← Quay lại trang sách

Chương VI (3)

Tôi xoay tròn chung nước, thấp giọng xuống, lựa lời nói với Ba Biếu:

– Da. thưa anh Ba, mấy anh định… thu xếp công tác cho tôi ra sao? Tôi nghĩ rằng hôm nay tôi có thể nhận…

Ba Biếu đưa tay xua lia lịa:

– Khoan! Khoan đã, anh! Vội gì! Anh đi đường xa hãy còn mệt. Anh phải nghỉ ngơi ít ra là ba bốn hôm cho khỏe đã!

– Dạ không sao, anh Ba! Thú thực với hai anh, tôi muốn được làm việc càng sờm càng tốt. Trong lúc mọi người ai cũng tối mắt tối mũi vì công việc, mình ngồi không, trong lòng nó xốn xang làm sao.

– Cái chuyện tham công tiếc việc ai ai cũng có hết! Nhưng anh hãy nghỉ đã! Tôi với anh Bảy đây đã hội ý với nhau rồi. Để anh nghỉ ít hôm cho lại sức, nhứt là tập cho quen, thích ứng với khí hậu ẩm thấp của núi rừng, cũng chẳng muộn màng gì. Chừng đó, anh Bảy ảnh sẽ thay mặt Đảng ủy Khu A cũng như Ban Chỉ Huy U.50 về phía chính quyền, bàn bạc kỹ với anh về những công tác mà anh đảm nhận. Xin giới thiệu với anh, anh Bảy đây phụ trách về cán bộ. Những việc nghiên cứu, xử dụng, phân công, nói chung là những gì liên quan tới chính sách cán bộ, quản lý cản bộ của toàn khu A đều do anh Bảy phụ trách. Anh Bảy sẽ làm việc trực tiếp với anh.

Quả thực tôi ngán khoai mì lên đến tận cổ, ngay ngày hôm sau, khi tôi đến đây. Buổi sáng đầu tiên, ăn khoai mì luộc với thịt nai kho mặn sao mà ngon thế, không biết nữa. Đến bữa trưa, tuy tôi chưa ngán nhưng tôi không còn thấy thèm, thấy hào hứng khi bóc đến củ khoai mì.

Chiều lại, để thay đổi cách nấu cho dễ ăn, khoai mì không luộc nữa mà được mài ra, vò viên đem hấp chín. Thoạt trông như chiếc bánh bao. Duy nó không trắng, lại trong ngần, nhìn thấy những xơ vụn điểm lốm đốm trắng bên trong. Dù vậy, dù được thay đổi cách nấu và bụng tôi đang đói ngấu nghiến, cũng không tài nào nuốt hết viên thứ hai.

Và sáng hôm sau, khi thức dậy tôi đói một cách kỳ lạ.

Cái đói vừa xót xa, bào bọt không bắt nguồn ở chỗ dạ dày trống rỗng, cần ăn mà là cái đói của những trường hợp ăn me chua, của những đêm thức suốt sáng nốc vội ly cà phê dắng. Đói nhưng khi ngồi vào bàn ăn, tôi chỉ có thể gỡ từng mẩu khoai mì luộc nhỏ nhấm nháp với miếng thịt nai kho nhiều lửa nát nhừ.

Tôi thấy thèm cơm vô hạn. Cái thèm tôi tưởng chừng như mình chịu đói đã lâu, không ăn cơm từ nhiều tháng trước. Tôi ngán khoai mì luộc thực sự rồi. Nhưng tự ái của tôi không cho phép tôi nói điều đó với bất cứ một người nào ở đây. Tôi sợ bị người ta đánh giá thấp, bị người ta xem thường, bị người ta cho là ý thức chịu đựng gian khổ kém v.v… Tôi phải cố nuốt, phải ăn như mọi người. Tôi nghe bợn dạ buồn nôn, khó chịu, bứt rứt không tả được.

Tôi cố gắng hết sức, vậy mà Thủ trưởng của tôi, Ba Biếu, vẫn nhìn thấy rõ mồn một. Anh ta khuyến khích tôi:

– Lúc mới bắt đầu ăn khoai mì thay cơm tôi cũng phải trải qua mấy hôm xót xa, ngán mứa, khó chịu như anh bây giờ vậy! Vài ngày sau nó sẽ quen lần. Mấy ông thầy thuốc của mình, họ giải thích đó là do cái phản ứng «lạ lùng» chưa quen dung nạp của dạ dày thôi. Tình trạng đó không lâu đâu. Anh nghĩ, có chịu đựng gian khổ, có thử thách nhiều thì giá trị cách mạng nó mới cao, vinh quang mới lớn chứ, phải không anh!

Vẫn biết mình không giấu giếm được ai, người ta trông rõ quá rồi, tôi vẫn thấy tự ái bừng lên mắt, tìm cách chối quanh. Cái cố tật của trí thức, tiểu tư sản nó vậy mà, ít khi chịu chấp nhận cái dỡ của mình. Tôi vờ đưa tay xoa bụng:

– Dạ, không phải ngán mứa gì đâu, anh Ba! Có lẽ như anh nói, tại ăn khoai mì nó lạ bụng nên sáng nay tôi thấy đau ngầm trong bụng không muốn ăn! Sợ không ăn nó đói nên miễn cưỡng ráng ăn đó thôi.

Ba Biếu tưởng thật, mắt mở lớn tròn xoe:

– Ý chết! Anh đau bụng sao anh không nói để đồng chí Thu y tá đưa thuốc cho anh uống. Bậy chưa!

Và Ba Biếu đứng lên:

– Thu ơi! Thu!

Có tiếng con gái dạ từ phía bếp. Và một cô con gái nhỏ nhắn, tóc kẹp đuôi gà ở dưới miệng hầm lò Hoàng Cầm thong thả bước lên:

– Dạ, chú Ba kêu cháu?

– Ờ! Đồng chí làm gì đó?

– Dạ, cháu nướng khoai mì để lát nữa đi tải khoai mì, đem theo ăn chơi.

Trời đất! Tôi nghĩ bụng, ớn đến tận cổ thế này mà cô ta còn nướng nổi khoai mì đem theo ăn chơi thì còn hiểu làm sao nữa!

Thu bước vội đến:

– Dạ, có chuyện chi, chú Ba?

Bảy Cảnh ngồi bên tôi buột miệng:

– Bộ đội đâu có «bộ đội chú», «bộ đội cháu», đồng chí Thu? Tác phong huynh trưởng, lối xưng hô chú cháu, thuộc về gia đình ở ngoài đời, đâu phải của cách mạng, đồng chí?.

Thu khép nép, cười bẽn lẻn ngó xuống đất:

– Dạ, cháu quên! Tại cháu quen miệng rồi, cháu xin nhận khuyết điểm!

– Nữa, cháu nữa!

Ba Biếu mỉm cười:

– Nè, đồng chí Thu! Đồng chí lấy cho anh Hùng mấy viên thuốc đau bụng. Anh Hùng bị đau bụng từ sáng giờ đó. À!.Này! Còn thuốc phòng nữa, đồng chí có cho anh ấy uống chưa?

– Dạ, chưa! Dạ để cháu đi lấy.

Thu thoắt chạy đi. Một chốc sau trở lại đưa cho tôi 2 viên thuốc lớn và hai viên thuốc nhỏ:

– Hai viên lớn này là Pa-re-go-ric, trị đau bụng. Còn 2 viên thuốc nhỏ là thuốc phòng. Thuốc Pa-lu-rinh đó. Anh uống đi.

Tôi cầm lấy, Paregorique tôi đã uống vài lần nên tôi hiểu. Còn Pa-lu-rinh, nghe Thu nói tôi đoán mãi không hiểu là thuốc gì. Thuốc phòng, phòng gì mới được chứ?

Ba Biếu giải thích cho tôi biết:

– Mình ở đây có chế độ uống thuốc phòng. Bô đội là phải uống thuốc phòng. Lúc tụi này tập kết ra Bắc, cứ mỗi sáng thứ ba và sáng thứ sáu trong tuần, sau khi họp đơn vị điểm danh xong là phải đứng tại quân hàng, chờ uống thuốc. Y tá nó bưng bình ton nước chín, rê hết người này đến người khác, đưa ra hai viên Paludrine, loại 0,10 bắt uống tại chỗ. Uống xong mới được giải tán. Nhờ vậy mà ít bị sốt rét, nếu có, cũng nhẹ thôi không đến độ làm accès pernicieux.

À, thì ra Pa-lu-rinh của Thu là Paludrine, loại thuốc trị sốt rét hóa hợp. Tôi chợt nhớ đến lúc ở Lộc Thuận, Năm Râu nói với tôi về cái chuyện nói tiếng Tây là nô lệ tính, vong bản. Ba Biếu nói tiếng Tây dòn và đúng giọng đấy chứ! Không hiểu ai có dám nhận xét, phê bình anh ta không? Và anh ta nghĩ thế nào về việc đó.

Ba Biếu nói iiếp:

– Từ khi anh em bộ đội mình ở Bắc trở về Nam kháng chiến lần thứ 2, chống Mỹ Diệm thì nguyên tắc uống thuốc phòng được áp dụng theo điều lịnh quân y của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Anh biết không, tôi nói anh đừng sợ nha! Vùng mình đang ở đây là vùng Mã Đà. Trong tất cả vùng rừng núi, khu A nổi danh là khu sốt rét. Nhưng toàn khu A chỉ có vùng Mã Đà này là găng nhứt, được xem như căn cứ địa của sốt rét. Ở đây, vi trùng sốt rét là vua. Không một người nào tại khu A này mà không bị sốt, dù cho phòng bệnh kỹ lưỡng đến đâu cũng vậy. Điều lịnh quân y như: bất luận ngày đêm, có đổ mồ hôi khi công tác lao động cũng không được cởi trần, buổi chiều phải mặc áo dài tay, quần dài để chống muỗi cắn. Ngủ phải ngủ mùng. Có tắm phải tắm nhanh đừng để bị lạnh. Uống nước phải uống nước chín. Hàng tuần, thứ ba, thứ sáu phải uống thuốc phòng đều đặn. Vậy mà. trung bình mỗi năm, người khỏe nhất, số ngày sốt rét cộng lại ít ra cũng phải hai tháng. Có người đến sáu tháng. Cho nên anh thấy tụi tôi người nào cũng xanh, xanh như mặt giộc. Như anh đó, mới đến chưa thấy gì, vài bữa rồi anh biết. Khác khí hậu, phong thổ, vì ở rừng khí hậu rất thấp, độ ẩm rất cao. Muỗi truyền bệnh sốt rét đầy dẫy. Cho nên trong thời gian đầu, tụi tôi xem như là để tập anh chịu sốt rét vài keo cái đã. Cho nó quen, thích ứng khí hậu ở đây cái đã.

Anh ta cười cười:

– Chưa đóng góp sốt rét với «ông bà rừng», chưa phải là chiến sĩ khu A. Có đóng góp thành tích sốt rét càng nhiều, giá trị chiến sĩ khu A mới càng lớn. Anh chuẩn bị tinh thần đi!

Tôi cũng cười. Tôi đã từng bị sốt rét, tôi không sợ điều đó. Ngay cả mọi thứ người ta gọi là gian khổ về vật chất, tôi cũng chẳng ngại chút nào. Người ta chịu được, tôi chịu được. Tôi chỉ sợ khổ về tinh thần, bị hành hạ về tinh thần, căng thẳng thần kinh, tôi sẽ hóa điên thôi. Trong suốt những ngày rời Sàigòn đến giờ, quả là tinh thần của tôi đã bị hành hạ, khổ nhiều rồi.

Mong rằng từ nay tôi sẽ không còn bị du vào cái thế đối xử hành hạ đó nữa.

Ăn xong trở về nhà, tôi vờ bưng ca nước trà pha loảng ra sân, ngưỡng cổ uống thuốc. Kỳ thực, tôi đã liệng bốn viên thuốc của Thu đưa cho ban nãy xuống suối mất rồi. Parégorique, tôi không đau bụng thì uống làm gì. Còn Paludrine đắng quá, đắng đến buồn nôn, cái chuyện uống nó, đành để khi nào bị sốt rét hẳn hay.

Kể ra về vấn đề phòng bệnh sốt rét cũng tích cực, ráo riết dữ đấy chứ! Ráo riết đến thế mà khôpg người nào không bị sốt rét, theo như lời Ba Biếu nói. Quả bệnh sốt rét ở đây kinh khủng thật. Từ nam đến nữ, mặt mũi người nào người nấy xanh như mặt giộc, không sai!

Tôi liên tưởng đến những đơn vị chiến đấu, trong hoàn cảnh thiếu thốn, gian khổ lại sống giữa vùng đất mà vi trùng Falciparum làm chúa tể, thì chỉ có thể chiến đấu với sốt rét chứ đừng nói chiến đấu với kẻ thù trên chiến trường. Những giai thoại về sốt rét của chiến khu D trong 9 năm kháng chiến chống Pháp trước đây là chứng cớ hùng hồn nhất. Trong một đơn vị, tỷ lệ sốt rét năm mươi phần trăm thôi cũng đủ để cho đối phương «làm gỏi» với một lực lượng tương đồng, hoặc hơn cũng vậy. Phòng sốt rét là phải!

Mấy hôm nay, mỗi khi xuống bếp, tôi thấy trên miệng lò Hoàng Cầm bao giờ cũng có sẵn một nồi nước sôi. Lúc đầu tôi thấy băn khoăn ở chỗ nhà bếp trống trơn, chẳng có gì để đựng nước mang dưới suối lên. Nấu ăn, vo gạo phải xuống suối. Rửa chén đũa, thực phẩm, làm gà, làm giộc, làm nai cũng xuống suối. Múc nước nấu, lại xuống suối. Suối là cái bể chứa nước. Rồi mỗi nhà, cũng chẳng có vật gì để chứa nước chín uống. May là tôi ở chung nhà với Ban Chỉ huy, lúc nào cũng có trà, có phích đựng nước sôi. Nhưng giờ thì tôi hiểu rõ tác dụng của cái bình ton rất lớn. Ai cũng có binh ton riêng, ca, muỗng riêng, luôn luôn mang bên người. Mỗi người, sau khi ăn cơm phải đến đổ nước chín vào cho đầy bình ton để uống lấy. Ở nhà, cũng như đi công tác, bình ton là vật bất ly thân. Kẻ nào không có, quả là một khốn khổ, một bất hạnh nhất đời.

Thực ra, cái sinh hoạt và nếp sống trong chiến tranh, đối với tôi không phải là chuyện mới lạ gì. Nhưng trước kia, suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi chỉ được sống ở các tỉnh miền Trung miền Tây Nam Bộ nên tôi không sao hình dung rõ nét thực thể của nó. Và trong 9 năm chống Pháp, cách thức làm việc, lề lối làm việc, nguyên tắc chỉ đạo về chính trị, về tư tưởng nó cũng khác xa ngày nay, tôi tưởng chừng ngày nay mình bị lạc vào một thế giới mới lạ – thế giới mà mình chưa từng sống.

Thu hẹp cái nhìn của tôi trong phạm vi nhà bếp thôi, cũng đã vô vàn mới lạ rồi. Lần đầu tiên, tôi nghe gọi danh từ chị nuôi, anh nuôi, tôi ngơ ngác không hiểu nuôi theo cái kiểu nào đây? Tôi tò mò, để ý xem công việc của anh nuôi, chị nuôi thì họ toàn nấu bếp. Trước kia người ta gọi là hỏa thực. Năm Râu giải thích cho tôi biết, Đảng và chính phủ không cho dùng danh từ hỏa thực nữa vì nó là tiếng Hán Việt, mất gốc, khó hiểu, cầu kỳ trái với bản chất giai cấp công nông. Giai cấp công nông là giai cấp nghèo đói, ít học. Đối với họ, việc dùng danh từ Hán Việt chẳng khác nào nói tiếng Tây, tiếng Ăng Lê. Điều đó có nghĩa là mất lập trường giai cấp, xa rời quần chúng công nông, nếu không nói là khinh thường, chống đối lại khối quần chúng căn bản đó. Vi vậy «hỏa thực» là tiếng Hán Việt phải thủ tiêu nó đi, thay vào danh từ «anh nuôi » nếu đàn ông nấu bếp và «chị nuôi» để gọi phụ nữ, thanh thiếu nữ.

Nuôi nghĩa là nuôi quân. Tôi cười. Với chút hóm hỉnh, tôi hỏi Năm Râu bên quân đội đúng là nuôi quân, còn nếu ở các cơ quan «dân, chính đảng» đoàn thể v.v… hỏa thực gọi là anh nuôi, chị nuôi, họ đâu phải nuôi quân vậy họ nuôi đảng, nuôi dân à?

Năm Râu bảo tôi «ăn nói móc họng quá trả lời thế chó nào được! »

Đến lò Hoàng Cầm, Năm Râu dẫn tôi «đi xem cho biết » và giải thích đó là kiểu lò chống khói, đào dướ đất cho phi cơ không phát hiện được chỗ đóng quân.

Trong chiến trường du kich miền Nam ngay nay, Đảng ra lệnh phải áp dụng triệt để lò Hoàng Cầm cho bộ đội như một thứ công tác bắt buộc, một thứ kỷ luật mà điều lịnh, nội quy bảo vệ đặt ra phải tuân theo.

Trong «tứ đại công tác» của bộ đội ở rừng núi miền đông Nam bộ hôm nay, đối với mọi người ai cũng phải nằm lòng như một Kinh nhật tụng là: Hầm, tải, lò, giếng. «Nhất hầm, nhì tải, tam lò, tứ giếng» như một khẩu hiệu, một ngạn ngữ. Không hiểu ai đã đề ra cái khẩu hiệu đó, sao mà nó đúng vô tả. Bộ đội muốn sống thì phải làm bốn công việc đó.

Hành quân đến bất cứ nơi nào, dù là 5 giờ sáng, buồn ngủ đến mắt phải chống sào mới mở ra được cũng phải đào xong hầm hố, công sự cái đã. Buồn ngủ chưa chết nhưng không có hầm hố, công sự nhất định khó sống nếu bị phi cơ địch oanh kích hay pháo địch hỏi thăm.

Hầm xong rồi, thứ đến phải lo đi tải gạo. Mỗi đại đội, trung đội đều phải cử ra một toán đi tải gạo. nếu không, không chết bom chết đạn cũng chết đói. Ông bà ta từ xưa đã bảo: «Dĩ thực vi tiên», vấn đề bao tử là nguồn gốc của vấn đề sinh tử, hục hặc đấm nhau đến bươu đầu sứt trán mà!

Hầm xong, tải gạo xong cũng chưa phải là sống. Vì có hầm, có gạo phải nấu ăn, nhưng nấu khơi trên mặt đất, nhất là về mùa mưa, củi rừng ướt mem, khói như cháy nhà, thế nào tử thần cũng đến viếng bằng khu trục, với bom, với pháo nhất là với bom B.52, không biết đường nào lẫn tránh.

Cũng chưa đủ… Nấu cơm, nấu nước đâu phải chỉ có nồi, có gạo, có lửa mà đủ? Phải có nước nữa chứ. Nhưng, nước ở suối mới có. Chỗ có suối lại bị cấm không được để đại quân, đơn vị đông người đóng quân. Đóng quân theo suối có lợi thực. Tuy vậy suối cũng là điểm cho phi cơ, pháo oanh kích. Do đó, khi đóng quân ở rừng phải đóng quân cách xa suối để bảo toàn lực lượng. Xa suối thì nước đâu? Người ta có thể nhịn cơm nhiều ngày chứ ai có thể nhịn nước nổi hai ngày? Vậy thì phải đào giếng. Đất cao, mùa khô đào đến hai mươi thước mới có nước cũng phải hì hục mà đào. Nổ đom đóm mắt cũng phải đào.

Ấy thế là «Nhất hầm, nhì tải, tam lò, tứ giếng » ra đời, – truyền miệng với nhau như một thứ kinh nhật tụng về «tứ đại công tác ».

Suốt bốn hôm liền, tôi ở tại Ban Chính Trị (tức B2) của U.50, ăn rồi ngủ. Ngủ rồi thức dậy đọc sách. Đọc sách rồi ăn. Tám Chi đi moi ở đâu ra được mấy bộ truyện dài của Liên Xô và Trung Hoa đưa cho tôi mượn đọc. Nhìn chồng sách cao ngất, tôi nghĩ chắc mình không sao đọc hết trong những ngày đầu nghỉ ngơi chờ đợi này, dù tôi vốn rất mê đọc sách, đọc nhanh như gió, ngấu nghiến quên cả ăn, trong những ngày còn ở Sàigòn. Nhưng rồi, trong bốn hôm đó, tôi «nghiến » sạch chồng sách trên. Quả là một kỷ lục.

Đây là bộ tiểu thuyết nổi tiếng được giải thưởng Lénine: «Đoàn Thanh Niên Cận vệ đội» của Fadéev. Kìa là bộ «Thép đã tôi thế đấy». Nọ là «Mùa Xuân trên sông Ô Đe», «Những cuộc chiến đấu trên đường Vô Cô Lam xcơ ». «Thượng Cam Lĩnh» của Trung Quốc v.v… Nhiều quá! Toàn sách dịch xuất bản ỏ Hà Nội, do nhà xuất bản «Quân đội Nhân dân» của quân đội miền Bắc ấn hành.

Thành thực mà nói, tôi rất mê đọc sách, nhưng tôi cũng rất sợ bị người ta nhận xét là thiếu tinh thần xung phong công tác, thiếu «lửa cách mạng » trong những ngày đầu bước chân đến đây. Tôi nghĩ bụng, mình không sao đọc hết đống sách này cũng vì lý do đó.

Tôi yêu cầu người ta phân công cho tôi một công tác nào cũng được. Tôi không muốn nằm không để đọc sách trong khi mọi người ai cũng có công việc làm. Trong đời, tôi ghét những kẻ lười, ăn không ngồi rồi, không chịu làm việc. Làm con người, ai cũng phải làm việc để biến mình thành một người có ích. Một con người hoàn toàn ý thức được sự có mặt của mình trong cuộc đời. Và nhất là sự làm việc làm cho mình vui vẻ, không phải suy nghĩ bâng quơ, chán nản, ray rứt với chính mình. Lần nào cũng vậy, hễ tôi mở miệng ra yêu cầu được làm việc thì Ba Biếu, Bảy Cảnh trả lời y như nhau:

– Anh đi đường mệt nhọc, cần phải nghỉ ngơi lấy sức mấy hôm. Anh cứ đọc sách cho vui. Vừa đọc vừa nghiền ngẫm những tư tưởng cách mạng chính yếu chỉ đạo qua tác phẩm để học tập. Như là trong quyển «Những cuộc chiến đấu trên đường Vô Cô Lam xcơ » với anh chàng Tiểu đoàn trưởng xây dựng tác phong, kỷ luật cho Tiểu đoàn ô hợp của mình. Hay là trong quyển «Thượng Cam Lĩnh» với tinh thần bất khuất gian khổ hy sinh cao độ của đội chí nguyện quân tử thủ một ngọn đồi, nhịn đói mà chiến đấu suốt tháng trường, kiên quyết không lùi trước bọn đế quốc Mỹ.

Kể cũng buồn cười. Người ta bảo mình đọc sách cho vui. Đọc sách cho vui mà «nghiền ngẫm những tư tưởng cách mạng chính yếu chỉ đạo trong tác phẩm để học tập », thế còn vui nỗi gì? Mấy lời nói đó, dù tôi kém thông minh nhưng tôi cũng hiểu được những gì ẩn chứa trong ấy.

Từ trước, từ 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi vẫn biết một cách rõ ràng là bất kỳ một nhân viên, cán bộ mới nào cũng phải được thử thách về công tác, thử thách về lập trường tư tưởng, về tác phong, đạo đức, sau đó mới có thể giao cho một công tác thích đáng, căn cứ vào sự thử thách đó.

Bây giờ, tôi đang ở trong thời kỳ «được» thử thách này.

Thử thách gì tôi cũng xin nhận, có từ chối đâu! Riêng về phần tôi trong bước đầu, ngoài việc để ý, quan sát cách thức, lề lối sinh hoạt, làm việc để mình làm quen với không khí mới, thích hợp với môi trường mình sẽ sống, tôi còn muốn tìm hiểu thêm về tổ chức, về nhiệm vụ của đơn vị mình. Nhất là những cá tính, thái độ đối xử của cấp chỉ huy. Có thể mới «lựa cơm gắp mắm», mới tạo được sự thuận lợi, tình cảm công tác buổi ban đầu.

Tìm hiểu về tổ chức, nhiệm vụ thì tôi đã rõ U.50 là một cơ quan Hậu Cần, đơn vị Hậu Cần trực thuộc Cục Hậu Cần R. Nói cách khác, nó là một Phân cục của Cục Hậu Cần ở Khu A, quản lý suốt một vùng rừng núi thật rộng, giới hạn bởi đường quốc lộ 13, quốc lộ 1, sông Đồng Nai và biên giới Miên. Nhiệm vụ chính yếu của nó là sản xuất, cung cấp, dự trữ tất cả mọi nhu cầu chiến lược cũng như chiến thuật của quân đội chủ lực mỗi khi cần đến nó.

Rập theo nguyên tắc tổ chức chung của quân đội miền Bắc, ngoài những bộ phận trực thuộc về chuyên môn sản xuất tự túc, thu mua thực phẩm, vận chuyển dự trữ thực phẩm, thuốc men, súng ống, đạn dược, nó giống như bất kỳ đơn vị quân đội nào, cũng có các bộ phận có tính cách văn phòng.

B1 là Ban Tham Mưu, quân lực.

B2 là Ban Chính Trị.. nơi tôi đang ở đây, quản lý chính sách, quản lý cán bộ, quản lý tinh thần, tư tưởng chung cho đơn vị.

B3 là Ban Sản Xuất.

B4 là Ban Tài Vụ, tức Ban Tài Chánh lo việc phân phối kiểm soát tiền nong.

B5 là Ban Quân Y với hệ thống bệnh viện và xưởng dược bào chế thuốc men của nó.

B6 là Ban Tiếp Liệu vận tải v.v…

Theo tập quán chung, hễ khi nào nói đến B1, B2, B3, B4, B5 v.v… của bất kỳ đơn vị cấp Sư đoàn, hay cấp Tiểu đoàn, chủ lực hay địa phương, mọi người đều hiểu giống như nhau. B1 luôn luôn là tham mưu, quân lực. B2 luôn luôn là chính trị. B5 luôn luôn là quân y.

Nhưng tìm hiểu về cấp chỉ huy trực tiếp của tôi như Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tam Chi v.v… thì bị tắc tị, chẳng tiến được bước nào. Mấy hôm nay, mỗi ngày sau những giờ ăn, tôi la cà ở nhà bếp để nói chuyện với chị nuôi, anh nuôi, với những chiến sĩ, nhân viên khác, làm quen, gây cảm tình với mọi người. Qua những cuộc nói chuyện đó, tôi thấy người nào cũng sợ hãi mỗi khi nói đến các thủ trưởng của mình, nhất là những việc gì có dính dáng đến «chất » Đảng. Họ không dám phê phán, không dám có một nhận xét nhỏ nhoi nào. Tôi không hiểu tại sao họ lại sợ kỳ cục thế nữa. Anh em, đồng chí với nhau việc gì lại sợ?

Buổi tối ngày thứ năm, kể từ khi tôi đến đây, sau khi nghe đài BBC xong, Ba Biếu tắt radio mời tôi uống nước và hỏi:

– Sao, mấy hôm nay anh dễ chịu chứ? Sách hay chứ?

– Dạ, hay. Anh Ba! – Tôi trả lời.

– Có gì lạ không anh? Cũng không có triệu chứng gì báo hiệu là sốt rét chứ?

– Dạ, không!

Ba Biếu cười:

– Những anh em khác khi mới đến khu A chừng bốn năm hôm sau, phần nhiều là nằm trùm chăn rên hù hù rồi. Kể ra sức khỏe của anh thuộc loại khá đấy.

– Dạ, sốt thì uống thuốc chứ lo gì, anh Ba! Chắc bây giờ thuốc men mình ở đây đầy đủ lắm? Tôi thấy mấy anh tuy người nào nước da cũng xanh nhưng vẫn khỏe mạnh cả mà!

Ba Biếu không trả lời, đột nhiên hỏi tôi:

– Anh Hùng! Anh có thích rẫy bái không? Không khí ngoài rẫy thật mát mẻ, khoảng khoát. Thích lắm! Nó không nặng nề như ở nhà.

Tôi chợt hiểu, và trả lời:

– Dạ, thích chớ anh! Cái không khí đồng ruộng, rẫy bái mát mẻ, dễ chịu đã đành, mà tôi cũng thích trồng trọt nữa.

– Chả là B2 mình có một cái rẫy trồng hoa màu ở ngoài suối Ràng đấy.’ Cách chừng ba bốn cây số thôi. Ngoài những thứ hoa màu mình trồng như rau, đậu, khoai môn, mướp, bí v.v… còn có cá ở dưới suối và gà rừng thật nhiều. Làm siêng biết cải hoạt, thức ăn đầy đủ gấp mấy lần ở đơn vị. Tôi cũng thích nó hết sức nhưng công tác bận rộn nên ít khi nào ra rẫy ở chơi.

– Ở dưới suối, cá gì nhiều, anh Ba?

– Ồ, thiếu gì! Nhứt là cá trê, cả lăng, cá mè, cá chạch lấu. Những loại cá khác cũng có nhưng ít hơn.

– Cá suối nhiều, mình ở đây tổ chức đi cắm câu mỗi đêm không chừng khá lắm anh!

– Câu thì đơn vị mình thiếu gì. Đồng chí quản lý B2 mình có mua nhiều lưỡi câu lắm. Vậy thì…

Ba Biếu ngập ngừng, nhìn tôi:

– Vậy thì… ngày mai anh ra rẫy cho biết, anh Hùng nhe! Anh tha hồ đi câu. Anh gặp ông quản lý hỏi xin lưỡi câu đi.. Trước khi nhận công tác mới, anh cũng nên đi chơi cho nó thoải mái, cho nó quen khí hậu núi rừng.

Tôi hiểu giai đoạn mới bắt đầu đến với tôi rồi đây! Người ta muốn đưa tôi đi làm công tác lao động để cải tạo tư tưởng, thử thách sức chịu đựng và phản ứng của tôi ra sao. Thủ trưởng của tôi khéo thật. Nói chuyện toàn những việc đâu đâu rồi nhắc đến những cái thú, đời sống nhàn hạ ở rẫy bái để sau cùng mời tôi ra rẫy chơi. Ra rẫy để câu cá, để hưởng không khí trong lành. Ra rẫy để chơi mà! Ôi, thú biết bao!

Sáng hôm sau, ăn xong nửa củ khoai mì luộc, tôi lẳng lặng thu xếp đồ đạc, quần áo, đồ dùng bỏ vào bồng và đến nhà quản lý xin ba chục lưỡi câu với năm mươi thước nhợ bằng nylon. Mười phút sau, Sơn, một chiến sĩ ở tiểu đội quản trị và Hoa, chị nuôi của đơn vị, đầu đội nón vải xanh, lưng mang bồng đến gặp tôi để chờ dẫn tôi ra rẫy.

Tôi mỉm cười, chào Ba Biếu, Bảy Cảnh rồi bước ra sân nhập bọn. Bảy Cảnh cũng cười lại:

– Chà! Anh ra rẫy ít hôm thế nào cũng có sự khác lạ cho coi! Mập mạp, hồng hào, lên cân như lực sĩ là chắc! Câu được nhiều cá, nhớ ăn dùm tụi tôi ở nhà với nghe l

Tôi vội vã nhanh bước theo Sơn, ra khỏi cổng chiến đấu. Không biết Sơn đarg nghĩ gì mà nói với tôi:

– Thủ trưởng mình bình dân lắm đó. Anh Ba với anh Bảy là cán bộ cao cấp ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ông nào cũng Thiếu tá không, bình thường, dễ gì được gặp.

Tôi ngẩn ngơ, nhưng cũng cố bước theo Sơn.