← Quay lại trang sách

Chương 12

Đêm đó ngủ trong căn phòng lạ với cửa sổ có hai con mắt nhưng Lữ ngủ say có lẽ vì mệt. Đến sáng chàng thức giấc vì mùi cà phê và có lẽ là bánh thơm phức ở dưới nhà. Lữ dậy, xuống nhà tìm phòng vệ sinh cho khách. Nước mát làm chàng tỉnh táo.

Thay quần áo xong, Lữ xuống nhà dưới. Vừa ra khỏi cầu thang đã nghe Balas gọi:

“Vào đây ăn sáng đã!”

Etilka tỏ ra là một nội trợ đảm đang. Cô ta đã cho Lữ một bữa ăn sáng với bánh mì đặc biệt của nơi đây. Lữ ăn ngon miệng và khen rối rít.

Ăn xong, Blas dặn Lữ:

“Anh mang hết đồ đi vì mình sẽ đi vài ngày. Có cần mua thêm gì không?’

Lữ lắc đầu:

“Tôi chỉ có vài bộ quần áo và điện thoại”

“Thiếu thứ gì mình có thể mua dọc đường. Bất cứ khi nào anh chán muốn quay về thì mình về”

“Chưa đi làm sao biết là chán? Sợ anh chán tôi và muốn mau mau về với vợ anh thì có!”

Mọi người đều bật cười. Balas ôm hôn vợ khá lâu. Lữ quay đi. Đây không phải là những nụ hôn trong phim ảnh mà là đời thường! Đời thường lay chúng ta bằng những đụng chạm nhẹ mà râm ran!

Từ Budapest, men theo sông Danube, ngược về phía biên giới với Slovakia, Balas muốn đưa anh bạn du khách Mỹ này làm một cuộc hành trình lịch sử.

Xa nhất, nằm ở vị trí sông Danube bắt đầu mang tên Duna và chảy vào đất Hungary là Esztergom, cố đô của Hungary. Đây là nơi đăng quang của Istvan Đệ nhất, người sáng lập ra Hugary. Esztergom là thủ đô đầu tiên của xứ sở này. Balas chọn đường nhỏ đi ngang những cánh đồng và rừng.

Gió ban mai se lạnh, cảnh vật hai bên an bình. Cách Budapest chừng 20 cây số là Szentendre. Balas ngừng xe ở đây. Anh ta nói với Lữ:

“Dừng chân ở đây một lúc đi. Thành phố này còn giữ những nét cổ xưa lắm, rồi anh sẽ thấy”

Rất nhiều đường xá ở thành phố này vẫn là những con đường đá gồ ghề từ bao nhiêu năm qua. Những con dốc thoai thoải trải đá, hai bên nhà cửa thâm thấp nhỏ bé như đi về vùng quê. Không thể tìm thấy những chộn rộn trong đời sống ở đây. Làm như tất cả mọi người đều sống chậm lại để nghỉ ngơi.

Vào đến một khu mới hơn có hàng quán, nhưng những con đường nhỏ cũng lát đá cổ xưa. Có nhiều nhà hai tầng, trước cửa để những chậu hoa. Có quãng lại treo dù nhiều mầu trên cao như vòm mái rất bắt mắt và ngộ nghĩnh.

Lang thang một lúc rồi lại lên xe tiếp tục cuộc hành trình.

Balas đưa Lữ đến những nơi “Phải đến” ở đây cho biết. Chiều, cả hai bỏ đường rừng, lái xe men theo sông đến Visegrad vào một tiệm ăn ven sông ăn tối.

Balas vui vẻ nói:

“Anh phải nếm thử món gà ở đây. Chúng tôi gọi là gà đồi. Tiệm ăn này rất nổi tiếng”

“Tại sao lại gọi là gà đồi?”

“Chính phủ chúng tôi có chính sách bán công trái lấy thẻ cư trú cho người ngoại quốc. Tôi không nhớ đích xác là bao nhiêu nhưng hàng chục ngàn người Tàu và người Việt Nam đã định cư ở đây vì luật đó. Xin lỗi anh nhé.. gốc của anh là.. người Tàu hay người Việt?”

Lữ cười đáp:

“Gốc của tôi là người Việt Nam”

“Tôi không phân biệt được. Xin lỗi anh, tôi thấy hai giống người này rất giống nhau! Nhưng trở lại với câu chuyện gà đồi. Khi có một lô người Á Châu này đến đây định cư thì nghe đâu nông dân Hung biết là những người Á đông này thích ăn thịt gà thả rông nên họ mua về nuôi trong vườn, cho ăn ngũ cốc rồi bán cho những người Á đông này. Từ đó có món gà đồi ngon tuyệt!”

Lữ cười cười chẳng nói gì. Xem ra thứ gì của xứ sở Balas cũng hay cả theo ý anh ta! Chàng định kể cho Balas nghe là ở Mỹ, người Việt Nam gọi giống gà này là gà đi bộ chứ không phải gà đồi, nhưng rồi lại thôi.

Balas cười nói tiếp:

“Anh không thể tưởng tượng số gà vịt được nuôi đông hơn dân cư ở đây”

Lần này thì Lữ cười to!

Trong bữa ăn tối, món gà đồi mà Balas giới thiệu cũng không có gì xuất sắc nhưng Lữ cứ phải khen cho anh bạn thích.

Chính Lữ cũng ngạc nhiên cho chính mình khi có thể thân thiện và cởi mở với Balas như vậy. Hay chỉ bởi vì đây là một người mà chàng chỉ gặp một lần trong cuộc đời và có lẽ không bao giờ có cơ hội gặp lại.

“Muốn ở lại đây 2 ngày không?”

“Tại sao 2 ngày?”

“Ở thành phố này có những quán rượu nho nhỏ mà các họa sĩ và giới văn nghệ tụ tập rất đông”

Balas chỉ nói có thế. Lữ ngạc nhiên hỏi lại:

“Rồi sao?”

“Mấy anh họa sĩ mang giá vẽ vào trong quán vừa uống rượu vừa vẽ. Thành phố này là thiên đường của mấy anh họa sĩ”

“Họa sĩ thật hay giả?”

Đến phiên Balas cười ngất:

“Thật chứ. Nhưng anh có thể mua giá vẽ và sơn đến đó vẽ lung tung mà chẳng ai cần biết vì một hồi thì toàn người say cả”

“Tôi không biết vẽ nhưng tôi cũng muốn thử cảm giác ở một trong những cái quán như vậy”

“Anh cứ vẽ, có ai cấm đâu. Khi về lại Mỹ nếu anh không muốn mang theo về nhà thì anh có thể để lại trong căn phòng anh ở trong nhà tôi như một kỷ niệm”

Lữ gật gù:

“Nhưng mua mấy đồ đó ở đâu?”

“Họ bán ngay bên ngoài cho du khách”

“À ra thế!”

“Ngày hôm sau đi chơi tiếp và nếu anh muốn, mình có thể cắm lều ven sông ngủ qua đêm ngắm trăng sao. Tôi bảo đảm chưa có du khách nào qua những trải nghiệm như thế”

“Tôi thích những ý kiến đó của anh. OK mình làm như vậy đi”

Đêm đó trong một quán rượu nhỏ, Lữ đã uống thử rượu vang trắng Tokaji. Balas giới thiệu đây là loại rượu vang dành cho giới quý tộc thời xưa. Vua Louis thứ 14 của Pháp đã phong cho Tokaji là vương tửu. Trong cái hỗn độn của quán rượu, Lữ cũng đã thử vẽ lung tung trên một giá vẽ mua trước đó. Nhưng điều chàng không ngờ đến là Lữ đã vẽ trong cơn say mơ màng những cánh hoa hồng đỏ xấu xí bị dập vùi. Hành động của Lữ ra khỏi tầm kiểm soát bản thân.

Balas hỏi Lữ:

“Tại sao lại vẽ những cánh hoa này? Sao không vẽ hoa tươi đẹp mà lại vẽ hoa héo tàn?”

Lữ hoảng hốt như người bị bắt quả tang đang làm một việc xấu. Chàng luống cuống chống chế:

“Tại tôi không biết vẽ!”

Nhưng trong thâm tâm Lữ biết mình đã không quên được tác phẩm của mình và những cánh hoa này đã theo chân Lữ sang tận đất Hungary!

Chàng nói tiếp:

“Tôi vẽ xấu quá, chỉ có vất đi thôi, đừng mang về làm gì”

Balas không nghe:

“Không, bức tranh này có một chỗ đứng riêng của nó. Nhìn nó tôi sẽ nhớ đến anh như một người bạn”

Lữ gật đầu:

“Chúng ta là bạn!”

Ra khỏi quán rượu, trời đã khuya. Lữ cầm theo bức tranh vẽ lần đầu tiên trong đời. Cơn say vẫn còn vương vất đâu đây, Lữ không thấy lạnh. Balas nghêu ngao hát những bài ca bằng ngôn ngữ của anh ta. Giọng Balas hơi trầm, có những nốt nhạc xuống thấp nghe đục. Lữ không hiểu ca từ của bài nhạc nhưng nghe không mấy vui. Bức tranh trong tay chàng nhẹ mà nặng! Làm sao Lữ quên được những gì chàng đã viết? Những điều đó như một thứ nhựa dính vào người chàng, gỡ không ra! Lữ ước gì có bà Hoài đang đi bộ cùng chàng và Balas trong đêm dưới ánh sao cao vút của Hungary lúc này. Và chàng sẽ bảo với bà ta: “Bà phải cảm nghiệm được những gì đang xảy ra cho tôi thì bà mới hiểu được vì sao tôi không dứt bỏ được những điều ám ảnh..”

Chỉ có Lữ, bức tranh vẽ dở dang xấu xí còn mùi sơn ướt và Balas với giọng ca nay rề rề vì mệt mỏi hay vì buồn ngủ?

Họ về ngủ tại một khách sạn nhỏ bên đường. Cả hai chẳng tắm rửa, cứ thế lăn ra ngủ.

Sáng hôm sau, Balas và Lữ đi ngang những thành phố nhỏ, đường phố hẹp trải đá, ngang những gác chuông nhà thờ cổ kính như một nhắc nhở của niềm tin tôn giáo. Họ lên thăm pháo đài cổ nơi đã từng chứng kiến những trận chiến giữa Thổ và Hung.

Szentendre là một thành phố được xây dựng trên triền đồi nhìn xuống sông Danube.

Blas kể cho Lữ nghe về thành phố này:

“Thị trấn này chỉ có hơn một ngàn cư dân nhưng văn hóa lại rất đa dạng vì kết hợp của nhiều quốc gia. Anh sẽ thấy những ngôi nhà xây kiểu Đức, nhà thờ Chính thống giáo Serbi bên kia. Mấy quán cà phê kiểu Ý. Là một điểm tụ hội mà hài hòa. Tôi thích thành phố này, nhưng dĩ nhiên không muốn sống ở đây. Anh có tin là những câu chuyện lịch sử vẫn còn đọng lại trên những vách tường và những con đường mà mình đã đi qua không?”

Lữ cười:

“Tôi đã bảo, anh có thể thành nhà văn là vậy mà!”

Lữ theo chân Balas đi khắp những nơi di tích lịch sử, ngang những cửa hàng bán đồ lưu niệm, bán tranh. Ở góc phố nào cũng thấy giá vẽ và sơn hay bột màu.

Đêm thứ nhì cả hai cắm lều ngủ trên đồi nhìn xuống sông Danube. Chiếu lều sặc sỡ nhỏ vừa đủ để hai người nằm thoải mái. Chẳng bao giờ ngủ ngoài trời như thế này, Lữ biết mình sẽ mất ngủ.

Ngồi trên đồi, nhìn xuống giòng sông Danube lặng lờ sậm màu nhưng lấp lánh ánh trăng. Một cảm giác yên bình đến cho cả hai người.

“Anh lạnh không?” Balas hỏi “Uống chút gì nóng không?”

“Uống gì bây giờ? Mình ăn uống nhiều quá rồi!”

Balas chợt đứng lên đi ra xe. Lữ tưởng Balas tìm thức uống hay rượu chăng. Nhưng không, anh ta trở lại với cây đàn guitar!

Lữ ngạc nhiên:

“Anh chơi đàn guitar ư?”

Anh ta gật đầu:

“Đây là người bạn thân thiết của tôi. Nó vui cùng với tôi và cũng chia nỗi buồn với tôi”

Trong bóng tối, Balas không nhìn thấy vẻ thích thú trên gương mặt Lữ.

“Anh có chơi đàn gì không?”

Lữ cười:

“Tôi chơi nhiều thứ đàn lắm!” Nói xong Lữ bật cười.

“Vậy à? Anh đánh đàn guitar đi!”

“Tôi nói đùa thôi! Có chơi đàn thì chỉ chơi trong.. tác phẩm của mình chứ thật ra chẳng biết gì hết”

Balas cười ngất:

“Chưa thấy ai nói như anh cả!”

Anh ta ôm đàn vuốt ve như âu yếm rồi đàn. Tiếng đàn thoạt tiên vang lên trong đêm rời rạc như những giọt sương, giọt mưa từ trời rơi xuống. Những nốt nhạc rời, bỏ lửng trôi bềnh bồng như khơi dậy chút cảm xúc, thăm dò đêm thinh lặng. Có lúc cao, lúc trầm, to, nhỏ như thầm thì..

Balas không ngừng ở một bản nhạc mà là những bài nhạc nối tiếp nhau liên lỉ. Lữ bị lôi cuốn vào giòng nhạc của Balas như một kẻ bị hớp hồn.

Tiếng đàn, rồi thỉnh thoảng tiếng ca của Balas như mê hoặc Lữ. Những nốt nhạc rót vào tâm hồn Lữ mượt mà nhưng đầy tình tự. Có lúc chàng không biết mình đang ở đâu.. Chỉ có trăng sao, giòng sông trước mặt và tiếng đàn mê hoặc..

Balas ngừng đàn mà Lữ cũng như chưa tỉnh.

“Lạnh rồi! Đi ngủ chứ?”

“Anh bạn chơi hay quá!”

“Tôi đàn lung tung theo hứng mà thôi. Tôi đã tán vợ tôi với cây đàn này đó!”

“Nếu tôi là đàn bà tôi cũng sẽ xiêu lòng vì tiếng đàn của anh”

Cả hai cùng cất tiếng cười to!

“Anh đi ngủ trước đi. Tôi còn muốn thức.. với Hungary. Đây là chuyến đi đáng nhớ.. không muốn bỏ phí những giờ khắc tỉnh thức để chiêm nghiệm..”

Balas vào lều. Anh ta vặn nhỏ chiếc đèn, nhưng trong đêm tối, ánh đèn vàng vẫn thắp sáng chiếc lều mầu sặc sỡ. Và đêm khuya dường như sâu hơn.

Lữ nằm xuống cỏ, vòng hai tay ra sau gối đầu. Những tiếng rỉ rả của côn trùng trong đêm nghe rất rõ. Mắt chàng không rời bầu trời và trăng sao trên cao kia nhưng tâm hồn như mở rộng với không gian bát ngát. Bất chợt những âm giai trong bản nhạc Vocalise của Sergei Rachmanioff với tiếng đàn violin thiết tha réo rắt mà nhạc sĩ Joshua Bell diễn tả vang lên trong đầu Lữ. Bản nhạc quen thuộc mà Lữ say mê nghe mãi không chán đến thấm đậm trong tim óc. Chàng có cảm tưởng người mình được nhấc lên khỏi mặt đất, bay bổng, bay cao đến gần những ngôi sao. Càng cao, càng xa mặt đất bao nhiêu thì những vì sao trên kia lại càng lùi xa thêm..

Có tiếng động xa xa làm Lữ choàng tỉnh.

Tâm hồn Lữ trống rỗng. Chuyến đi xa này rồi cũng kết thúc trong vài ngày. Chàng hy vọng mình sẽ đổi khác, sẽ như chiếc mắc áo tự do cởi ra đi khỏi mình để mang đến hơi ấm cho một người khác. Nhưng làm sao chàng quên được Đoàn và tiểu thuyết của mình? Những lần viết kịch bản, truyện phim, chàng viết dễ dàng và không vướng mắc gì. Những nhân vật của chàng, câu chuyện của Lữ được người ta dựng lên thành phim ảnh. Những nhân vật bước ra khỏi kịch bản, câu chuyện thành người thật, chuyện thật và Lữ đã mau chóng rũ bỏ những câu chuyện, những con người đó dễ dàng như uống cạn một ly nước, không để lại dấu tích và cảm xúc gì. Chàng phủi tay!

Nhưng trong tiểu thuyết của Lữ, chúng không phải là kịch bản, chúng thuộc về chàng. Trừ phi tiểu thuyết của Lữ được mua để làm phim? Điều này có xảy ra hay không? Hiện tại chàng muốn giữ hết cho mình như thể chàng sống chết với những nhân vật mình tạo dựng. Chàng chưa nói hết được với bà Hoài!

Tại sao suy nghĩ điều gì đi nữa rồi Lữ vẫn trở về với người cố vấn tâm lý tên Hoài. Lữ không nghĩ nguyên nhân chính là chàng muốn chia sẻ với một ai khác về tiểu thuyết của mình. Chàng viết xuống dễ dàng nhưng bộc lộ bằng lời nói thì khó khăn!

Đêm đã chín và Lữ cũng cần ngủ. Chàng chui vào lều. Nằm cạnh một người đàn ông trong chiếc lều nhỏ cho một cảm giác kỳ dị! Giấc ngủ đến với Lữ lúc nào chàng cũng không biết. Những mộng mị theo nhau rời rạc trong giấc ngủ…

Balas và Lữ bị đánh thức bởi những tiếng kêu quang quác của những con thiên nga đen.

Balas hỏi Lữ:

“Ngủ được không?”

Lữ gật đầu.

Dậy, thu dọn lều.

Lữ hỏi Balas:

“Mình vòng về chứ?”

“Anh chán rồi ư?”

“Tôi tưởng anh phải về đi làm?”

Balas gật đầu:

“Tôi cũng không nghỉ lâu được”

“Đi như vậy cũng quá đủ” Lữ nói “Về lại Budapest đi, tôi có thể lang thang một mình trong thành phố được”

“Anh cứ đi chơi một mình. Khi muốn về gọi tôi!”

“Có lý!”

Đêm cuối cùng ở Budapest, Balas đưa Lữ đến những Ruin pubs của thành phố này. Đó là những quán bar mọc lên từ những ngôi nhà hoang tàn.

Balas giải thích cho Lữ nghe về nguồn gốc kỳ lạ của những Ruin pubs tại Budapest:

“Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, những khu Do Thái với những nhà cửa bỏ trống hay những khu nhà máy bỏ hoang được những người trẻ tìm cách đầu tư và trang trí thành những quán rượu. Rồi anh sẽ thấy Ruin pubs ra sao. Những người trẻ thích tụ họp ở đây. Họ đã làm thay đổi không khí nơi này”

Quả thật như lời Balas mô tả, những Ruin pubs ở đây rất đặc biệt với lối trang trí rất nghệ thuật. Những vật dụng toàn lấy từ những đồ tái chế của bao thời đại. Trong những cái cũ hoang tàn người ta dựng nên những nét đương đại với hồn mới. Người ta trình diễn nhạc ở những khoảng sân trống. Chính những sinh hoạt này đã lấp đi những ký ức đau buồn của quá khứ đen tối.

Lữ rất thích không khí nơi đây.

“Anh thích chỗ này không? Có tất cả chừng 15 Ruin pubs ở khu vực này”

“Rất đặc biệt. Tôi sẽ nhớ đến xứ sở anh vì nhiều nơi anh đã đưa tôi đi qua với những đặc điểm như vậy kèm theo với giòng lịch sử”

Balas gật gù:

“Tôi vui khi thấy anh nói như vậy”

“Có dịp sang Mỹ gọi tôi, tôi sẽ đưa anh chị đi chơi”

Balas nhún vai:

“Tụi tôi thích đi chơi lắm nhưng anh biết tiền bạc phải dư giả lắm thì đi chơi mới thích”

“Anh nói như một người già!”

Cả hai cùng cười lớn trước sự ví von của Lữ.

Lữ bảo:

“Tôi nói đúng chứ, người trẻ như anh chị đi chơi đâu kể chi. Còn tuổi trẻ còn sức lực, ăn nhằm gì”

“Nói như vậy nhưng không phải vậy. Công việc ở đây không dễ dàng như anh tưởng đâu”

Lữ chẳng nói gì. Cả hai đã qua những giờ phút vui vẻ và thoải mái trong đêm đó.

Sáng sớm hôm sau Balas đánh thức Lữ dậy. Vợ anh ta đã sửa soạn bữa điểm tâm thịnh soạn kiểu Hungary đãi người khách Mỹ gốc Việt.

Khi kéo va-li ra cửa, Lữ nhìn thấy bức tranh xấu xí nguệch ngoạc của mình treo ở một góc phòng khách. Lữ kêu lên:

“Tranh xấu quá, treo làm gì? Khách đến người ta cười cho!”

Etilka nhoẻn miệng cười:

“Đẹp và đặc biệt. Anh là người khách đặc biệt của gia đình chúng tôi. Chúng tôi sẽ nhớ anh”

Lữ thấy cay cay mắt vì chàng biết vợ Balas đã nói với tấm lòng của cô ấy.

Balas đưa Lữ ra phi trường. Chàng đã trả cho Balas gấp đôi số tiền mấy ngày anh ta làm hướng dẫn viên du lịch cho Lữ.

Lữ vỗ vai Balas:

“Cám ơn anh bạn đã cho tôi những ngày thật ý nghĩa”

Balas cười, bắt tay Lữ nói:

“Anh đừng mang tôi vào tiểu thuyết của anh nhé!”

Cả Lữ và Balas cùng cười to. Lữ nói:

“Anh đã có số điện thoại và email của tôi. Mình giữ liên lạc. Có dịp sang Mỹ nhớ gọi tôi”

“Chúc anh mọi sự may mắn!”

Lữ giơ tay từ giã. Sau mấy ngày bên cạnh Balas chàng cũng thấy nao nao trong lòng khi quay lưng đi.