← Quay lại trang sách

Chương 11

Máy bay hạ cánh ở phi trường Budapest Ferenc Liszt International, Hungary. Đây là phi trường lớn nhất ở Hungary. Budapest là thủ phủ của xứ sở chưa đầy 10 triệu dân và được xem là một trong những thành phố đẹp nhất Châu Âu. Lữ cũng đã xem sơ qua về nơi mình đến để có một khái niệm tổng quát. Sau khi qua những thủ tục nhập cảnh, Lữ lững

thững kéo va-li nhỏ ra ngoài. Mùa Thu ở đây đến sớm hơn ở Mỹ và lạnh hơn. Lữ kéo cao cổ áo.

Chàng đã thuê nhà qua AirBnB của một cặp vợ chồng trẻ người Hungary. Đôi vợ chồng người Hung Gia Lợi này ra tận phi trường đón Lữ. Balas -tên người chồng- giới thiệu vợ mình là Etilka với Lữ. Balas với mái tóc nâu xoăn hơi dài. Hàm râu tuy đã được cạo sạch nhưng vẫn xanh um. Anh ta cũng không cao hơn Lữ là mấy. Cô vợ gầy nhưng xinh xắn với mái tóc vàng mà Lữ đoán là mầu tóc tự nhiên.

Họ nói tiếng Anh rất thông thạo làm Lữ thấy thoải mái ngay.

Balas thân thiện bắt chuyện:

“Lần đầu tiên tới đây?”

Lữ gật đầu:

“Lần đầu tiên!”

Chiếc xe Audi A3 màu đen của Balas đẹp, sạch sẽ. Trên đường về nhà, anh ta nói sơ về xứ sở của mình với vẻ hãnh diện và đầy tự hào.

“Thủ đô của chúng tôi là sự kết hợp của 3 thành phố nhỏ Buda, Pest và Obuda. Đó là ba thành phố riêng biệt. Đến năm 1873, 3 thành phố này thống nhất thành một. Budapest do đó là nơi hội tụ của những nhà quý tộc cộng với tầng lớp lao động và thêm vào thị trấn cổ kính Obuda. Tôi nghĩ chắc anh phải là người yêu âm nhạc, nghệ thuật và kiến trúc nên mới chọn Budapest là điểm du lịch? Chắc chắn anh sẽ thấy Budapest khác hẳn với xứ Mỹ?”

Lữ cười cười đáp nhìn ra ngoài cửa kính xe:

“Khác nhiều lắm! Xứ sở các anh cổ kính hơn nhiều với bề dầy lịch sử lâu đời”

“Giá nhà ở đây rẻ bằng một nửa so với các thành phố du lịch ở Tây Âu”

Và như một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, Balas còn giải thích thêm cho người lữ khách ngoại quốc:

“Đất nước này có đồng cỏ thiên nhiên lớn nhất Châu Âu. Ngoài ra còn có một hồ nước nóng có tác dụng chữa bệnh lớn thứ nhì trên thế giới, đó là hồ Héviz. Nếu anh ở lại đây lâu cũng nên ghé tới đó cho biết. Anh sẽ định đi những nơi nào?”

Hơi bất ngờ trước câu hỏi đó vì quả thật Lữ chỉ muốn làm một chuyến đi đến một nơi xa lạ, còn làm gì, đi đâu thì chưa tính. Nhưng con người của chàng vốn thích lang bạt khi có cơ hội.

“Tôi chưa biết nhưng có lẽ tôi sẽ đi thăm những nơi đặc biệt của Budapest sau cùng ở cuối chuyến đi”

Anh bạn Hungary có vẻ ngỡ ngàng:

“Sao vậy? Anh đang có mặt ở Budapest mà?”

“Tôi thích đi lang thang trước”

Balas và Etilka cùng bật cười trước câu trả lời của Lữ. Balas nói:

“Nếu vậy thì anh nên đi dọc theo sông Danube nổi tiếng. Vì cứ vài chục cây số anh sẽ lại gặp một thị trấn nhỏ. Điểm đặc biệt là mỗi một thị trấn đều mang một di sản riêng. Đất nước chúng tôi bị xâm chiếm và đô hộ bởi nhiều đế quốc nhưng các công trình kiến trúc không bị tàn phá bao nhiêu mà ngược lại còn có thêm những công trình kiến trúc do những quốc gia xâm lăng để lại.”

“Ở đây phương tiện di chuyển công cộng nhiều lắm phải không?”

“Nhiều lắm và rất tiện dụng cho du khách. Anh có thể đi bằng tàu trên sông Danube để ngắm cảnh”

“Tôi không thích bị gò bó trên tàu”

“Vậy thì anh phải đi đường bộ, lái xe”

Lữ nhún vai:

“Vậy hơi khó, tôi đâu có bằng lái xe quốc tế”

Balas đề nghị:

“Tôi đưa anh đi nếu anh muốn”

Ngạc nhiên và đầy bất ngờ. Lữ hỏi lại:

“Không cản trở chuyện đi làm của anh sao?”

Etilka lên tiếng:

“Chồng tôi có thể xin nghỉ vài hôm, không có gì trở ngại”

“OK. Vậy thì tốt quá! Anh sẽ thành tour guide cho tôi. Hết bao nhiêu tôi trả”

Vợ chồng anh bạn trẻ cười vui vẻ nhận lời.

“Sao cũng được.” Balas nói tiếp “Tôi chưa làm vậy bao giờ nên cũng không biết tính sao”

“Mình cứ đi, rồi anh sẽ biết là tôi phải trả bao nhiêu. Đi một mình cũng buồn, nên có anh đi cùng là vui lắm đấy”

Balas cười:

“Coi như là mấy ngày nghỉ phép thường niên mà tôi còn được trả thêm tiền phụ trội”

“Anh nói bao nhiêu tôi trả như thế. Khách sạn, ăn uống tính vào tôi cả”

“Người Mỹ luôn luôn rộng rãi. Có phải vì đời sống bên Mỹ dễ sống hơn những nơi khác không?”

Lữ gật đầu:

“Có lẽ vậy, một cách tương đối”

“Anh thích di du lịch một mình sao?”

“Tôi chỉ có một mình. Độc thân”

Balas gật đầu ra điều thông cảm.

Từ phi trường về nhà Balas khoảng 45 phút. Ở đây có lẽ vì là thủ đô nên xe cộ khá đông đảo nhưng họa hoằn mới thấy xe lớn của những công ty hay xe chuyên chở. Lối ăn mặc của họ cũng khác hơn. Người đi bộ cũng nhiều. Nhưng không thấy vẻ tất bật vội vã như những thành phố lớn ở Mỹ.

Được một lúc, chiếc xe của Balas bắt đầu đi lên đồi vào những con đường nhỏ hơn. Cây cối hai bên đường lá xanh vàng đỏ chen nhau thật đẹp mắt. Nhà cửa nhỏ, một tầng, hai tầng cũng đủ cả nhưng kiến trúc hoàn toàn khác hẳn. Những căn nhà nhỏ nhưng có vẻ thân thiện. Chẳng nhà nào giống nhà nào.

Xe của Balas ngừng trước một căn nhà nhỏ lưng chừng đồi. Nhà có cổng gỗ, dây leo trơ cành và không có hoa chắc vì mùa thu. Bên hông có cổng khác. Balas xuống xe, mở cổng bên hông nhà.

Etilka nói với Lữ:

“Mình xuống đây vào cửa trước. Chồng tôi sẽ đưa xe vào garage bên cạnh nhà và sẽ mang va-li của anh vào sau”.

Lữ gật đầu mỉm cười xuống xe và đi theo Etilka.

Cô ta mở chốt cổng, đi trước. Lữ theo sau. Từ cổng vào nhà qua một sân nhỏ có khoảnh vườn cỏ còn xanh và nhiều chậu cây. “Tổ ấm của cặp vợ chồng trẻ!”, Lữ nghĩ thầm.

Cũng có hàng rào ngăn cách nhà này nhà kia nhưng hàng rào thấp như để cho có chứ không mang tính phân định hay ngăn cản sự xâm nhập. Có lẽ người dân ở đây thân thiện và dễ dãi chăng?

Bây giờ Lữ mới chú ý đến màu sơn của căn nhà cùng những khung cửa sổ. Mái nâu cũ kỹ nhưng những ô cửa sổ dài, hẹp có những đường viền bên ngoài trông cầu kỳ. Bên ngoài vừa gạch vừa sơn màu tươi sáng, nếu không muốn nói là vui nhộn.

Có lẽ đọc được những ý nghĩ của Lữ, Etilka cười vui vẻ nói:

“Trông giống nhà đồ chơi hả?”

Lữ bật cười:

“Đẹp chứ! Ngồ ngộ!”

“Thật sao?”

“Anh chị ở nhà này lâu chưa?”

“Chừng 2 năm, mua lại của một cặp vợ chồng già. Tụi này cũng mong rằng sẽ ở ngôi nhà này đến già như người chủ trước”

“Được chứ!”

“Làm sao biết được những thay đổi của tương lai?”

Lữ nhún vai không nói gì.

Etilka mở cửa trước:

“Mời anh vào”

Phòng khách xinh xắn và ấm cúng. Thứ gì cũng nhỏ tí, như đồ chơi thật! Trần nhà cũng thấp, bàn ghế thứ gì cũng nhỏ hơn bên Mỹ một chút. Lữ có cảm tưởng người chàng cũng đang bị bé lại.

Etlika kéo tấm màn ren ở cửa sổ trước cho ánh nắng tràn vào vì hai ngọn đèn nhỏ hai bên ghế sofa không đủ sáng.

“Mời anh ngồi nghỉ đã rồi lên phòng. Đừng ngạc nhiên là cái gì cũng.. nhỏ bé hơn ở xứ anh”

“Tôi cũng chẳng to lớn gì!” Nói xong Lữ phá lên cười.

Etilka cười theo:

“Anh uống gì không? Chúng tôi có bia, nước trái cây và nước tinh khiết”.

Lữ lắc đầu:

“Trên máy bay ăn uống nhiều quá rồi!”

Balas kéo va-li của Lữ vào hất hàm:

“Lên phòng nghỉ chứ?”

Lữ gật đầu:

“Anh để tôi xách va-li. Anh đi trước, tôi theo anh”

Balas gật đầu.

Mặc dù biết là căn nhà nhỏ nhưng không ngờ cầu thang lại hẹp như vậy, chỉ đủ một người to lớn hay 2 người ôm nhau thì được. Chiếc cầu thang rên lên mỗi khi bước chân hai người đặt lên từng bậc gỗ đánh bóng.

Căn phòng dành cho Lữ ở cuối hành lang.

“Anh thích ở phòng này hay lên tầng nữa?” Balas vừa nói vừa cười với Lữ.

Lữ ngạc nhiên:

“Tôi tưởng nhà có hai tầng?”

“Còn một tầng trên sát mái, thấp lắm nhưng có người thích như vậy”

“Lên coi thử”

Ở căn phòng cuối hành lang có một cầu thang nhỏ khác. Lữ theo Balas lên cầu thang. Hai người phải cúi đầu cho khỏi đụng trần. Cầu thang ngắn dẫn lên căn gác trên cùng.

Balas mở cửa phòng. Lữ thích ngay mặc dù trần thấp.

“Tôi thích ở đây”

Balas cười:

“Nhiều người như anh vậy. Ở đây anh có một không gian riêng kín đáo”.

Ở chính giữa căn phòng không phải cúi đầu nhưng những phần trải dài theo mái thì thấp. Sàn gỗ nâu bóng, sạch sẽ. Không có giường? À, có giường nhưng chân thấp chỉ gang tay. Những ghế ngồi chỉ là những nệm gối lớn màu sắc vui tươi đặt rải rác trên sàn gỗ. Có bàn viết thấp bằng giường, có nghĩa là muốn dùng bàn viết thì phải nằm xấp. Chiếc tivi nhỏ xíu trong góc.

“Chưa bao giờ có một căn phòng như thế này! Tôi thích lắm!”

Balas cười vui vẻ ngoắc tay:

“Anh phải lại xem cái này!”

Ngay phần trên góc tường ở bên trái có 2 ô cửa sổ nhỏ xíu hình thù kỳ lạ.

“Tại sao cửa sổ có hình lạ thế?”

“Anh không thấy giống 2 con mắt sao? Đây là 2 con mắt của ngôi nhà đấy!”

Lữ bật cười vì thấy thật đúng như Balas nói.

Anh ta giải thích:

“Khi xây ngôi nhà, người ta làm phần mái chỗ này nhô lên hai chỗ, bên dưới làm cửa sổ nên cửa sổ phải làm theo đường vòng đó. Nhưng giống 2 con mắt phải không?”

Lữ gật đầu thích thú.

“Ở xứ anh cái gì cũng hay!”

Anh bạn Balas cười sung sướng trước lời khen ngợi đó. Balas dặn dò Lữ:

“Phòng này không có phòng tắm riêng. Anh phải dùng phòng dưới nhà”

“Được, không sao”

“Anh sẽ ở đây bao lâu?”

“Một ngày đi, một ngày về. Ở đây 5 ngày”

“Nếu anh muốn đi chơi luôn cũng được. Nhưng khi nãy anh nói là muốn đi thăm thủ đô sau cùng phải không?”

“Tôi thích căn phòng này quá. Muốn ngủ đêm 1 tối coi ra sao. Tôi đổi ý. Mình đi xa ngày mai.”

“Sao cũng được. Đằng nào tôi cũng phải sắp xếp công việc đã”

“Xin nghỉ có dễ không?’

Balas gật đầu:

“Không thành vấn đề. Mình có thể đi chơi thủ đô hôm nay. Anh có bị buồn ngủ không? Nếu ngủ bây giờ thì khó quen giờ lắm”

“Nghỉ chừng 1 tiếng rồi mình đi được không?”

“Tốt lắm. Một tiếng nữa tôi sẽ lên gọi anh. Cần tắm rửa gì không? Để tôi chỉ anh phòng tắm bên dưới”

Balas chỉ dẫn mọi thứ rồi để mặc Lữ.

Để nguyên quần áo đi đường, Lữ nằm xuống sàn gỗ, dùng một trong những chiếc gối dưới sàn làm gối đầu. Chàng nghiêng người không muốn nhìn lên trần vì gần quá. Quả thật căn phòng này có một không gian riêng như lời Balas nói khi nãy. Không biết ai là người bài trí căn phòng này? Balas hay Etilka?

Có tiếng gõ cửa phòng. Lữ bật dậy ra mở cửa lòng thầm nghĩ: “Chưa tới 1 tiếng mà?”.

Gương mặt thân thiện của Balas hiện ra ở ngoài cửa:

“Tôi quên không nói là nhà có computer và internet, anh có thể xử dụng bất cứ lúc nào nếu cần.

Vừa nghe đến”computer” là Lữ nổi da gà. Chàng đang muốn quên cơ mà!

Lữ lắc đầu:

“Cám ơn, nhưng không cần”

Balas cười giơ một ngón tay lên:

“À, anh đâu muốn nghĩ đến công việc”

Lữ gật đầu và khép cửa phòng tự nhủ: “Muốn quên không phải dễ!”

Chàng chỉ mang đi vài bộ quần áo trong va-li nhỏ. Trước mặt chàng là những gì mới lạ, những con người mới, xứ sở lạ.. như thể chàng đang bước vào một thế giới khác. Mà thực sự là như vậy còn gì? Nếu như Balas và vợ anh ta không nói được tiếng Anh, và dĩ nhiên không nói tiếng Việt thì quả thật Lữ như đang ở trong một giấc mộng!

Chàng nhìn ngắm căn phòng. Trên vách có duy nhất một bức tranh. Lữ bò lại gần thay vì đứng lên và phải cúi đầu vì bức tranh treo gần sát mặt sàn.

Bức tranh vẽ hình thiếu nữ ngồi vắt chân, bên cạnh có hồ cá. Gương mặt người thiếu nữ không rõ lắm. Mái tóc cột sau lưng và không có nụ cười. Tổng thể bức tranh có nhiều tông màu cam đỏ, chút màu xanh lục ở chiếc áo người thiếu nữ. Da của cô ta cũng có màu cam. Người thiếu nữ mặc quần ngắn lộ đôi chân trần, nhưng cô ta không nổi bật trong bức tranh. Làm như cô ta chìm đi lẫn vào những màu cam đỏ xung quanh. Điểm làm Lữ chú ý là hồ cá bên cạnh chỗ cô ta ngồi. Hồ cá nhỏ có mỗi một con cá đang bơi trong hồ. Nhưng ánh nắng bên ngoài trong bức tranh rọi ngay vào hồ cá một vệt sáng, xuyên qua con cá. Trên chốc hồ cá có bình hoa cắm độc nhất một bông hoa hồng màu xanh dương. Vệt sáng bên ngoài cũng rọi qua bình hoa làm sáng rỡ ở phần bình hoa và con cá lội trong hồ. Cái vệt sáng lung linh làm rộn lên niềm vui khi nhìn vào bức tranh. Người thiếu nữ trong tranh có thấy vui như Lữ đang nhìn thấy niềm vui từ đó?

Chàng lại nhìn 2 con mắt của căn nhà. Chắc chỉ có căn nhà này có đôi mắt lạ lùng đó mà thôi!

Lữ nằm nghỉ và lơ mơ trong khung cảnh mới lạ.

Một lúc sau, Balas gõ cửa. Lữ ngồi dậy, lấy điện thoại và ví nhét vào túi.

“Vào đi!”

Balas hỏi Lữ:

“Anh nên mang theo áo khoác ngoài vì mình sẽ đi đến tối mới về. Tối trời lạnh.”

“OK”

“Anh muốn đi đâu?”

Lữ cười đáp:

“Sao anh hỏi tôi? Anh là hướng dẫn viên mà. Anh soạn chương trình, lộ trình, tôi đi theo. Tôi lười suy tính lắm”

Xuống đến nhà, Balas ôm hôn vợ nói:

“Tụi anh sẽ đi đến khuya mới về. Đừng đợi”

Etilka cười, gật đầu.

Balas vừa lái xe vừa nói về nơi đây:

“Như tôi đã nói khi nãy thủ đô Budapest là sự kết hợp của 3 thành phố nhỏ Buda, Pest và Obuda. Buda bên phía tây là vùng đất cao nguyên, nhiều đồi núi, thành quách và cung điện của nhiều nhà vua ngày xưa. Bên Buda có những địa điểm thăm viếng như Fisherman’ Bastion, Thánh đường Matthias, nhà thờ St. Michael, viện bảo tàng, tượng đài, nhà tắm nổi tiếng Gellert..

Bên phía đông của giòng sông Danube là vùng bình nguyên thành phố Pest với nhiều kiến trúc cổ thời Trung cổ. Bên Pest có những chỗ mình có thể đến như tòa nhà Quốc hội, quảng trường tượng đài Kossuth, nhiều thứ lắm anh muốn đi xem đâu?”

“Anh lái xe đi ngang đi, chỗ nào thích thì mình xuống xem”

Vừa lái xe, Balas vừa chỉ và giải thích:

“Anh có biết là Budapest là nơi có nhiều di sản văn hóa thế giới được Unesco công nhận không?”

Coi bộ anh chàng này hãnh diện về quê hương của mình quá, Lữ nghĩ thầm.

“Đây là đại lộ Andrassy nơi mà mấy nhà làm phim Holywood thường chọn quay những cảnh đầu tiên về châu Âu”

Đến đoạn cuối của đại lộ Andrassy, Balas giải thích tiếp:

“Chỗ này là quảng trường Anh Hùng nằm giữa hai tòa nhà văn hóa là Art Gallery và Museum of Fine Arts. Anh thấy nhiều tượng ở quảng trường này không? Toàn là tượng danh nhân lịch sử của xứ sở Hungary cả.

Buda và Pest nối nhau bằng 7 cây cầu bắc qua sông Danube. Nổi tiếng nhất là cầu Sư Tử, là biểu tượng của Budapest. Hai thành phố này còn nối nhau bằng tuyến tàu chạy ngầm dưới đất, nằm dưới đại lộ Andrassy.”

Lữ vừa ngắm cảnh vừa nghe Balas giảng giải. Chàng chẳng nhớ bao nhiêu nhưng có cảm giác thoải mái và an bình. Chàng buột miệng hỏi Balas:

“Điểm độc đáo nhất của Budapest là gì?”

Balas cười thích thú:

“Budapest vô địch trên thế giới về số lượng phòng tắm nước khoáng. Vì vậy Budapest được gọi là Thành phố suối nước nóng. Chúng tôi có câu nói: “Nếu bạn chưa từng ngâm mình ở một trong những suối nước nóng ở đây thì coi như bạn chưa từng đến Budapest”. Budapest có hơn 100 suối nước nóng nếu tôi nhớ đúng. Hầu như tất cả các khách sạn bình dân hay sang trọng đều có những spa với nước nóng đó. Có điều đặc biệt nhất là dân địa phương có thú vui vừa chơi cờ vừa ngâm mình trong nước nóng để bồi bổ sức khỏe”

“Anh và vợ anh có làm như vậy không?” Lữ vừa cười vừa hỏi.

Balas phá lên cười:

“Không!”

“Vậy thì tôi cũng đâu có đến đó tắm làm gì?”

Cả hai cùng cười to.

Balas đề nghị:

“Mình đi bộ đi! Một lát rồi đi ăn những món ăn đặc biệt ở đây, anh nghĩ sao?”

“OK! Tôi ngồi trên máy bay lâu quá rồi, cũng nên đi cho giãn gân cốt”

“Từ chỗ đậu xe rồi đi bộ xa nhiều à!”

“Không sao!”

Balas đưa Lữ đi nhiều nơi mà du khách nào đến Budapest cũng không thể bỏ qua. Đến chiều nhiệt độ xuống thấp đột ngột. Lữ thấy lời khuyên của Balas có lý.

Khi đi ngang nhà hát hài kịch Vigszinhaz ở ngay trung tâm Budapest, Lữ chú ý đến những áo lạnh treo hàng loạt ở một góc. Những chiếc áo có vẻ cũ, không phải là áo mới và đẹp gì. Chàng ngạc nhiên hỏi Balas:

“Người ta bán áo cũ à? Sao lại treo ở đây?”

Balas lắc đầu:

“Anh thấy cái bảng treo ngay đó không? Hàng chữ đó viết: “Nếu bạn lạnh, hãy lấy một chiếc áo. Nếu bạn không muốn những người khác bị lạnh thì hãy treo một chiếc áo ở đây”.

“Ai làm chuyện này?”

“Anh đến đây là mùa thu nên chưa thấy cái lạnh của xứ này trong mùa đông. Trời lạnh giá lắm, những người vô gia cư bị ảnh hưởng nhiều nhất, họ sống dưới gầm cầu hay trong những cái lều ở những khu rừng gần thành phố. Có một anh chàng trẻ tuổi kia tên là Gerloczy Zsigmond đã khởi xướng phong trào Szabadfogas có nghĩa là Mắc Áo Tự Do. Anh ta kêu gọi trên mạng xã hội đề nghị mọi người ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ môi trường nào, nếu có áo lạnh không dùng đến, hãy mang tới một địa điểm công cọng có nhiều người qua lại và để đó kèm theo dòng chữ khuyến khích rủ thêm nhiều người tham gia để không một ai bị lạnh.”

Lữ gật gù:

“Hay! Hay quá! Rồi có được hưởng ứng mạnh không?”

“Mạnh lắm! Anh có biết không, chưa tới 1 tuần lễ mà trên toàn quốc nước Hungary của chúng tôi đã có trên 100 thành phố, ngay cả ở những làng mạc xa xôi đều hưởng ứng phong trào này. Ngay tại Budapest không thôi mà có tới hơn 40 địa điểm để mắc áo tự do. Ai ai cũng hưởng ứng và thấy có lý quá. Người ta đem tới đủ thứ quần áo, nhiều đồ còn tốt mới mặc. Sau câu chuyện này nhờ vậy nhiều người còn mang thức ăn đến cho những người nghèo, thiếu thốn nữa”

“Cậu thanh niên đó cần được tuyên dương!”

Balas nói ngay:

“Anh ta đâu cần được tuyên dương hay khen thưởng gì. Sự hưởng ứng là phần thưởng rồi còn gì nữa. Nhưng mà anh không thể tưởng tượng được là chỉ mấy ngày sau khi Gerloczy Zsigmond khởi xướng và kêu gọi phong trào Mắc Áo Tự Do, phong trào này đã lan sang các nước Châu Âu với tốc độ nhanh chóng không thể ngờ nổi!”

“Hay thật!” Lữ nói với vẻ ngưỡng mộ. “Một hành động giản dị mà lại gây nên sóng lớn như vậy!”

Balas nói tiếp với vẻ tự hào về con người và xứ sở mình:

“Anh có thấy một Châu Âu đang phải đối diện với bao thách thức và khó khăn trong một thế giới đầy bạo lực và chia rẽ thì hành động của anh ta đã khơi dậy tình thương và sự cảm thông chia sẻ với người khác đã nhóm lên một ngọn lửa để gắn kết con người với con người không?”

Balas càng nói càng hăng say nói tiếp:

“Tôi nghĩ con người cần phải được đánh thức để trở về với tình đồng loại thay vì chém giết nhau, anh có đồng ý như vậy không?”

“Đấy chỉ là trên nguyên tắc còn thực tế không phải vậy. Cần có nhiều người với những hành động như vậy nữa để thay đổi”

Ngay lúc đó Lữ thấy mình chỉ nói hùa theo sự hăng say của Balas nhưng trong lòng chàng ngổn ngang những nghi kỵ. Tự dưng chàng thấy mình nhỏ mọn và con người mình càng vô nghĩa hơn! Lữ thấy mình bị buộc chặt vào con người của chính mình và cứ quẩn quanh với mình, với.. những con người khác trong tác phẩm của Lữ. Con mắt chàng dường như mở ra cho thấy những thứ bên ngoài mình, những thứ làm nên cuộc đời!

Balas chợt hỏi Lữ:

“Anh làm gì ở Mỹ?”

Lữ như sực tỉnh:

“Tôi.. làm nhiều thứ..”

“Chẳng hạn như?”

“Tôi viết truyện phim.. viết.. tiểu thuyết”

Balas mở to mắt nhìn Lữ với vẻ thích thú:

“Thật à? Hay quá nhỉ?”

Lữ nhếch mép cười không nói gì. Ai nghe chàng nói đến công việc mình cũng bảo hay quá.. ngay cả bà Hoài! Chàng hỏi lại Balas:

“Tại sao anh bảo là hay?”

“Bởi vì công việc đó không phải ai làm cũng được. Có những nghề, anh học rồi anh làm. Nhưng có những nghề ngoài chuyện học hỏi còn đòi hỏi thêm thiên phú”

Lữ cười không biết phải trả lời thế nào.

Balas có vẻ ngạc nhiên:

“Không đúng sao?”

“Đúng mà cũng không đúng. Mỗi người có một công việc khác nhau theo khả năng của mình. Tốt nhất là anh có khả năng và thích công việc mình làm”

“Đúng! Nhưng không phải ai cũng được như vậy hay yêu công việc mình làm, đúng không? Hay làm chỉ vì lo kiếm sống!”

Lữ hỏi lại Balas:

“Anh làm gì?”

“Tôi làm về điện toán. Mọi sự trong công việc của tôi thuần túy là máy móc, nên những gì có tính nhân văn thì tôi thích lắm. Tôi thích đọc sách, mê phim ảnh nhưng không có tài về những thứ đó”

“Tôi thấy anh có tài kể chuyện. Từ lúc gặp anh đến giờ, anh kể cho tôi rất nhiều câu chuyện lý thú. Anh có thể là nhà văn được. Cứ thử xem!”

Balas cười có vẻ ngượng nghịu nhưng không dấu được sự thích thú.

“Anh đói chưa, chúng ta đi ăn?”

“Ăn được rồi đấy. Cho tôi ăn những gì là thuần túy của xứ anh để tôi có thể kể lại khi về Mỹ”

“Ở quận 6 và 7 bên bờ đông sông Danube là nơi tập trung nhiều quán bar và hàng ăn. Đủ thứ loại. Nhưng ở khu vực quảng trường Main Square là nơi có món súp cá cay mà chúng tôi thích nhất. Đây là món đặc biệt không đâu có. Anh có ăn cay được không?”

“Tôi thích đồ cay. Mình đến đó đi!”

Món súp truyền thống của Hungary ngon thật! Họ dọn món súp trong một cái tô bằng sắt có quai như cái nồi. Nước súp sền sệt có màu đỏ nâu nâu, khoanh cá cũng cùng màu. Bên trên còn để mấy trái ớt đỏ và rau gì xanh xanh như rau ngò. Vừa ăn vừa.. cay, nhưng Lữ thấy ngon! Chàng ăn ngon miệng.

Cả hai vừa ăn, vừa uống bia nội địa của Hungary vừa nói chuyện. Họ nói đủ thứ chuyện. Balas tò mò nhiều thứ về Mỹ và truyền thống và văn hóa Mỹ. Khi trở lại câu chuyện về Hungary, Lữ lại nhớ đến mắc áo tự do. Mà có lẽ chàng sẽ nhớ đến câu chuyện này hoài.

Lữ nói:

“Tôi sẽ kể về câu chuyện Mắc Áo Tự Do cho bạn bè của tôi ở Mỹ nghe. Mà anh có thấy chiếc mắc áo như đôi bờ vai của một người. Chiếc áo được lấy ra khỏi mắc áo như một người cởi bỏ mình và đem cho đi. Chuyện chịu bước ra khỏi mình đã khó mà còn đem cho đi càng khó hơn!”

“Càng nghĩ sâu sắc như anh càng thấy khó. Giản dị hóa sẽ dễ lắm! Anh là nhà văn có khác!” Nói xong Balas nhe răng cười.

Người bạn Hungary nói đúng thật, Lữ nghĩ thầm rồi cũng cười theo.

“Anh thích những chuyện như vậy thì tôi sẽ đưa anh đến một nơi cũng khá đặc biệt”

“OK, mình đi!”

Lữ dành chuyện trả tiền. Sau bữa ăn và những câu chuyện trao đổi, Lữ và Balas gần gũi nhau hơn.

Balas và Lữ đi về phía sông Danube, con sông nổi tiếng chảy qua nhiều quốc gia.

Đến một quãng, Balas giải thích trước khi Lữ hỏi:

“Anh nhìn thấy những đôi giầy cũ trên bờ sông kia không?”

Theo tay của Balas chỉ, Lữ nhìn thấy một lô những chiếc giầy cũ của đàn ông, đàn bà, đủ cả nằm ngổn ngang bên bờ sông. Rải rác có những bó hoa, cành hoa nằm bên cạnh như rác rưởi.

“Có, có thấy!”

“Một dấu ấn lịch sử còn lưu lại! Không phải là một vết tích đẹp của lịch sử nhưng là một trong những vết nhơ, nhưng như anh biết lịch sử là lịch sử! Có tất cả khoảng 60 đôi giày. Đây là nơi vào năm 1944, những tên phát xít Arrow Cross là nhóm dân tộc cực đoan thời Đệ Nhị Thế Chiến đã bắn một nhóm người Do Thái ở đây và ném xác những nạn nhân xuống sông. Những hoa cùng nến trong mỗi chiếc giầy là của những người sau này đến đây thấy xúc động và đặït hoa như một hoài niệm”.

Những thứ tưởng là rác rưởi mà không ngờ lại có một lịch sử bi thảm đến thế, Lữ nghĩ thầm. Xứ sở này còn lưu lại nhiều dấu tích của quá khứ! Chàng thấy ngậm ngùi.

“Đây là những đôi giày của nạn nhân?”

“Ồ không, anh nhìn kỹ lại đi, đây là những đôi giầy giả bằng sắt được đóng xuống đất bởi một ý tưởng của đạo diễn phim ảnh là Can Togay cùng với điêu khắc gia tên gì tôi quên mất rồi để vinh danh những nạn nhân bị giết trong Đệ Nhị Thế Chiến như tôi kể hồi nãy. Những nạn nhân bị buộc phải cởi giầy để lại trên bờ. Thời đó khoảng 3,500 nạn nhân bị giết ở đây, 800 người là người Do Thái. Có bảng đồng đề rõ kìa!”

Lữ không nói gì. Lữ cũng không muốn đọc những gì ghi trên bảng đồng vì Balas đã kể hết rồi. Cả Balas cũng vậy. Cả hai người đứng bên bờ sông Danube khi chiều xuống. Ánh nắng chiều của mùa thu vàng và nhẹ lướt trên sông như mơn trớn những nỗi đau thầm kín của một giai đoạn lịch sử u tối của thế giới.

Chuyến đi này đối với Lữ đã làm chàng thay đổi ở một khía cạnh nào đó. Có lẽ bà Hoài có lý!

Cả hai đứng bên bờ sông khá lâu nhìn hoàng hôn xuống. Mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình.

Khi quay đi, mắt Lữ chợt dừng lại ở cành hoa hồng đỏ nay với ráng chiều đã đổi sang mầu nâu nâu đỏ mà ai đó bỏ lại bên chiếc giầy bằng sắt màu đen. Vài cánh hoa rơi nằm gần đó. Như bị điện giật, Lữ vội vàng quay đi không dám nhìn nữa! Những cánh hoa làm Lữ nhớ đến tiểu thuyết dở dang của mình! Mới có xa rời tiểu thuyết của mình chưa được bao lâu, Lữ nghĩ thầm!

Tiếng Balas nói làm Lữ giật mình:

“Đi về nhé rồi mai còn đi xa!”

Lữ gật đầu, mau chóng theo chân anh bạn Hungary.

Trên đường đi bộ về lấy xe, hai người không nói chuyện với nhau mấy, không hiểu vì cảnh quan buồn thảm vừa qua hay vì cũng mệt nhoài.