Chương 4 ELLA
Đêm hôm đó, mặc kệ tất cả mọi chuyện, Angus và Stu vẫn ngủ ngon, trong khi tôi đương nhiên là không chợp mắt được tí nào. Trong cơn tuyệt vọng, tôi thậm chí đã nghĩ đến việc gọi điện cho mẹ. Nhưng tôi sẽ nói gì với bà đây? Mẹ, hãy quên Tây Ban Nha đi. Có bốn con ma đang săn lùng con, kẻ cầm đầu gọi con là Hartgill và lão ta đe dọa sẽ giết chết con ư? Không. Bà sẽ kể hết mọi thứ cho Râu Xồm, mà chả có nha sĩ nào trên hành tinh này lại đi tin vào ma quỷ cả. Ông ta sẽ chỉ thuyết phục mẹ rằng đấy lại là một trong những chiêu trò của tôi để làm cuộc sống của bà khốn khổ.
Hãy quen với việc đó đi, Jon Whitcroft, tôi tự nhủ. Có vẻ như mày sẽ chả còn sống để mà dự lễ sinh nhật tuổi mười hai của mình đâu. Mặt trời đã mọc mà tôi vẫn đang băn khoăn về việc liệu sau khi bị giết tôi có biến thành một bóng ma ám Salisbury mãi mãi, hù dọa thầy Bonapart và ông bà Popplewell không. Rất có thể đấy, Jon, tôi tự nhủ, nhưng trước hết mày phải chắc chắn một điều đã: đó là mày không trở thành trò đùa cho cả trường. Thực ra điều đó không thực sự có ý nghĩa gì với một người sắp chết, nhưng tôi chưa bao giờ giỏi chịu đựng việc bị cười nhạo.
Sáng hôm sau, tôi kể với Angus và Stu là tôi đã phịa ra toàn bộ câu chuyện ma quỷ chỉ để gạt thầy Bonapart. Cả hai đứa nhìn tôi như gỡ bỏ được một gánh nặng (dù gì thì ai mà muốn ở cùng phòng với đứa điên chứ?) và sự lo lắng của Stu ngay lập tức chuyển thành ngưỡng mộ. Trong bữa sáng, nó truyền bá các phiên bản mới về sự việc của tôi thành công đến mức trong lúc thầy Bonapart đang cố gắng giải thích về chiến lược của Richard Tim Sư Tử trong cuộc tấn công thành Jerusalem, hai đứa lớp bốn bắt đầu kêu gào, tự nhận là chúng có thể nhìn thấy bóng ma của ngài, dính đầy máu, đứng bên cạnh bảng đen. Nhờ chuyện đó mà chúng phải cùng tôi chịu cấm túc ở thư viện. Ít nhất tôi không bị coi là điên rồ nữa mà thật ra còn trở thành một dạng anh hùng.
Giá như tôi có thể cảm thấy như vậy. Thay vào đó, nỗi sợ hãi gần như bóp nghẹt tôi. Vào bữa trưa, trong khi mọi người đang ngấu nghiến món thịt băm và khoai tây nghiền, tôi nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, băn khoăn tự hỏi không biết cái ngày tháng Tám xám xịt này đã phải ngày cuối cùng của đời mình chưa.
Tôi cố nhét vào bụng một ít thịt băm, tự nhủ là mình sẽ không có sức để mà chạy nếu bỏ đói bản thân. Bỗng nhiên, một đứa con gái ngồi xuống đối diện tôi.
Suýt chút nữa thì tôi đút nhầm thịt vào mũi.
Điều này chưa bao giờ xảy ra. Chưa bao giờ. Bọn con gái tuổi tôi thường tránh xa lũ con trai. Ngay cả lũ con gái nhỏ tuổi hơn cũng luôn thấy cần phải chỉ ra cho bọn con trai lớn hơn thấy chúng nghĩ bọn tôi trẻ con thế nào.
Đứa con gái này không ở nội trú, nhưng tôi đã nhìn thấy nó một vài lần trên sân chơi. Điểm nổi bật nhất của nó là mái tóc dài tối màu. Mái tóc lúc nào cũng bồng bềnh quanh người như một chiếc khăn voan mỗi khi nó bước đi.
“Này, thế có bốn gã hả?” nó thản nhiên nói, cứ như thể đang hỏi về thức ăn trên đĩa của tôi vậy (mà thực ra chả có bao nhiêu thứ ở đó để nói).
Nó nhìn tôi đầy chủ ý, kiểu như đang cân đo đong đếm tôi từ trong ra ngoài, chỉ Ella mới có thể nhìn ai đó như thế. Nhưng vào thời điểm đó tôi còn chưa biết tên nó. Nó chưa tự giới thiệu. Ella không bao giờ phí thời gian vào những từ ngữ thừa thãi.
Mặc dù có tới hai đứa em gái, tôi vẫn không giỏi đối phó với lũ con gái. Có khi mấy đứa em còn làm tôi vụng về hơn ý chứ. Đơn giản là tôi chả biết phải nói chuyện gì với chúng. Và tệ hơn nữa là Ella lại rất xinh - điều này làm tôi bị đỏ mặt xấu hổ. (Rất may là bây giờ tôi đã kiểm soát được vấn đề này.) Dù sao đi nữa thì tôi cũng bắt đầu thuật lại câu chuyện chơi khăm thầy Bonapart. Nhưng một cái liếc lạnh lùng từ nó làm mọi từ ngữ chết lịm ngay trên đôi môi tôi.
Nó rướn người qua bàn. “Giữ phiên bản ấy cho những đứa khác đi,” nó thấp giọng nói. “Bọn chúng trông ra sao?”
Nó muốn nghe sự thật. Tôi không tin nổi. Nhưng cho dù tôi muốn nói ra với một ai đấy đến mức nào đi chăng nữa - nó vẫn là một đứa con gái! Nhỡ nó cười vào mặt tôi thì sao? Nhỡ nó đi kể với tất cả lũ bạn gái của nó Jon Whitcroft là một đứa đần độn đi tin vào ma quỷ thì sao?
“Chúng trông chết chóc. Chứ chúng có thể trông thế nào khác được?” Tôi tránh nhìn thẳng vào nó mà cứ chăm chăm dòm xuống mấy cái móng tay của mình - chỉ để nhận ra là móng tay của tôi thật bẩn. (Sự xuất hiện của một đứa con gái làm cho ta nhận ra những điều như vậy đấy.) Thế quái nào mà nó không xấu hổ nhỉ? Tôi tự đưa ra câu trả lời cho bản thân: Bởi vì, đồ ngốc ạ, giống loài con gái của nó không dễ xấu hổ như mày. Chúng nó cũng không lắp bắp cứ như thể đã quên mất cách nói chuyện đâu.
“Bọn chúng ăn mặc thế nào?”
Vâng, một câu hỏi đúng kiểu con gái. Ella với lấy cái dĩa và bắt đầu ăn món khoai tây nghiền của tôi.
“Thì kiểu cổ điển ấy,” tôi cằn nhằn, “Ủng, kiếm,...”
“Thế kỷ nào?” Ella lấy một dĩa đầy khoai tây nghiền nữa.
“Thế kỷ nào ư?” tôi sửng sốt. “Sao tớ biết được? Bọn chúng nhìn như kiểu vừa trèo ra từ một bức tranh khốn kiếp nào đó ấy.” (Không được nói bậy nữa, Jon! Tôi bắt đầu nói bậy bất cứ khi nào lúng túng. Bao nhiêu năm rồi mẹ đã cố bắt tôi sửa thói quen đó.)
“Cậu có nhìn được xuyên qua chúng không?”
“Có!” Thật tốt khi cuối cùng cũng nói ra được với ai đó về lũ ma. Kể cả khi tôi vẫn đang vật lộn với sự thật là tôi đang nói chuyện với một đứa con gái.
Ella tiếp nhận lời miêu tả của tôi một cách thản nhiên như thể tôi đang miêu tả đồng phục của trường. “Sao nữa?” nó hỏi. “Còn gì nữa không?”
Tôi nhìn quanh, nhưng không ai chú ý đến chúng tôi. “Bọn chúng đều có những vết bầm tím ở cổ,” tôi thì thầm qua bên kia bàn. “Như là... như là chúng đều đã từng bị treo cổ. Kẻ cầm đầu thậm chí còn có một cái thòng lọng quanh cổ. Và bọn chúng muốn giết tớ. Tớ chắc đấy. Bọn chúng nói thế.”
Thú thật là tôi đã hy vọng thông tin đó sẽ gây ấn tượng với cô nàng. Nhưng Ella chỉ rướn lông mày lên tí chút. Lông mày của nó cũng rất đen. Đen hơn cả sô cô la đen nữa.
“Thật là vớ vẩn,” nó lạnh lùng phát biểu. “Ma làm sao mà giết người được. Đơn giản là chúng nó không thể.”
Lần này thì tôi đỏ mặt vì tức tối - việc này cũng chả bớt xấu hổ hơn tí nào.
“Vậy thì được thôi!” tôi rít lên với nó. “Lần tới tớ sẽ nói cho bọn chúng biết khi chúng truy đuổi tớ qua sân nhà thờ.”
Một vài đứa lớp ba ở bàn bên cạnh quay về phía chúng tôi. Tôi ném cho chúng một cái nhìn mà tôi mong là có vẻ dọa dẫm. Tôi lại thấp giọng xuống. “Thế tại sao,” tôi lấy hơi, trong khi Ella vẫn hoàn toàn điềm tĩnh và lại đang xúc đầy một dĩa món khoai tây nghiền của tôi, “tại sao máu lại nhỏ ra từ thanh kiếm của một gã khi tớ nhìn thấy bọn chúng lần đầu tiên?”
Ella nhún vai một cách vô cảm. “Bọn chúng thích mấy cái trò đó,” nó nói với giọng hết sức chán nản. “Máu... xương... chả có ý nghĩa gì cả.”
“Thế hả? Cảm ơn về những thông tin hữu ích!” tôi nhặng lên với nó. “Cậu có vẻ biết mọi thứ về lũ ma chết tiệt ở cái thành phố này. Nhưng từ nơi tớ tới thì chả bình thường tí nào khi nhìn thấy chúng ở ngoài cửa sổ giơ những thanh kiếm nhuốm máu về phía mình.”
Giờ thì cả phòng ăn đều nhìn tôi chằm chằm.
Trái lại, Ella chỉ vứt cho tôi mỗi cái nhìn kiểu Jon whitcroft, cậu đang làm ầm lên chả vì cái gì hết rồi sẽ có lúc trở thành quá quen thuộc với tôi.
“Ừ, có vẻ như cậu đang gặp rắc rối đấy,” nó nói, đẩy ghế ra đằng sau. Và không thèm nhìn tôi thêm một cái, nó quay trở về cái bàn mà tụi bạn nó đang ngồi ăn.
Chắc trông tôi phải cực kỳ ngớ ngẩn khi cứ nhìn chằm chằm theo nó, bởi vì Stu và Angus đã lại nhìn nhau một cách đầy lo lắng trước khi đặt khay xuống bàn tôi.
“Đừng nói với tớ là cậu cũng trông thấy lũ ma ở đây đấy nhé,” Stu nói.
“Đúng thế đấy, cậu nên cẩn thận thì hơn. Có một con đang ngồi trên cái ghế cậu định ngồi xuống đấy,” tôi gầm gừ lại nó.
Ella đứng lên để trả khay về bếp. Tôi hất đầu về phía con bé. “Bọn cậu có ai biết đứa con gái ấy không? Cái đứa tóc dài màu đen ấy.”
Angus nhìn con bé và thấp giọng xuống. “Đấy là Ella Littlejohn. Bà nó chuyên tổ chức mấy chuyến tham quan ma quỷ cho du khách. Bố tớ bảo bà già ấy là một phù thủy thực sự. Ý tớ là bà ta còn có cả mấy con cóc đã thuần hóa trong vườn nhà và những thứ tương tự ấy!”
Stu khịt mũi khinh bỉ.
“Có gì vui lắm à?” Angus rít lên. Ella đang đi ra khỏi phòng ăn với một vài người bạn. “Bố tớ bảo bà nó đã ám lời nguyền lên ít nhất bốn người.”
“Bố cậu cũng bảo là bãi đá Stonehenge được dựng lên bởi người ngoài hành tinh.”
“Không phải.”
“Có đấy.”
Tôi bỏ mặc hai đứa tranh cãi và lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Chỉ vài tiếng nữa thôi là trời sẽ lại tối.
Ừ, có vẻ như cậu đang gặp rắc rối đấy.
“Tớ... ờ... tớ phải đi,” tôi lúng búng, phớt lờ ánh nhìn tò mò của Stu và chạy đuổi theo Ella.
•••
Tôi tìm thấy nó ở ngoài, mặc dù trời đã lại bắt đầu mưa. Ella đang đứng dựa lưng vào một gốc cây, ngắm nhìn nhà thờ. Nó chả tỏ vẻ ngạc nhiên tí nào khi nhìn thấy tôi.
“Bà tớ bảo có một Bà Xám ở trong nhà thờ,” nó nói khi tôi đến đứng bên cạnh. “Nhưng mà tớ chỉ nhìn thấy mỗi thằng bé ám khu hành lang thôi. Nó từng là thợ nề học việc, bị ngã khỏi giàn giáo lúc họ đang hoàn thành tòa tháp.” Con bé thè lưỡi hứng một giọt mưa rơi. “Nó thích dọa du khách. Thì thầm những lời nguyền rủa cũ kỹ, kiểu như vậy. Khá là ngu ngốc, thật đấy, nhưng có lẽ nó chỉ buồn chán mà thôi. Tớ nghĩ đa số các bóng ma đều cảm thấy buồn chán.”
Điều đó nghe giống như một lời bào chữa dở tệ cho việc săn đuổi một thằng bé mười một tuổi khắp sân nhà thờ. Nhưng tôi giữ suy nghĩ đó cho riêng mình.
Cơn mưa làm tối sầm những bức tường của nhà thờ, giờ trông nó như được xây lên từ bầu trời xám xịt. Cho đến lúc ấy, tôi vẫn phớt lờ nhà thờ cũng như tất cả những thứ khác mang du khách đến với Salisbury. Nhưng tôi vẫn chưa quên măt rằng vào tối hôm trước, nhà thờ đã là nơi duy nhất có vẻ an toàn trong cả cái thành phố chết tiệt này. (Thấy chưa? Tôi cũng hay chửi thề cả khi sợ hãi nữa.) Vì thế tôi cảm thấy cực kỳ nản lòng khi nghe là còn có ma đằng sau những bức tường này, dù con ma chỉ đơn thuần là một thợ học việc đã chết chứ không phải mấy gã bị treo cổ.
“Tớ... ờ...” tôi chùi mấy hạt mưa rơi trên mũi mình. Từ khi tôi đến Salisbury đến giờ, trời mưa liên tục khiến tôi có cảm giác như cả thế giới đã rã ra trong nước. “Tớ có nghe qua về bà cậu. Cậu có nghĩ là... ý tớ là... biết đâu bà cậu có thể giúp tớ chăng?”
Ella vén đám tóc ướt ra sau tai và nhìn tôi vẻ trầm tư. “Có thể.” nó nói. “Bà biết rất nhiều về các bóng ma. Tớ mới thấy mấy con thôi, nhưng bà Zelda đã thấy hàng tá rồi.”
Hàng tá! Thế giới này rõ ràng là một nơi đáng lo ngại hơn tôi nghĩ, cho đến lúc đó, điều kinh khủng nhất mà tôi từng gặp phải chỉ là một lão nha sĩ râu xồm.
“Cậu ở nội trú phải không?” Ella hỏi. “Hỏi xin ông bà Popplewell xem cậu có được đến thăm nhà tớ không. Hay là cậu có về nhà vào cuối tuần không?”
Nhà. Về lại đó đồng nghĩa với việc tôi sẽ mãi mãi bị đóng mác một đứa trẻ mít ướt nhớ nhà bịa chuyện ma quỷ để được về nhà với mẹ. Có thể các bạn muốn hỏi: Thì sao? Chắc chắn thế còn tốt hơn là chết. Nhưng vào lúc đó tôi đã kịp phát triển cái gọi là sự tự tôn rồi - chưa kể đến việc tôi không thể chịu được bà hàng xóm vẫn trông nom con chó và lũ em tôi.
“Không,” tôi lầm bầm. “Tớ không về.”
“Tốt,” Ella thè lưỡi hứng một hạt mưa nữa. Nó cao ngang tôi, mặc dù học dưới tôi một lớp. “Thế tớ sẽ bảo bà là ngày mai cậu đến.”
“Ngày mai ư? Nhưng thế là quá muộn. Nhỡ bọn chúng quay lại đêm nay thì sao?” Nỗi hoảng hốt hiện rõ trong giọng tôi một cách đáng xấu hổ, nhưng tôi vẫn có thể nghe thấy giọng nói thì thào ấy văng vẳng trong đầu: Lũ thỏ nhải nhép thì kiểu gì cũng chết thôi.
Ella nhăn mày. “Tớ đã bảo là bọn chúng chả làm gì được cậu đâu mà. Bọn chúng thậm chí còn chẳng chạm được vào cậu nữa. Cách duy nhất mấy con ma có thể làm hại cậu là qua nỗi sợ của chính cậu mà thôi.”
Tuyệt! Tôi rõ ràng là đã quá thừa thãi nỗi sợ.
Sự tuyệt vọng hẳn vẫn ngự chình ình trên khuôn mặt tôi, bởi tôi thấy Ella thở dài.
“Được rồi!” nó nói. “Thế qua luôn hôm nay đi. Nhưng mà không được đến muộn hơn bốn rưỡi đâu đấy. Bà Zelda thường chợp mắt vào lúc năm giờ và bà sẽ cực kỳ bẳn gắt nếu bị quấy rầy vào giờ ngủ.”
Nó móc trong túi áo khoác ra một cây bút và cầm lấy cánh tay tôi. “Nhà bà tớ ở số bảy,” nó nói trong khi viết tên phố lên cánh tay ấy. “Cứ đi dọc theo con đường mòn qua cánh đồng cỏ chăn cừu. Nhà tớ ở ngay đằng sau cái xưởng cũ ấy. Đừng giẫm lên lũ cóc đấy. Bà tớ yêu chúng hơn mọi thứ trên đời.”
Cóc. Bố Angus đã đúng về điều này. Thì sao chứ. Một giọt mưa làm nhòe một chữ cái trên tay tôi. Tôi nhanh chóng kéo tay áo xuống che. Chữ Ella khá đẹp. Tất nhiên rồi.
“Cậu sống với bà à?” tôi hỏi.
“Chỉ khi bố mẹ tớ đi diễn thôi.”
“Diễn gì cơ?”
“Violon thứ hai và sáo. Họ chơi trong một dàn nhạc giao hưởng. Nhưng dàn nhạc này chơi không hay lắm.” Nó quay đi. “Hẹn gặp cậu lúc bốn rưỡi nhé,” nó nói qua vai.
Tôi nhìn theo bóng nó chạy về phía trường.
Bốn con ma và cháu gái của một bà phù thủy. Mọi thứ không thể điên rồ hơn được nữa, tôi nghĩ. Nhưng đương nhiên là tôi đã nhầm.