng Ella Wigram,
nguyên mẫu cho nhân vật nữ chính của câu chuyện này.
Tôi không thể nào sáng tạo ra một nhân vật nào hay hơn thế.
Hồi tôi mười một tuổi, mẹ gửi tôi vào trường nội trú ở Salisbury, ừ thì bà cũng rơm rớm nước mắt lúc đưa tôi ra nhà ga đấy. Nhưng vâng, bà vẫn quyết tống cổ tôi lên tàu.
“Bố sẽ rất hạnh phúc nếu biết con đến học trường của bố ngày xưa!” bà nói, cố nặn ra một nụ cười. Râu Xồm vỗ vai tôi ra vẻ động viên làm tôi suýt đẩy ông ta xuống đường tàu.
Râu Xồm. Lần đâu tiên mẹ mang ông ta về nhà, mấy đứa em tôi tót ngay lên lòng ông ta. Còn tôi thì tuyên bố chiến tranh ngay khi nhìn thấy ông ta vòng tay qua vai mẹ. Bố mất năm tôi bốn tuổi và tất nhiên là tôi thấy nhớ bố, mặc dù đầu tôi gần như chả còn đọng lại điều gì về ông. Nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là tôi muốn một người bố mới, càng không phải một kẻ có dáng vẻ của một lão nha sĩ không chịu cạo râu. Tôi đã từng là người đàn ông của cái nhà này, làm người hùng của lũ em và cục vàng trong mắt mẹ mà chẳng bị ai tranh giành. Bỗng dưng, bà không thèm xem ti vi với tôi hằng tối nữa, thay vào đó bà đi chơi với Râu Xồm. Con chó của chúng tôi vẫn hay rượt đuổi mọi người ra khỏi sân nhà, thế mà giờ lại ngoe nguẩy đặt mấy cái đồ chơi chút chít trước chân ông ta, còn bọn em tôi thì vẽ những trái tim to đùng cho ông ta. “Nhưng chú ấy rất tốt mà, Jon!” là điều tôi đã phải nghe đi nghe lại. Tốt. Chính xác thì ông ta có gì tốt đẹp chứ? Tốt ở chỗ ông ta thuyết phục mẹ là mọi thứ tôi thích ăn đều độc hại? Hay tốt ở chỗ ông ta mách mẹ là tôi xem ti vi quá nhiều?
Tôi tìm mọi cách để đuổi ông ta đi. Đã hàng tá lần tôi giấu chùm chìa khóa nhà mẹ đưa cho ông ta. Tôi đổ Coca lên đống tạp chí nha sĩ của ông ta (vâng, đúng là có loại tạp chí dành cho nha sĩ đấy). Tôi trộn bột ngứa vào lọ nước súc miệng ưa thích của ông ta. Tất cả đều vô dụng. Cuối cùng chả phải ông ta, mà là tôi bị mẹ tống lên tàu. Không bao giờ được đánh giá thấp đối thủ! - sau này ngài Longspee đã dạy tôi thế. Nhưng hồi ấy tôi vẫn chưa gặp ngài.
Quyết định tống cổ tôi ra khỏi nhà có lẽ đã được đưa ra sau cái lần tôi thuyết phục con bé út đổ cháo vào giày của ông ta. Hoặc là lần tôi ghép ảnh ông ta vào tấm áp phích TRUY NÃ TỘI PHẠM KHỦNG BỐ. Dù lý do là gì thì tôi dám lấy máy chơi điện tử của mình ra cá rằng trường nội trú là ý tưởng của Râu Xồm, ngay cả khi mẹ tôi đến tận bây giờ vẫn cứ chối đây đẩy.
Tất nhiên mẹ đề nghị được đích thân đưa tôi đến trường mới và ở lại một vài ngày tại Salisbury “cho đến khi con cảm thấy quen”. Nhưng mà tôi từ chối. Tôi dám chắc mẹ làm thế chỉ để xoa dịu lương tâm tội lỗi thôi, bởi vì bà đã lên kế hoạch đi nghỉ ở Tây Ban Nha với Râu Xồm trong khi tôi phải một mình đương đầu với thầy cô giáo hoàn toàn mới, đống thức ăn dở tệ của trường nội trú và lũ bạn mới cùng phòng mà đa số chắc sẽ to khỏe và thông minh hơn hẳn tôi.
Tôi chưa bao giờ xa gia đình lâu quá hai ngày cuối tuần. Tôi không thích ngủ trên giường lạ và tôi chắc chắn là không muốn đi học ở một cái thành phố đã hơn một ngàn tuổi mà còn tự hào về điều đó. Đứa em gái tám tuổi của tôi thì lại mơ ước được đổi chỗ với tôi. Nó đang đọc Harry Potter và lúc nào cũng mong được học ở trường nội trú. Ngược lại, ác mộng của đời tôi là bọn trẻ con mặc những bộ đồng phục gớm ghiếc, ngồi trong đại sảnh cáu bẩn, trước mặt là những cái tô chỉ toàn một thứ cháo loãng toẹt và bị những ông giáo bà giáo tay lăm lăm thước kẻ đứng giám sát.
Tôi im lặng suốt quãng đường đến nhà ga. Tôi thậm chí không thèm hôn tạm biệt mẹ khi bà nhấc hành lý của tôi lên tàu. Tôi sợ tôi sẽ sụp đổ, sẽ biến thành một đứa trẻ khóc nhè trước mặt Râu Xồm. Tôi dành trọn cả chuyến tàu để cắt dán thư nặc danh từ mấy tờ báo cũ, tất cả đều đe dọa Râu Xồm phải rời bỏ mẹ tôi ngay lập tức nếu không muốn gặp phải một cái chết đau đớn, khủng khiếp. Ông già ngồi cạnh cứ chăm chăm dòm tôi với vẻ cảnh giác mỗi lúc một tăng, nhưng cuối cùng tôi vứt hết đống thư vào nhà vệ sinh trên tàu. Tôi tự nhủ là mẹ chắc hẳn sẽ đoán ra những bức thư đó đến từ đâu và sau đó bà sẽ lại càng thích ông ta hơn thôi.
Tôi biết mà. Tôi đang ở trong một hoàn cảnh thật thê thảm. Chuyến tàu kéo dài một tiếng chín phút. Đã tám năm rồi mà tôi vẫn nhớ đến từng chi tiết. Bristol - Bath - Westbury. Các ga tàu trông y như nhau và cứ mỗi dặm trôi qua, tôi lại càng thêm cảm giác mình bị xua đuổi. Sau nửa tiếng, tôi đã ngấu nghiến hết đống sô cô la mà mẹ gói cho tôi. (Theo như tôi nhớ thì là chín thanh - bà đã cảm thấy vô cùng tội lỗi!) Cứ khi nào mọi thứ bắt đầu nhòe đi mỗi lần tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi lại cố trấn an bản thân đó không phải nước mắt, chỉ là nước mưa chảy dọc theo ô cửa sổ đã làm nhòe tầm nhìn của tôi.
Tôi đã nói mà - thê thảm.
Khi kéo lê cái va li ra khỏi con tàu ở Salisbury, tôi thấy mình bé nhỏ khủng khiếp và cùng lúc đó cũng thấy như bị già đi cả trăm tuổi. Bị xua đuổi. Vô gia cư. Không mẹ, không chó, không em gái. Tôi nguyền rủa Râu Xồm! Tôi đặt va li xuống chân, gửi một lời cầu nguyện đến địa ngục, cầu xin một loại dịch bệnh lây lan đến hết thảy hội nha sĩ đang đi nghỉ ở Tây Ban Nha.
•••
Tức giận thoải mái hơn tự thương hại bản thân nhiều. Đồng thời, nó cũng là một tấm khiên hữu ích chống lại mọi cái nhìn tò mò.
“Jon Whitcroft?”
Ngược lại với Râu Xồm, người đàn ông đang đón lấy cái va li từ tay tôi và lắc lắc mấy ngón tay dính đầy sô cô la của tôi không có lấy một cọng râu. Ông Edward Popplewell có khuôn mặt tròn và nhẵn thín như mặt tôi (tôi sớm phát hiện ra là điều đó làm ông buồn khổ rất nhiều). Oái oăm thay bà vợ lại có một hàng ria đậm mọc lún phún phía trên môi. Giọng của bà Alma Popplewell cũng trầm hơn ông chồng nữa.
“Chào mừng cháu đến với Salisbury, Jon!” bà nói, cố nén cái rùng mình khi ấn tờ khăn giấy vào những ngón tay nhớp nháp của tôi. “Cháu có thể gọi ta là Alma, còn đây là Edward. Chúng ta quản lý khu nội trú. Mẹ cháu đã nói là chúng ta sẽ đến đón, phải không?”
Người bà sực mùi xà phòng oải hương làm tôi tí thì ọe -hoặc cũng có thể là do đống sô cô la. Quản lý... tuyệt! Tôi muốn có lại cuộc sống cũ của mình: con chó của tôi, mẹ tôi, lũ em tôi (mặc dù không có chúng cũng được) và đám bạn ở trường cũ của tôi... không có Râu Xồm, không có ông quản lý không râu và không có bà bảo mẫu sực mùi xà phòng oải hương.
Ông bà Popplewell tất nhiên là đã quá quen với lũ học sinh mới bỡ ngỡ hay nhớ nhà rồi. Khi chúng tôi rời khỏi nhà ga, ông Edward Không Râu cứ kiên quyết đặt tay lên vai tôi như thể muốn đè nát mọi ý định chạy trốn trong đâu tôi vậy. Ông bà Popplewell không lái xe. (Vài tin đồn ác ý cho là do tình yêu vĩ đại của ông Edward với rượu whiskey và niềm tin vững chắc của ông vào việc nốc rượu thường xuyên sẽ giúp nhú lên mấy sợi râu trên cái má nhẵn nhụi như em bé của ông ta.) Dù lý do có là gì đi nữa, chúng tôi đã phải cuốc bộ và ba mươi phút đi bộ đã được ông Edward tận dụng một cách hết mức có thể để nhồi sọ tôi về Salisbury. Bà Alma ngắt lời chồng mình ở những đoạn về ngày tháng, bởi ông lẫn lộn khá nhiều. Nhưng lẽ ra bà chả phải bận tâm. Tôi nào có buồn để tâm lắng nghe.
Salisbury. Được thành lập trong đám sương mù ẩm ướt thời tiền sử. Năm mươi ngàn dân và hơn ba triệu khách du lịch đến thăm mỗi năm chỉ để nhìn chòng chọc vào cái nhà thờ lớn. Thành phố chào đón tôi bằng một trận mưa như trút nước. Tòa tháp nhà thờ lớn vươn lên giữa đống mái nhà ướt rượt của thành phố như một ngón tay cảnh báo. Nghe đây, Jon Whitcrojt và đám con trai trong thế giới của cậu ta. Bọn mi đúng là đồ ngốc mới đi tin rằng mẹ bọn mi yêu bọn mi hơn tất thảy mọi thứ trên đời.
Tôi chả buồn nhìn trái nhìn phải gì khi chúng tôi đi bộ dọc con phố tồn tại từ thời Bệnh Dịch Đen hoành hành khắp chốn. Ở đâu đó giữa đường, ông Edward Popplewell mua cho tôi một cây kem (“Giữa trời mưa thì kem vẫn ngon, phải không, Jon?”), nhưng vì đang chìm đắm trong cảm giác bất mãn với thế giới, tôi chả nặn ra nổi một lời “cảm ơn”. Thay vào đó, tôi tưởng tượng cảnh bôi đầy sô cô la lên chiếc cà vạt xám nhợt của ông.
Lúc đó là cuối tháng Tám, và mặc kệ trời mưa, khách du lịch vẫn bủa ra đường. Các quán ăn đều ra sức chào mời các suất cá tẩm bột rán kèm khoai tây chiên đặc biệt, quầy kính trưng bày của các cửa hàng sô cô la thì nhìn khá mời gọi, nhưng ông bà Popplewell cứ thế tiến thẳng đến cánh cổng ở bức tường cổ của thành phố, nơi mà phía trước có các cửa hàng bé xíu cụm lại, bán rặt những bức tượng nhựa màu bạc hình nhà thờ lớn, hiệp sĩ và những con quỷ khạc ra nước. Cảnh tượng phía bên kia cánh cổng mới là điều khiến những kẻ xa lạ kia vác những cái ba lô lòe loẹt và bữa trưa đóng hộp kéo xuống Phố chính. Tôi thậm chí còn không ngẩng đầu lên khi sân nhà thờ mở ra trước mặt. Tôi không buồn ngước mắt nhìn nhà thờ và ngọn tháp tối sầm trong mưa hay đống nhà cổ vây quanh như một đám người hầu bảnh tỏn. Tất cả những gì tôi thấy là Râu Xồm ngồi trên sofa nhà chúng tôi, trước cái ti vi của chúng tôi, mẹ ngồi bên phải, lũ em tôi ngồi bên trái đang tranh nhau xem ai được trèo lên lòng ông ta trước và Larry, con chó bội bạc, cuộn tròn dưới chân ông ta. Trong khi ông bà Popplewell đang tranh cãi phía trên đầu tôi về việc nhà thờ lớn được hoàn thành chính xác vào năm nào, tôi nhìn thấy căn phòng trống trải của tôi, cái ghế trống trải của tôi trong lớp học cũ. Chả phải tôi từng bao giờ thực sự thích thú khi ngồi trên nó, nhưng bỗng nhiên ý nghĩ về nó khiến tôi suýt khóc, tôi cầm chiếc khăn tay sực mùi hoa oải hương (và giờ thì bị nhuốm màu nâu sô cô la) bà Alma đưa chùi vội những giọt nước mắt.
Hầu hết những ký ức về ngày tôi đến trường đều bị che phủ bởi vùng sương mù dày đặc của nỗi nhớ nhà. Mặc dù nếu cố gắng hết sức, tôi cũng nhớ ra được mấy hình ảnh nhòe nhoẹt: cánh cổng của khu nội trú cổ kính (“Được xây năm 1565, Jon!” - “Vớ vẩn, Edward, năm 1685!”), những dãy hành lang hẹp, những căn phòng đầy mùi xa lạ, những giọng nói xa lạ, những khuôn mặt xa lạ, đống thức ăn ám mùi nỗi nhớ nhà mà tôi phải cố lắm mới nuốt được mấy miếng...
•••
Ông bà Popplewell phân tôi vào một căn phòng ba giường ngủ.
“Jon, đây là Angus Mulroney và Stuart Crenshaw,” bà Alma giới thiệu lúc đẩy tôi vào phòng. “Ta chắc bọn cháu sẽ sớm thân nhau thôi.”
Thật ư? Nếu không thì sao? tôi nghĩ, đảo mắt một vòng đống áp phích mà hai đứa cùng phòng dán kín trên tường. Tất nhiên là có một cái của ban nhạc mà tôi ghét cay ghét đắng, ở nhà, tôi có một phòng riêng với tấm biển trước cửa để: NGƯỜI LẠ VÀ NGƯỜI NHÀ TUYỆT ĐỐI CẤM VÀO. Ở đó, không ai ngáy bên cạnh tôi hay phía dưới tôi, không có những đôi tất đẫm mồ hôi trên thảm (trừ tất của tôi), không bật loại nhạc mà tôi không thích nghe hoặc dán áp phích của những ban nhạc và đội bóng đá tôi ghét. Tại thời điểm đó, độ căm hận của tôi với Râu Xồm đã lên đến ngưỡng mà Hamlet cũng khó bì. (Mặc dù thực lòng thì hồi đó tôi chả biết gì về Hamlet cả.)
Stu và Angus cố gắng hết sức để làm tôi vui lên, mặc dù ban đầu tôi chán đến mức chả thèm nhớ tên chúng nó. Tôi chả buồn nhận lấy cái kẹo dẻo nào mà chúng nó mời từ kho đồ ngọt tuyệt mật (và vô cùng trái phép) của chúng nó. Tối hôm ấy khi mẹ gọi điện, tôi đã để cho bà phải tin rằng bà đã hy sinh hạnh phúc của đứa con trai duy nhất để đổi lấy hạnh phúc của một gã râu xồm xa lạ và khi gác máy, tôi có một niềm tin tàn nhẫn là bà cũng sẽ có một đêm mất ngủ giống như tôi.
Trường nội trú. Tắt đèn lúc tám giờ ba mươi phút. Thật may là tôi đã nghĩ ra mà đóng gói theo một cái đèn pin. Tôi dành hàng giờ liền để vẽ những tấm bia mộ có tên Râu Xồm trong khi nguyền rủa tấm đệm cứng ngắc và cái gối bẹp gí ngu ngốc.
Vâng. Đêm đầu tiên của tôi ở Salisbury khá là cay nghiệt. Lý do cho nỗi buồn sâu thẳm của tôi đêm đó tất nhiên sẽ thật vớ vẩn nếu đem so sánh với những gì sắp xảy ra. Nhưng làm sao mà tôi biết được là nỗi nhớ nhà và Râu Xồm sẽ sớm chẳng còn đáng để tôi phải bận tâm nữa? Từ lúc đó tôi đã luôn tự hỏi bản thân liệu thực sự có cái gọi là số phận không và nếu có thì có cách nào để tránh được nó không. Liệu tôi có đến Salisbury này kể cả khi mẹ không yêu thêm một lần nữa? Hay liệu có phải tôi sẽ không bao giờ gặp được ngài Longspee, lão Stourton và Ella nếu không có Râu Xồm? Có lẽ là vậy.
Danh sách chương
- Chương 1 ĐI ĐÀY
- Chương 2 BA CON MA
- Chương 3 HARTGILL
- Chương 4 ELLA
- Chương 5 MỘT VỤ THẢM SÁT CŨ
- Chương 6 LỜI THỀ BỊ QUÊN LÃNG
- Chương 7 VỊ HIỆP SĨ QUÁ CỐ
- Chương 8 MỘT BUỔI CHIỀU KHÔNG QUÁ TỆ
- Chương 9 TRÁI TIM BỊ ĐÁNH CẮP
- Chương 10 NHỮNG HỒN MA ĐỘC ĐỊA
- Chương 11 LÂU ĐÀI CỦA NGÀI LONGSPEE VÀ CON MA DÀN HỢP XƯỚNG
- Chương 12 CHÚ CỦA ELLA
- Chương 13 NHÀ THỜ DÒNG HỌ HARTGILL
- Chương 14 BỘ DA XÁC CHẾT
- Chương 15 KẾT THÚC
- Chương 16 MẢNG TỐI CỦA NGÀI LONGSPEE
- Chương 17 HÒN ĐẢO CỦA CON MA DÀN HỢP XƯỚNG
- Chương 18 BUỔI LỄ TỐI
- Chương 19 TU VIỆN LACOCK
- Chương 20 BẠN BÈ
- Chương 21 CŨNG KHÔNG PHẢI LÀ NƠI TỆ LẮM
- LỜI TÁC GIẢ
- CHÚ GIẢI