Chương VII CHIẾC LÁ CUỐI THU
Mấy hôm nay quanh quẩn trong nhà, hết ăn lại nằm có đi cũng chỉ quanh khu vực B2, không quá một trăm thước đường kính. Chung quanh toàn rừng và rừng, yên tĩnh, âm u. Cái vòm lá xanh như một nắp huyệt đóng kín, bất di bất dịch một màu xanh mỏi mắt, ngột ngạt, chôn chặt tầm mắt tôi trong đó.
Tự nhiên tôi thấy thèm, khao khát kỳ lạ muốn được nhìn một khoảng trời xanh nho nhỏ, một chút ánh sáng mặt trời với cụm mây trắng hiện giữa trời cao. Hơn thế nữa, tôi muốn nhìn được thấy một khoảng chân trời nào đó. Quả thực ở đây, nơi tôi đang đứng đây, bị chìm ngập trong màu lá xanh, trong một cái biển tối, không trông thấy một mảnh trời trong bằng bụm tay thì còn trông mong gì thấy được chân trời.
Cái căn cứ không rộng quá trăm thước đường kính làm tôi thấy nôn nao bâng quơ, sợ hãi lẫn với cái cảm giác chồn chân bứt rứt lạ thường. Bây giờ được đi ra khỏi nơi đây, lần đầu tiên, tôi thấy mình như dịu lại, thư thái tuyệt vời.
Sơn đi trước cứ phóng đi như chạy, vất vả lắm tôi mới theo kịp. Mồ hôi trên người ra như tắm nhưng tôi vẫn thấy khoan khoái hài lòng. Từ đơn vị ra rẫy mất khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ quanh co theo đường rừng với những đồi dốc con con.
Trên đường đi, Sơn cho biết công việc thường xuyên của đơn vị giao cho cậu ta là làm rẫy, sản xuất hoa mầu cung cấp cho đơn vị. Còn Hoa là chị nuôi, cứ vài hôm quảy bồng ra rẫy tải rau cải, hoa mầu về đơn vị. Ngoài rẫy, có cất sẵn một cái chòi con đủ cho bốn người giăng võng nghỉ ngơi, nấu nướng, cơm nước. Hiện giờ, ngoài ấy còn hai anh em khác nữa.
Băng ngang qua một con suối, nước cao hơn đầu gối một tí, bước lên bờ, tôi gặp ngay căn chòi trống, lợp bằng tranh ẩn dưới đám lồ ồ rậm bên bờ suối. Cách phía trong hơn mười thước là đám rẫy mọc đầy những cỏ, sậy và cây cỏ hôi.
Chen vào giữa đám cỏ, sậy ấy những cây dầu, cây bằng lăng rất to cao lêu nghêu cháy nám đen, trơ những cành trụi lá. Ánh nắng vàng trải đầy, chói mắt.
Sơn bảo tôi, cộc lốc:
– Rẫy của mình đó. Cất đồ đi, rồi nghỉ!
Nói xong, Sơn thảy bồng để lên đống củi cạnh bếp, đoạn dẫn Hoa đi luôn ra rẫy. Tôi thắc mắc không yên. Suốt trên quãng đường đi, nhớ lại tôi chưa có một cử chỉ nào hay lời nói nào có thể làm cho Sơn phật ý, mất lòng. Và trong suốt thời gian đến B2, tôi cũng chưa lần nào trò chuyện với Sơn. Vậy thì tại sao, trong câu chuyện dọc dường hỏi thăm về cách trồng rẫy, sinh hoạt ở rẫy, Sơn trả lời tôi một cách miễn cưỡng, bực dọc, giờ lại ăn nói cộc lốc thế kia? Tôi có gì để cho Sơn ghét? Mặt mày tôi, tác phong tôi có gì khác lạ, quái gở để đến nỗi mới nhìn mặt đã có thể khó chịu, không ưa?
Tôi thắc mắc, suy nghĩ mãi mà chưa tìm ra nguyên cớ. Tôi định bụng trưa nay, ăn cơm xong thế nào tôi cũng phải tìm cách thân thiện, gây cảm tình với Sơn để vừa xóa tan được bầu không khí nặng nề vừa tìm xem duyên cớ vì đâu. Sống chung với nhau chưa chi đã thế này, buồn biết bao nhiêu.
Sau bữa ăn trưa bằng khoai mì luộc, canh chua bạc hà nấu cá và đậu đũa kho, tôi chưa kịp mở miệng nói với Sơn lời nào thì Sơn đã thì thầm với hai cậu kia, bảo nhau ra ngoài rẫy «hội ý». Hội ý gì nhỉ?
Nhưng thôi! Tôi biết «trục trặc» lại bắt đầu nữa rồi.
Tôi giăng võng định nằm, chợt nhớ đến câu cá nên lui cui mở bồng cột lưỡi câu, lấy dao chặt nhánh lồ ồ làm cần.
Tôi cặm cụi làm suốt buổi trưa, đến chừng bọn Sơn từ ngoài rẫy vào vác cuốc, rựa đi làm chiều thì Sơn hỏi tôi:
– Anh Hùng ra rẫy chưa?
Tôi cười cái cười cầu tài với Sơn:
– Chưa anh! Tôi cột lỡ nhợ câu chưa xong. Xong, tôi ra ngay. Anh với mấy em ra trước đi.
Sơn vẫn giữ bộ mặt khó thương, xách mé:
– Bộ anh tính ra đây chỉ câu cá thôi hả?
Tôi bắt đầu thấy nóng mặt trước câu nói sỗ sàng đó, nhưng cố giữ bình tĩnh trả lời:
– Giả dụ như tôi có câu cá không đi nữa, cũng chỉ có lợi chứ hại chi đâu, anh Sơn! Mấy anh em mình có cá ăn mà. Thừa, gởi về nhà cho anh em hưởng với.
– Cái đó không cần! Anh ra đây để làm rẫy mà! Thủ trưởng dặn tôi dẫn anh ra đây cho anh đốn cây, cuốc đất, làm cỏ phụ với tụi tôi chờ đâu phải để đi câu!
Lần này tôi không thể bình tĩnh được nữa:
– Ai nói với anh như vậy? Anh Ba Biếu phải không?
Sơn liệng cái cuốc xuống đất:
– Ừ! Đúng! Tôi nói cho anh biết, tôi là người phụ trách tổ trưởng sản xuất. Tôi có bổn phận phân công công việc cho anh, hội ý với anh mỗi ngày. Tôi đâu có phân công anh đi câu cá? Muốn làm gì phải có ý kiến tôi đã chớ! Anh nghe rõ chưa?
Tôi giận đến tím mặt. Người tôi cơ hồ run lên. Khả năng của tôi chỉ đáng đi làm rẫy, cuốc đất. trồng rau cải cho người ta ăn thôi ư? Tôi là loại cán bộ gì đây nhỉ? Cán bộ gì mà lính muốn sai, muốn mắng, muốn hoạnh họe lên mặt lãnh đạo chừng nào cũng được.
Tôi không thể chịu đựng được cái thái độ mà người ta cố tình giao cho một tên chiến sĩ hạng bét sai như vậy. Hừ! Trí thức, lại là cán bộ cũ bước chân trở lại cuộc kháng chiến lần thứ hai. Đảng tiếp đón, Mặt Trận tiếp đón như vậy đó. Tôi đứng thẳng dậy nhìn ngay vào mặt Sơn:
– Nè chú! Dù gì đi nữa, chú cũng đừng có giở cái giọng đó ra. Tôi không ưa! Phân công tôi hả? Điều khiển tôi hả? Phải là thủ trưởng của chú mới có quyền. Còn chú, mới ti toe, tập tểnh bước vào cách mạng một vài năm, đừng có giở cái giọng khó ngửi. Tôi không ngửi được đâu!
Sơn cũng giận dữ, đứng khuỳnh hai chân ra:
– Cái giọng thế nào? Đồng chí đừng tưởng đồng chí là trí thức là làm trời được. Đồng chí có biết cuộc cách mạng này ai lãnh đạo không? Đảng đấy! Mà Đảng là giai cấp công nông! Công nông là chủ nhân ông của cách mạng.
– Chú có thể nói với con nít chứ đừng nói với tôi. Chú học đòi được năm ba câu lý luận chẳng có nghĩa gì đâu!
Sơn lõ mắt:
– Đồng chí chống đối Đảng hả? Kẻ nào chống đối Đảng là phản động!
Hai cậu kia từ phía ngoài rẫy đi vào.
Một cậu hỏi:
– Gì đó Sơn?
– Hổng có gì hết!
– Hổng có gì hết sao tao nghe la lối om sòm vậy? Đồng chí với nhau cả mà! Có chuyện gì mà coi bộ anh không vui vậy anh Hùng?
Tôi miễn cưỡng trả lời:
– Chẳng có gì! Tôi ngồi tóm nhợ câu, chú Sơn bảo tôi ra rẫy làm. Tôi nói chú đi trước đi, tôi lỡ làm chưa xong. Một chút tôi sẽ ra sau. Chỉ có vậy mà chú Sơn giở cái giọng chỉ huy, lãnh đạo của chú ra rồi dạy lý luận cách mạng cho tôi nữa chứ. Vậy thôi!
– Cái thằng Sơn kỳ thiệt! Có gì thì chiều hội ý mặc sức mà tranh luận với nhau. Thôi bỏ đi anh Hùng. Anh cứ tóm câu đi, chừng nào xong rồi ra rẫy với tụi tôi.
Sơn không phản ứng gì. Cậu kia kéo tay Sơn đi ra rẫy. Trong chòi giờ chỉ còn lại mỗi mình tôi.
Tôi không còn thấy một chút hứng thú để câu kéo gì nữa. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục ngồi cột xong đến lưỡi câu cuối cùng vào ngọn một nhánh lồ ồ chặt sẵn làm cần.
Tự ái tôi bị tổn thương quá lớn. Người ta đã dàn cảnh để cố tình hạ nhục tôi, nhưng làm sao giờ? Cột nhợ câu xong rồi, tôi ngồi thừ một lúc lấy thuốc rê ra vấn hút, suy nghĩ liên miên. Sau cùng, tôi tìm một cái rựa, mon men theo lối mòn mà ra rẫy, cùng ba cậu thanh niên chặt cỏ hôi, dọn chỗ trồng rau muống và cải.
Làm được một lúc, bỗng dưng tôi thấy trong người sao khó chịu lạ. Đầu nghe nặng. Người nghe lạnh dù nắng buổi chiều đang gay gắt và toàn thân tôi ướt đẫm những mồ hôi. Tôi biết cơn sốt rét đầu tiên của núi rừng khu A đến với tôi rồi đây. Khi sáng, trong bữa ăn trước khi đi, cô y tá đơn vị phát cho tôi hai viên Paludrine 0,10 để uống phòng. Đã uống khi sáng giờ này vẫn sốt, quả «thần sốt rét» khu A mạnh thực. Tôi nghe cơn lạnh càng ngày càng tăng đến độ tay tôi cầm rựa không vững nữa.
Hai hàm răng đánh lập cập vào nhau. Mắt tôi hoa lên. Đầu váng. Tôi đành ngồi bệch xuống cỏ. Cậu thanh niên ban nãy mà tôi chưa biết tên, lên tiếng hỏi:
– Sao đó, anh Hùng? Bộ anh bị sốt hả?
Tôi gật đầu. Cậu ta la lên:
– Ý chết! Sốt mà ráng gì anh! Anh đi vô nhà nằm nghỉ đi! Anh đi nổi không? Để tôi dìu anh đi.
Tôi gắng gượng trả lời:
– Được! tôi đi một mình được!
Tôi lảo đảo đứng đậy, gắng gượng bước chậm từng bước dẫm lên cỏ, mắt nhắm mắt mở như người say rượu.
Tôi nghe có tiếng gọi sau lưng:
– Coi chừng cái mương đó anh Hùng!
Nhưng vừa lúc đó tôi cũng chợt hiểu ra rằng chân tôi đang rơi vào một khoảng không, chới với. Và tôi còn kịp nghe tiếng Sơn hét lên:
– Rồi! Nhào rồi!
Tôi không còn nghe thấy gì nữa…
Khi tôi tỉnh đậy thì thấy mình đang nằm trên võng, mùng trắng căng giữa hai đầu võng buông xuống. Tôi nghe khô cổ và khát nước đến một cách lạ lùng và đầu óc tôi sao lơ mơ, nặng nề, không hiểu nó ra làm sao nữa. Chung quanh lặng trang, không một tiếng động nhỏ. Ánh sáng lờ mờ, hình như trời đã về đêm.
Tôi cựa mình, co chân lên cho bớt mỏi. Ui cha! Sao mông tôi đau thế này nhỉ? Tôi nhớ mình vừa ở ngoài rẫy, cơn sốt lên chịu không nổi nữa, mấy cậu kia bảo tôi vào nhà, rồi tôi bước đi.
Bây giờ ba cậu ấy đâu rồi, chắc đã ngủ hết cũng nên? Tôi đưa tay vén mùng, ngóc đầu dậy, thò chân xuống đất quơ đôi dép râu, định đi lại bếp tìm nồi nước đun sôi nhưng… Ơ kìa! đây là đâu? Lạ quá! Trước mắt tôi là một căn nhà rộng, phên vách hẳn hoi. Ở góc đằng kia có kê hai cái chõng bằng ván, trên có trải chiếu trắng.
Gần tôi hơn, phía đầu võng kê một cái bàn dài trên phủ vải trắng toát, sát bên trong một hàng những chai lọ và mấy cái hộp nhôm. Giữa bàn là một cái đèn ống khói cháy sáng để trước một chồng sổ sách, có một tập giấy học trò đang mở ngỏ. Cây bút nguyên tử xanh dằng lên trên. Kế bên bàn là một chiếc băng ngồi đóng bằng cây bào nhẵn. Lạ thực!
Không có một bóng người. Đây là đâu kia? Tôi hoang mang không hiểu, tôi định thần quan sát lại lần nữa. Bốn bên vách nhà, chung quanh căng một lớp vải mùng trắng. Hàng chai để trên bàn đều có dán nhãn và ở cuối bàn có để một cái plateau tráng men chứa đầy những kềm, kéo, ống tiêm, lọ thuốc đỏ.
À, thì ra đây là bệnh viện. Thảo nào! Mấy anh em ấy họ đưa tôi đến bệnh viện hồi nào, tôi không hay biết và tôi sốt đến cái độ mê man lúc nào tôi không hay? Tôi chợt thấy ở phía cửa sau nhà có ánh lửa bập bùng. Và tôi nghe có tiếng chân người bước nhẹ.
Một cô gái hiện ra ở cửa, mặc áo choàng trắng. Trên tay xách một ấm nước sôi, khói hãy còn phụt ra ở vòi ấm. Cô ta nhìn về phía tôi reo lên nho nhỏ:
– A! Anh tỉnh rồi à? Anh có khát nước không?
Dáng điệu, cử chỉ của cô ta báo cho tôi biết, cô ta là y tá trực. Lời nói êm ái nhẹ nhàng kia làm tôi thấy lòng mình ấm lại và lâng lâng trong một cảm giác sảng khoái vô tả. Tôi trả lời cô ta:
– Có! Tôi khát lắm. Cô cho tôi xin một ca đi!
– Anh có đói không? Anh uống sữa nhé!
– Tôi không đói! Chỉ khát thôi!
Cô ta để ấm nước xuống đất, đoạn lấy chai nước lọc để trên bàn rót vào ca nhôm:
– Cơn sốt của anh dữ quá chừng. Khi khiêng anh đến đây, nhiệt độ 40 độ 7, mạch đến 120. Cứu cấp suốt mấy giờ liền, truyền cho anh hết 500 cc xê-rum ngọt, bây giờ mới tỉnh dậy. Anh bị sốt rét ác tính đó.
Cô ta đi lại đưa ca nước cho tôi. Tôi đón lấy hai tay, ừng ực uống một hơi. Một ca nước đầy sao tôi uống vẫn chưa hết khát. Thực lúc này sao nước ngọt lạ thường ngon vô tả.
Cô y tá đứng ở đầu võng, kể lể:
– Ở đơn vị anh, khiêng anh đến đây hồi 6giờ chiều. Bây giờ… bây giờ là 12 giờ 7 phút. Mấy đồng chí khiêng võng bảo anh đang làm ngoài rẫy, bị sốt, lò dò đi vào nhà nghỉ, nửa chừng thì ngã xuống đất mê man. Mấy đồng chí đó phải khiêng vội, khiêng vàng đến đây, không kịp thay quần áo, rửa ráy cho anh. Về đến đây, tụi tôi thay đồ đạc và lau rửa cho anh đó.
Ngưng một chút, cô ta ngập ngừng hỏi tôi:
– Xin lỗi… anh tên chi?
– Hùng! Vũ Hùng! – Tôi trả lời.
Cô ta suy nghĩ một giây, môi mấp máy định nói gì, nhưng không hiểu sao cô ta lại thôi, nhìn tôi từ đầu đến chân. Cái nhìn chăm chú, xoi mói của cô ta làm tôi thấy ngượng nghịu lạ. Hay là lúc chiều chính cô đã lau rửa, thay quần áo sạch cho tôi? Trời đất! Như vậy «người ta» đã « thấy hết»… của tội rồi! Tức mình hết sức! Uổng công trình gìn giữ mấy chục năm nay. Giờ chỉ vì một cơn sốt rét mà để cho người ta tha hồ muốn ngắm thế nào thì ngắm.
Tôi đang cúi đầu vừa để tránh nhìn cặp mắt xoi mói đó, vừa mường tượng hình dung lại cái cảnh lau rửa, thay quần áo cho tôi lúc ban chiều thì cô ta lên tiếng.
Giọng nói cô ta ngập ngừng:
– Em… em tên Duyên. Anh có phải là… là ông trí thức mà anh chị em người ta đồn mấy hôm nay là anh ở Sàigon mới ra theo cách mạng hay không?
Tôi mỉm cười, thoáng thấy vui vui, quên mất mình là bệnh nhân sốt rét mới tỉnh dậy:
– Ai nói với cô như vậy? Và sao cô lại nghĩ người đó là tôi?
Duyên không trả lời câu tôi hỏi:
– Mà có phải là anh không chớ?
Tôi lắc đầu nhè nhẹ:
– Không phải tôi đâu!
Duyên sượng người, im lặng một lúc, thắc mắc:
– Chả lẽ em nhìn lầm? Cán bộ chiến sĩ ở B2 em quen mặt gần hết mà! Hơn nữa, em nghe Ban Chỉ Huy, anh y sĩ Mười Phương phổ biến tại nhà ăn trưa hôm qua, tên ông trí thức đó cũng tên Hùng!
Tôi không trả lời Duyên. Nghe mỏi, tôi ngả nằm xuống võng, vẹt mùng bỏ về phía sau, gối đầu lên thành võng. Nhanh thật, tôi nghĩ vậy. Tôi mới đến Khu A chưa đầy tuần lễ, chắc có lẽ khắp cả khu A này, người ta đã phổ biến sự kiện đó, không phải vì tôi là một « nhân vật » đáng được chú ý qua khả năng, đạo đức hay tài nghệ cá nhân. Sở dĩ người ta phổ biến tên tôi, thổi phồng tôi lên từ chỗ sinh viên Luật trở thành cử nhân Luật, luật sư gì đó, mục đích nhằm vào tuyên truyền, đề cao cách mạng, đề cao chính nghĩa kháng chiến chống Mỹ Diệm đã giác ngộ được giai tầng trí thức. Hơn thế nữa, người ta nhằm củng cố lòng tin tưởng, động viên tư tưởng, động viên sự hy sinh gian khổ cho các cán bộ chiến sĩ hiện đang sống tại khu A.
«Trí thức còn như thế đó, dám hy sinh quyền lợi cá nhân và giác ngộ cách mạng, nhắm mắt vui lòng đi theo Đảng, hy sinh cho Đảng thì các đồng chí là thànih phần cơ bản, chủ nhân ông của cách mạng, các đồng chí phải thấy là chính nghĩa của chúng ta ngời sáng, chúng ta phải vững lòng tin nơi thắng lợi sau cùng của chúng ta.
Chúng ta hãy kiêu hãnh, tự hào vì chúng ta là giai cấp công nông, đã lôi kéo và đánh ngã những giai cấp chống đối chúng ta, hoặc là họ đầu hàng giai cấp chúng ta, phục vụ cho chúng ta hoặc là những giai cấp phản động đó bị chúng ta đánh gục. Trường hợp của Vũ Hùng, chứng mình cho các đồng chí thấy đó là một thắng lợi của giai cấp chúng ta v.v…»
Tôi liên tưởng tới trong một buổi họp tổ Đảng hay họp Chi bộ hoặc họp đơn vị của một đơn vị nào đó của khu A; biết đâu chính trị viên đơn vị hay Bí Thư Chi bộ chả phổ biến tin Vũ Hùng đến tham gia công tác ở khu A và lãnh đạo tư tưởng đảng viên mình, cán bộ chiến sĩ mình như trước đây người ta đã từng làm.
Vấn đề «chính sách chiếu cố» chỉ là một nụ cười ngoài mặt không mất tiền mua, một tấm màn nhung đẹp đẽ, hấp dẫn với khán giả bên ngoài, trong nháy mắt nó có thể được kéo lên hay buông xuống tùy theo lớp lang của vở tuồng đang diễn.
Duyên ngồi vào bàn. Gương mặt nàng tôi thấy gợn lên một cái gì không hài lòng, phật ý. Tôi hiểu nhưng tôi biết làm sao bây giờ? Tôi thấy tiếc nụ cười duyên dáng, sự vui vẻ của mấy phút trước đây. Nàng nhìn xuống tập giấy học trò mở ngõ, một lúc đoạn cầm bút lên tay, lôi mấy tờ giấy khác ở xấp bìa cứng ra, húy hoáy viết.
Được một lúc, nàng quay lại:
– Bây giờ anh có mệt lắm không?
Tôi trả lời:
– Đỡ nhiều rồi cô.
– Ở đơn vị anh, người ta khiêng anh đến đây, không có quân y đơn vị đi theo, cũng không có giấy giới thiệu, không có bệnh án nên chưa ghi chi tiết, lập bệnh án theo thủ tục nhập viện được. Bây giờ anh có thể cho tôi hỏi vài chi tiết được chớ?
Qua giọng nói của Duyên tôi nhận thấy đã có sự thay đổi «làm mặt lạ». Cái tiếng «em» êm dịu trước đây đã nhường cho tiếng «tôi» thay vào. Và làm bệnh án gấp gì đến nổi phải viết lúc nửa đêm thế này? Huống hồ bệnh nhân mê man vừa tỉnh dậy. Tôi hiểu nguyên cớ của sự thay đổi ấy. Và tôi trả lời:
– Được đấy cô! Xìn cô cứ hỏi!
– Anh cho biết cả tên lẫn họ?
– Vũ Hùng.
Ngưng một tí để viết. Duyên lại hỏi:
– Anh bao nhiêu tuổi?
– Hai mươi chín.
– Cấp bậc?
Tôi ngỡ ngàng, bàng hoàng một lúc, không biết phải trả lời ra sao? Bởi tôi có cấp bậc nào đâu. Lính không ra lính. Quan chẳng ra quan. Đúng là trong cảnh ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng, «bán thày, bán thợ, bán cu li».
Duyên tưởng tôi chưa hiểu, giải thích:
– Nghĩa là cấp bậc trong bộ đội, chiến sĩ hay cán bộ a, cán bộ b, cán bộ c, vậy đó.
– Tôi là tân binh mà cấp bậc gì?
– Vậy là chiến sĩ, cấp bậc anh là chiến sĩ! Đơn vị? À! Đơn vị anh là B2, có đây rồi. Phương tiện chuyển bệnh? Khiêng võng. Chẩn đoán tạm thời sốt rét ác tính. Bệnh sử? Thôi, để sáng mai y sĩ khám cho anh chớ tôi là cứu thương, tôi… tôi….
– Cô chưa học y tá sao?
– Chưa!
Duyên đứng dậy, vớ lấy một nhiệt kế đi lại bên tôi, vẫy vẫy mấy cái:
– Bây giờ anh cho tôi lấy nhiệt một chút! Anh cho vào nách cặp lại.
Năm phút sau, nàng bảo tôi lấy nhiệt kế ra và đưa tay cho nàng đếm mạch. Mắt nàng đăm đăm nhìn chiếc đồng hồ reo với chiếc kim chỉ giây đang tích tắc, xoay tròn để trên bàn thuốc.
Trở lại bàn soi ống nhiệt kế bên đèn, nàng báo kết quả cho tôi biết:
-Nhiệt 38.7, mạch 92. Xuống rồi đó! Thôi, anh ngủ đi!
Tôi không nói gì. Duyên đến phủ mùng lại kín cho tôi. Giấc ngủ chập chờn lại đến với tôi, lẫn trong hình ảnh chiếc áo trắng đính chữ thập hồng thoăn thoắt xuyên qua, xuyên lại giữa gian nhà trống chợt biến đi. Giữa cơn ngủ chập chờn đó hình như tôi còn thắc mắc nhiều điều chưa kịp hỏi.
Sáng dậy, tôi mở mắt ra. Đồng hồ đã bảy giờ kém mười. Duyên đâu mất. Căn nhà còn trơ trọi chỉ một mình tôi. Đâu đây, tôi nghe tiếng oang oang của Đài Phát Thanh Hà Nội loan tin buổi sáng. Và tôi cũng nghe tiếng nhiều người nói chuyện, tiếng chân người bước, lẫn tiếng ca, muỗng chạm vào nhau lanh canh, cùng tiếng gió trên ngọn cây rừng, tiếng vượn hú nghe lảnh lót xa xa.
Bảy giờ kém mười ở đây là tám giờ kém mười, giờ Sàigòn. Cũng trưa, đâu phải sớm sủa gì nữa. Tôi ngồi dậy, chân thòng xuống đất nhìn ra bên ngoài. Có lẽ mặt trời đã lên cao, nhưng qua lớp sương mù dầy đặc phủ trắng ngọn cây, ánh sáng bên ngoài như đục mờ, nhạt nhẽo.
Đầu tôi giờ này nghe nhẹ, trí óc tỉnh táo nhưng sao nghe nó như lắc lư, không vững. Môi tôi khô cứng, dính lại với nhau. Lưỡi đắng ngắt. Hai mông đít hãy còn ê ẩm, đau buốt. Tôi muốn đứng dậy nhưng gượng mãi không sao đứng dậy được. Giữa lúc đó một cô gái mặc đồ bà ba đen từ bên ngoài bước vào. Đuôi gà sau gáy lắc lư. Trên tay cô ta là một ca nước đầy, bốc khói.