← Quay lại trang sách

Chương 11 LÂU ĐÀI CỦA NGÀI LONGSPEE VÀ CON MA DÀN HỢP XƯỚNG

Sáng hôm sau, vừa đến trường, tôi lập tức đi tìm Ella nhưng không thấy nó ở đâu cả. Lâu đài cổ kính của vị giám mục như một mê hồn trận những hành lang và cầu thang khiến việc không chạm mặt nhau nhiều ngày trời trở thành một chuyện quá dễ dàng, vì thế nên lúc đầu tôi không nghĩ gì nhiều cả. Trong giờ ra chơi sau tiết đầu, thầy Bonapart tập trung chúng tôi lại cho một chuyến du ngoạn đến Old Sarum để “các em có khái niệm về việc cuộc sống của các bậc tiền bối người Anglo Saxon đã khổ cực như thế nào trên ngọn đồi đó, nơi không có nước và gió thì to đến mức có thể lột da trên mặt các em”.

Tuyệt. Nhưng đối với tôi, Old Sarum lại thú vị vì một lý do khác. Tôi đã nghe Ella kể đó là nơi ngài Longspee mất.

Old Sarum là một nơi kỳ lạ. Thầy Bonapart trèo lên hết những bức tường vụn nát thưa thớt còn sót lại và kể cho chúng tôi rằng đống gạch vụn bên trái chúng tôi đã từng có thời là một nhà thờ, và rằng đống bên phải là một lâu đài. Nhưng tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là những cái cây bị bẻ cong bởi cơn gió không bao giờ dứt và một ngọn đồi trọc nơi các du khách thả bộ giữa những bức tường đổ nát. Và trong suốt quãng thời gian đó, tôi mải suy nghĩ về Ella. Chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau trước đây. Cảm giác này thật khổ sở.

Lúc chúng tôi leo lên những bậc thang đã từng một thời dẫn vào lâu đài hoàng gia, tôi hỏi thầy Bonapart về căn phòng nơi ngài William Longspee đã mất. Nhưng thầy chỉ nhướng một bên lông mày (thầy luôn làm thế khi không biết câu trả lời cho một câu hỏi nào đó) và thay vào đó bắt đầu một bài giảng về những thất bại quân sự của ngài Longspee, đặc biệt là dưới danh nghĩa chỉ huy cánh phải của quân đội Anh trong trận chiến tại Bouvines. Tôi giả vờ lắng nghe, trong khi để mắt mình lang thang khắp khu đồi, chính những ngọn đồi mà đôi mắt ngài Longspee đã nhìn thấy, và tôi tự hỏi không biết có phải thầy Bonapart đang nói về trận chiến mà tôi đã trải nghiệm trong cơ thể của ngài William không.

Cuối cùng chúng tôi quay lại xe buýt, và gió tấn công chúng tôi như thể tất cả những cư dân đã biến mất của old Sarum giờ tụ nhau lại để đuổi chúng tôi ra khỏi ngọn đồi của họ. Thầy Bonapart đi bộ phía trước tôi, cố gắng một cách tuyệt vọng vuốt những sợi tóc thưa thớt để chúng nằm im trên cái đầu hói của mình.

“Ừm, thưa thầy Bo... à, thầy Rifkin?” tôi nói, cố gắng bắt kịp những bước chân cuồng nhiệt của thầy.

“Thầy có biết gì về kẻ sát hại ngài Longspee không, Hubert... ừm...”

“Hubert Ừm ấy à?” thầy nhắc lại một cách khinh khỉnh. “Hubert de Burgh, hoàng thân nhiếp chính của nước Anh, người đàn ông quyền lực thứ hai sau hoàng tử John ư? Có, đương nhiên là thầy biết rất nhiều về ông ta. Và không có bằng chứng gì là ông ta đã đầu độc ngài Longspee cả.”

“Chắc chắn là ông ta mà,” tôi lặp lại. “Nhưng đó không phải là điều em muốn biết. Thầy đã bao giờ nghe về việc ông ta ăn cắp trái tim của ngài Longspee chưa?”

Thầy Bonapart vứt cho tôi một trong những tràng cười ngạo mạn của mình. “Trái tim của ngài William Longspee được chôn ở tu viện Lacock bởi Ela xứ Salisbury,” thầy nói. “Trong một cái tiểu bằng bạc có gắn dấu huy hiệu của Salisbury. Tin thầy đi, Whitcroft, Hubert de Burgh có nhiều thứ quan trọng để làm hơn là ăn trộm trái tim của kẻ thứ cấp, đứa con không hợp pháp của nhà vua.”

Tôi ước gì mình có thể kể cho thầy những gì tôi đã nghe được từ chính miệng Hubert de Burgh, nhưng thay vì thế tôi lẩm nhẩm một câu, “Cảm ơn thầy Rifkin. Rất thú vị ạ,” trong lúc thầm ước gió sẽ thổi bay những sợi tóc cuối cùng khỏi cái đầu ngạo mạn của thầy vì những điều thầy đã nói về ngài William. Tôi khó chịu với bản thân vì ban đầu đã đem chuyện này đi hỏi thầy. Nhưng có ai khác có thể kể cho tôi về trái tim đây?

Sau khi quay trở lại trường, tôi lập tức tiếp tục tìm kiếm Ella. Nhưng rồi tôi nghe một đứa con gái lớp nó nói rằng hôm ấy nó nghỉ học. Tôi hoàn toàn không hiểu điều gì đã xui khiến tôi đến nhà nguyện trong trường sau đó. Tôi không tin vào những thiên thần mọi người vẫn gọi trong cơn khẩn cấp cũng như các vị thánh không có việc gì để làm hay hơn là giúp mấy đứa trẻ mười một tuổi trong bài kiểm tra lịch sử hay các vấn đề khác. (Angus rất vững tin vào thánh thần. Trước bài kiểm tra nào nó cũng cầu khẩn thánh Angus MacNisse.)

Không, tôi nghĩ tôi chỉ đến đó bởi tôi muốn được ở một mình trong chốc lát. Khu nhà nguyện thường không phải là khu vực đông người nhất, và tôi có một vài việc cần suy nghĩ: về Ella, ngài Longspee và trái tim bị đánh cắp của ngài. Tôi không phí thêm tí suy nghĩ nào cho lão Stourton nữa. Vâng, tôi biết, không phải là việc làm thông minh cho lắm. Giờ thì tôi đã biết điều đó.

Tôi chen mình vào một trong những băng ghế gỗ hẹp, chăm chú nhìn những ô cửa kính đầy màu sắc, nặn óc nghĩ xem làm thế nào để vừa giúp đỡ ngài Longspee vừa làm lành với Ella.

Con dấu sư tử trên tay tôi đã đậm trở lại. Tôi tự nhủ có khi nó cũng chả tồn tại lâu đâu nếu tôi cứ mãi là một tên cận vệ vô dụng như thế này. Thế rồi, bỗng nhiên, tôi nghe thấy tiếng sột soạt sau lưng mình.

Đầu tiên tôi nghĩ thằng nhóc đang đứng giữa băng ghế đằng sau tôi hai hàng là một trong những đứa học cùng trường. Bộ trang phục kiểu cũ mà cậu ta mặc đáng ra phải làm tôi nghi ngờ ngay lập tức. Tuy nhiên mặt cậu ta trông lại rất quen. Tôi chắc chắn là trước đây đã nhìn thấy cậu ta ở đâu đó rồi. Và khi quan sát cậu ta kỹ hơn, tôi cảm thấy rùng mình y như lúc nhìn thấy mấy gã thuộc hạ của Stourton đứng dưới bệ cửa sổ phòng mình. Một khi đã nhìn thấy một hồn ma, bạn sẽ liên tục nhìn thấy nhiều ma hơn nữa. Tôi thực sự tin là họ ở khắp mọi nơi. Có khi họ chính là lý do vì sao thỉnh thoảng chúng ta bỗng nhiên cảm thấy buồn bã hoặc giận dữ. Có khi tình yêu, nỗi đau và sự sợ hãi không phai nhạt nhanh như những bức tường và phiến đá. Đúng, con người biến mất, cũng giống như lâu đài và nhà thờ ở Old Sarum. Nhưng nếu như tất cả những gì họ đã trải qua vẫn tiếp tục tồn tại thì sao? Như một mùi hương hay một bóng cây? Hay một hồn ma...

Tính cho đến giờ tôi đã nhìn thấy cũng phải cả tá hồn ma rồi. Ta chỉ nhìn thấy họ nếu họ muốn thế, và tôi đoán đa số bọn họ thấy tôi chả thú vị gì. Tuy nhiên, hồn ma này, cái người mà tôi bỗng nhiên nhìn thấy đằng sau lưng trong nhà nguyện của trường, thì lại đang đợi tôi. Chỉ tôi thôi. Tôi biết thế ngay khi nhìn thấy cậu ta. Và khi cậu ta tiến lại, tôi cũng nhớ ra rằng mình đã nhìn thấy khuôn mặt này ở đâu.

Treo ở hành lang cạnh nhà nguyện là một bức tranh vẽ bốn thành viên dàn hợp xướng, tất cả đều trẻ hơn tôi lúc này một chút. Tôi đã luôn nghĩ rằng người thứ hai từ bên trái qua có khuôn mặt trông rõ là độc ác. Tôi đã không nhầm.

Cậu ta dừng lại bên cạnh tôi, và tôi có thể nhìn xuyên qua áo choàng của cậu ta ra hàng ghế đằng sau. Tôi nhớ là mình đã nghĩ, Tuyệt, không phải một con ma nữa chứ! Nhưng khi cậu ta giơ bàn tay nhợt nhạt của mình lên và chỉ cho tôi con dấu sư tử, đầu tôi trống trơn chả còn chút suy nghĩ nào nữa.

“Tại sao cậu lại gọi ông ta?” Giọng cậu ta khản đặc, cứ như chả mấy khi cậu ta cất tiếng nói.

Tôi đứng dậy và né mình khỏi băng ghế. Cậu ta nhỏ con hơn tôi, và sau cả đống kinh nghiệm mà tôi có với lão Stourton, tôi cũng không còn sợ hãi nữa.

“Cậu đang nói về ai vậy?” tôi hỏi, mặc dù đương nhiên là tôi đã biết câu trả lời. Tôi thầm nghĩ, Jon, mày có tiến bộ hơn trong việc nói chuyện với các hồn ma rồi đấy. Cậu nhóc tầm tuổi tôi cười khinh bỉ. Tôi có thể nhìn xuyên qua mặt cậu ta như qua một miếng vải tả tơi.

“Đừng giả ngốc. Tôi dám lấy vị trí của tôi ở dưới địa ngục ra cá là ông ta cũng ra cùng một giá với cậu như đã làm với tôi. Đúng không nào?”

Cậu ta bật cười. Tiếng cười nghe rợn cả người, khuôn mặt cậu ta gần như tan vào tiếng cười theo đúng nghĩa đen.

“Để tôi qua!” tôi nói, lách mình qua cậu ta. Nhưng rồi cậu ta lại ngay lập tức đứng trước mặt tôi.

“Cậu định đi đâu thế? Thú nhận đi. Ông ta cũng cố bắt cậu đi tìm trái tim cho ông ta nữa. Vị thánh William của chúng ta!” Khuôn mặt cậu ta trở nên méo mó đến mức nhìn giống mặt của một con mèo hơn là một cậu con trai. “Tôi đã gọi ông ta đến bảo vệ tôi khỏi một trong những giáo viên. Tôi đã quá chán vì thường xuyên bị đánh, và tôi được nghe kể về một vị hiệp sĩ ngủ trong nhà thờ, người đã hứa là sẽ bảo vệ kẻ yếu và những thứ tương tự...” Cậu ta nhe răng ra y như lão Stourton. “Ồ, ông ta có giúp tôi thật. Ông ta bắt giáo viên đó quỳ trước mặt khóc lóc và thầy giáo đó không đụng vào tôi nữa. Nhưng sau đó tôi phải đi tìm cái trái tim chết tiệt của ông ta. Và khi tôi tìm thấy nó, tôi đã nhận được gì chứ?”

Tôi nhìn thấy những băng ghế qua lồng ngực cậu ta.

“Ông ta giết tôi!” thằng bé hát xướng rít lên với tôi. “Và ông ta chắc cũng sẽ làm điều tương tự với cậu thôi.”

Rồi cậu ta biến mất.

Tôi lại một mình, nhìn chằm chằm vào cái điểm mà chỉ vừa mới đây cậu ta còn đang đứng. Nói dối! tôi nghĩ. Tôi mong là ngài Longspee sẽ xuyên thủng trái tim đen sì của cậu, như ngài đã từng làm với lão Stourton.

Xung quanh tôi, mọi thứ dường như đều thì thầm: Ông ta giết tôi! Giết. Giết!

Không. Không, đó không thể là sự thật được.

“ Quay lại đây!” tôi vừa gọi vừa nhìn quanh nhà nguyện trống trơn. “Quay lại đây quân nói dối bẩn thỉu.”

“Whitcroft?”

Cô Tinker, thư ký trường, đang đứng ngay cửa nhà nguyện. Mọi người đều gọi cô là Tinkerbell, mặc dù cô chả nhỏ bé tí nào. Ngược lại là khác. Cô phải cố lắm mới ngồi vừa vào bàn của mình. Nhưng bất cứ khi nào ta không chắc mình phải vào phòng học nào, hoặc cần một miếng cao dán cứu thương, thì ta đi gặp cô Tinkerbell. Cô biết mọi thứ về tòa lâu đài giám mục này.

“Cô Tinker... cô có biết gì về mấy cậu con trai trong bức tranh vẽ ngoài đó không?” tôi hỏi.

Cô Tinkerbell quay lại trên ngưỡng cửa và nhìn vào bức tranh. “À, hội đó. Tất nhiên,” cô nói. “Cậu trai bên tay phải đã trở thành một ca sĩ hài kịch ở London - cậu ta khá nổi đấy. Người thứ hai phía bên trái là một thành viên của dàn hợp xướng bị ngã ra ngoài cửa sổ. Cô luôn cố gắng thương cảm cho cậu ta, nhưng...”

“Cậu ta đã ngã ra ngoài cửa sổ sao?”

“Ừ. Gãy cổ. Hồi đó có tin đồn là có ai đó đã đẩy cậu ta. Nhưng cậu ta được cho là đang ở một mình khi mọi chuyện xảy ra.”

Tôi cảm thấy đất dưới chân mình như nứt toác ra.

“Cô đã tìm em khắp nơi, Jon ạ!” cô Tinkerbell tiếp tục. “Bà Zelda Littlejohn gọi điện. Bà hỏi em có thấy Ella đâu không. Điều đó hơi lạ, vì Ella thậm chí không đến trường ngày hôm nay. Nhưng cô đã hứa là sẽ hỏi em.”

“Không ạ,” tôi khẽ trả lời. Tôi hình dung trong đầu cảnh cậu hát xướng ngã ra ngoài cửa sổ. “Không ạ, em cũng đang tìm cậu ấy.”

Cô Tinkerbell nhún vai và quay về phía cầu thang. “Thế để xem bà của cô bé đã tìm ra cô bé ở đâu chưa.”

Thật là khó tin, nhưng đầu tôi vẫn không có tí báo động nào. Nó vẫn đang quá bận rộn cố gắng xử lý những điều con ma dàn hợp xướng vừa kể cho tôi nghe.

“Có khi Ella đang ở chỗ bố mẹ cậu ấy,” tôi vừa nói vừa đi theo cô Tinkerbell xuống cầu thang. “Bà cậu ấy không được hòa hợp lắm với họ.” Ella đã kể cho tôi rằng mẹ nó và bà Zelda cãi nhau ít nhất ba lần một tuần.

Nhưng cô Tinkerbell chỉ lắc đâu. “Không, bố mẹ cô bé lại đi công diễn rồi. Theo như cô biết thì là đâu đấy ở Scotland.”

Đó là lúc tôi cuối cùng cũng nhận ra.

Chuyện gì đó đã xảy ra. chuyện gì đó rất khủng khiếp.

Tim tôi đập nhanh đến mức tôi bắt đầu thấy buồn nôn. Tôi quên luôn con ma dàn hợp xướng và những gì cậu ta đã nói về ngài Longspee.

Có lẽ nào ngài lại thực sự là một kẻ sát nhân?

Bỗng nhiên tôi không còn quan tâm nữa.

Trong đầu tôi chỉ còn chỗ cho một câu hỏi:

Ella đang ở đâu?