Chương VII (2)
Cô ta liếc nhìn tôi một thoáng, đi thẳng đến bàn để ca nước xuống, lên giây đồng hồ. Xong lại quay ra, chẳng buồn hỏi tôi lấy một câu. Có lẽ cô ta vừa ăn sáng, ở nhà ăn lên tạt qua đây. Chưa đến giờ làm việc nên chưa cần ở lại. Còn cô Duyên đêm qua trực bệnh ở đây, chắc cũng đang ăn sáng. Trước khi nghỉ, thế nào cũng phải trở lại đây để bàn giao?
Không hiểu sao, tôi trông được gặp mặt Duyên hết sức.
Cho nên khi Duyên trở lại tôi mừng rỡ lạ thường, buột miệng thốt lên:
– Cô Duyên!
– Dạ! Chi anh? Anh dậy rồi hả? Anh thấy khỏe không?
Tôi không trả lời nàng mà hỏi lại:
– Nãy giờ cô ở đâu?
– Tôi đi ăn sáng. Anh uống sữa nhá? Tôi pha cho anh một ca sữa.
– Cám ơn cô, tôi không đói đâu!
– Uống đi cho nó có sức chớ!
Rõ ràng là Duyên đã giận tôi về cái chuyện khi hôm, tôi không nhận mình là «ông trí thức» ở Sàigòn mới đến B2. Giọng nói của Duyên hơi gắt gỏng. Ánh mắt lạnh nhiều. Không vui như lúc tôi vừa tỉnh dậy. Tôi muốn nói với Duyên một câu nào đó, giải thích cho Duyên nghe nhưng giải thích thế nào đây. Tôi không sao tìm được câu nói nào cho ổn, đành ngồi trơ ra chịu đựng.
Duyên đứng trước mặt tôi:
– Suốt từ đêm qua tới giờ anh không bị nôn là khá lắm đó. Thông thường, nôn là một triệu chứng trung thành của bệnh sốt rét. Sốt nó ảnh hưởng đến thần kinh, ảnh hưởng đến gan và hệ thống tiêu hóa. Anh thấy đắng miệng, không đói là phải. Hai bên mông anh có còn đau không?
– Đau lắm cô ạ! Chắc trong lúc tôi còn mê chưa tỉnh, tiêm nhiều lần lắm thì phải?
Duyên cầm lấy tập giấy để trên bàn lẩm nhẩm đọc cho tôi nghe:
– Một ống… hai ống… Hai ống Jy-nin 0.50, một ống Ni-va-kin 0,20, hai ống Solucamphre 0.20, hai ống Vitamine C 0,250, một ống Vitamine B 0.200, hai ống Coradyl… Hai, ba, năm, bảy, tám, mười. Tất cả mười ống thuốc, lại còn truyền vào tĩnh mạch 500cc huyết thanh ngọt đẳng trương. Cũng đỡ là có pha vào huyết thanh hết mấy ống nếu không tiêm đủ mười mũi vào đít, vào đùi thì còn đau hơn thế nữa.
Tôi vừa nghe Duyên kể tên thuốc cũng vừa khám phá ra rằng nàng đọc tên thuốc với cái gìọng «đầm» khác hẳn với cô y tá Thu của B2 đọc tên thuốc Paludrine thành Pa-lu-rinh làm tôi điên đầu chẳng hiểu thuốc gì. Tôi nhớ đến lời Duyên nói khi hôm nàng chỉ là cứu thương. Cứu thương trình độ văn hóa phải kém hơn y tá chứ! Mà Duyên đọc tên thuốc với giọng «đầm», điều đó giúp cho tôi hiểu phần nào về hoàn cảnh nàng và thái độ vui vẻ, ngọt ngào ở phút ban đầu. « Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu» là như thế chăng?
Bỗng Duyên hỏi tôi:
– Ở Sàigòn anh ra đi hôm nào? Anh tự đi một mình hay có người đưa anh đi?
– Hôm mồng bốn Tết. Người ta đến rước tôi tại nhà đến bến xe đò Chợlớn, lên Hậu Nghĩa rồi theo giao liên nhiều chặng mới lọt đến đây.
Chợt Duyên mỉm cười:
– Đó, thấy chưa! Anh giấu đầu tôi đuôi rồi. Vậy mà hồi hôm anh cứ chối lại còn bảo người ta lầm.
Tôi đành cười trừ. Quả thực tôi không nghĩ đến câu hỏi cố ý đưa tôi vào «bẫy» dó. Tôi nghĩ âu cũng là dịp may để thanh minh. Tôi khẽ nói vừa đủ nghe:
– Xin lỗi Duyên! Nhưng không phải tôi muốn giấu, muốn chối gì đâu. Dù có giấu, có chối cũng chẳng được. Tôi còn ở đây, lúc nào có dịp tôi sẽ trình bày clo Duyên biết… Tôi không muốn mình trở thành… Tôi sợ…
Nàng cũng hạ thấp giọng xuống:
– Em hiểu! Em không giận gì anh đâu.
Khẽ thở đai. Duyên tiếp:
– Anh mới đến B2 gần bốn năm hôm chứ gì? Lạ ghê! Sao người ta bắt anh đi làm rẫy cà? Chết chưa! Để em đi pha sữa cho anh. Tới giờ làm việc rồi, anh chị em họ tới đầy đây hết bây giờ. Em bàn giao sổ trực bệnh xong em cũng phải đi nghỉ. Bênh viện này là bệnh viện G2, lớn nhất khu A đó! Có một bác sĩ và ba y sĩ phụ trách. Anh, nằm nghỉ đi. Anh phải uống chút sữa cho có sức.
Tôi thấy mỏi và đau, phải cố gắng lắm để ngồi nói chuyện với Duyên. Nếu Duyên không nhắc, chắc tôi cũng phải ngả xuống nằm. Nằm trên võng, nhìn Duyên trong chiếc blouse trắng, dáng người thanh, bé nhỏ, bước đi nhẹ nhàng tha thướt, không hiểu sao tôi có cái cảm giác ngỡ đó là cô nữ sinh của Sàigòn với tà áo trắng tung tăng trên đại lộ Lê Lợi trong một ngày nắng đẹp ở thủ đô. Cái gương mặt trái soan, cái mái tóc cắt ngắn, uốn quăn xa tiệm uốn tóc lâu ngày chỉ hơi gợn sóng, bồng bềnh phủ xuống đôi vai tròn… Nhìn qua con người Duyên, phong thái của Duyên, tôi thấy Duyên không giống bất kỳ người con gái nào mà tôi đã gặp kể từ ngày tôi xa Sàigòn vào khu chiến.
Sao giữa rừng núi khu A sâu thẳm này, tôi còn có thể gặp lại dấu vết của một hình ảnh đã qua rồi thế nhỉ?
Duyên pha xong ca sữa để trên chiếc ghế đẩu, kê cạnh đầu võng chỗ tôi nằm thì lúc ấy gian nhà đã có thêm sáu người nữa vừa đến. Gồm có bốn cô rất trẻ ở vào lứa tuổi mười tám, đôi mươi tóc kẹp đuôi gà và hai thanh niên. Một khoảng hăm lăm, một trạc ngoài ba mươi tuổi. Tất cả đều mặc bà ba đen.
Thanh niên lớn tuổi nhất đến trước mặt tôi và hỏi Duyên:
– Anh Hùng khá nhiều rồi chớ, đồng chí Duyên?
– Dạ, khá nhiều rồi! Anh ấy tỉnh dậy hồi 12 giờ đêm. Mạch, nhiệt sáu giờ sáng này là 38 độ 5 và 88.
– Vậy là xuống rồi! Khá quá rồi. Lát nữa cho chuyển xuống trại hai.
Đoạn anh ta cho tay sờ vào trán tôi. Duyên giới thiệu cho tôi biết:
– Đây là anh Sáu, y sĩ khoa nội chịu trách nhiệm phòng khám bệnh và tiêm thuốc này đó.
Sau khi Sáu khám lại, kê mệnh lệnh điều trị cho tôi xong thì tôi bị tiêm liền hai ống thuốc và người ta cuốn võng dìu tôi xuống nằm ở trại hai.
Trại hai cũng như những trại bệnh khác ở đây là những gian nhà dài, không phên vách, kê hai hàng giường cá nhân. Mỗi bên năm chiếc. Chân giường bằng cây rừng chôn xuống đất lót đà ngang, gác lên một tấm sạp giường bằng cây bằng lăng xẻ ra, bào bóng trơn tru. Lót giường là một manh chiếu nhỏ, ngang tám tấc, dài hai thước vừa vặn với kích thước của giường.
Hai hôm đầu, ngoài trị liệu thuốc sốt rét, sinh tố B1 và sinh tố C người ta cho tôi được hưởng chế độ ăn uống 12 đồng mỗi ngày, chưa kể gạo. Chế độ đó do Quân ủy Miền và Cục Chính Trị quy định chung cho tất cả các bệnh viện chính quy thuộc Cục Hậu Cần R.
Chế độ khẩu phần đang áp dụng cho thương bệnh binh tại bệnh viện có năm loại. Loại thấp nhất là chế độ 5 đồng một ngày, dành cho những thương bệnh binh sắp sửa xuất viện, đang ở thời kỳ lành bệnh, điều trị bồi dưỡng chung. Loại 7 đồng một ngày, cũng thuộc loại lành bệnh, điều trị bồi dưỡng chung nhưng cơ thể hãy còn yếu đuối, suy nhược thiếu máu. Nói cách khác, đối với thương binh được áp dụng cho khinh thương với các vết thương phần mềm không hệ trọng.
Loại 12 đồng dành cho các bệnh nội khoa, đặc biệt là sốt sét nặng nhưng chưa được liệt vào hàng ác tính, nguy hiểm. Áp dụng cho thương binh thì phải là trung thương nhưng không xê dịch đi lại được.
Loại 20 đồng một ngày là tiêu chuẩn cao nhất, dành riêng cho những bệnh nhân không ăn cơm cháo gì được và sức khỏe bị suy sụp trầm trọng, tỷ lệ sống sót rất ít. Nói cách khác, những bệnh nhân đó đang ở vào tình trạng cấp cứu cho nội khoa cũng như ngoại khoa.
Ngoài bốn loại chế độ khẩu phần trên, còn loại đặc biệt. Loại đặc biệt không quy định, không hạn chế ở mức độ nào, nghĩa là bệnh nhân thèm gì, muốn gì thì Ban Giám Đốc Bệnh viện, quản lý bệnh viện, phải tìm đủ mọi cách để thỏa mãn bệnh nhân cho kỳ được.
Tốn bao tiền cũng được, khó khăn mấy cũng phải cho người tìm ra. Nhưng loại tiêu chuẩn đặc biệt, trong suốt mấy năm qua, bệnh viện G2 chưa hề áp dụng cho ai. Vì rằng, muốn được hưởng chế độ tùy ý, tùy thích bệnh nhân phải là cán bộ, đảng viên dày công với Đảng hoặc đã tạo nên thành tích đặc biệt, hay tạo nên một chiến công hiễn hách, giờ bị trọng thương chắc chắn chết 101% hay bị một chứng bệnh nan y trầm trọng chờ giờ nhắm mắt.
Tiêu chuẩn đó cao quá, nên chưa có bệnh nhân nào hội đủ điều kiện để được hưởng «ân huệ» lớn lao do Đảng dành cho. Mà dù cho hội đủ điều kiện đi nữa, tình trạng chờ chết đó, bệnh nhân đã liệt giường liệt chiếu, đau đớn, mệt nhọc thở chẳng ra hơi nào ai «thèm » nổi một thứ gì để Đảng ban đặc ân được thỏa mãn? Nếu có, có lẽ chỉ là lời yêu cầu giúp cho chết sớm để đỡ đau đớn, đỡ kéo dài thời gian bị hành hạ quá sức của con bệnh hay vết thương.
Khi phê vào mệnh lệnh điều trị, cho tôi được hưởng chế độ 12 đồng một ngày, người ta đã vui vẻ chịu khó ngồi giải thích cho tôi rõ về chế độ kể trên. Thấy tôi chỉ lẵng lặng nghe mà không góp một lời nào ca tụng hay thắc mắc chính sách Đảng, người ta kết luận:
– Trong hoàn cảnh rừng núi, khó khăn gian khổ của chiến trường miền Nam hiện nay, khẩu phần ăn bình thường mỗi người một ngày chỉ có 3 đồng thì chế độ đó là một hy sinh lớn lao của Đảng, một sự chiếu cố đặc biệt, một đặc ân mà tất cả thương bệnh binh đều phải nhớ ơn Đảng. Chính sách đó của Đảng thể hiện lòng nhân đạo, xuất phát từ quan điểm «Người là vốn quý của Đảng» mà Bác và Đảng thường dạy dỗ nhắc nhở chúng ta.
Và người ta cười ra tiếng khoái trá:
– Duy chỉ có điều ngộ nghĩnh buồn cười là cái thằng cha bệnh nặng như sốt rét ác tính chẳng hạn, lúc Đảng cho nó hưởng chế độ hai chục đồng thì nó cứ mê man chẳng thèm ăn uống gì hết. Khi nó tỉnh dậy, thoát qua giai đoạn hiểm nghèo thì nó chỉ được quyền hưởng chế độ 12 đồng, mười hai đồng nhưng nó chỉ uống được sữa, ép lắm nó uống hết một phần tư hộp sữa là cùng. Sữa một hộp giá thị trường 18 đồng. Như vậy mỗi ngày nó chỉ xài bốn đồng rưỡi. Đến lúc nó vừa cắt được cơn sốt, ăn được cháo thì khẩu phần của nó tuột xuống tiêu chuẩn 7 đồng một ngày. Và khi nó đi vững. đứng vững đòi ăn cơm, ăn theo cái kiểu trả bữa, ăn không biết no, bụng căng cứng mà vẫn thấy thèm cơm thì khẩu phần của nó hạ xuống còn 5 đồng một ngày. Rõ cái bệnh sốt rét là cái bệnh dại nhất trên đời! Cái lúc được hưởng chế độ hai chục sao không chịu ăn, vì nếu ăn chế độ đó, nó còn đưọc ăn lạp xưởng, ăn thịt gà, ăn cá mòi, đồ hộp. Để đến lúc nó còn 5 đồng, thức ăn chỉ có trái su luộc, đậu xào thì ăn hùng hục như tầm ăn lên. Dại chưa?
Tuy không cười nổi ra tiếng nhưng lối giải thích đó cũng làm tôi nhếch mép cười. Nếu lúc bình thường, chưa bị sốt rét và nếu không phải giữ gìn ý tứ, có lẽ tôi cười nôn cả ruột lên.
Anh chàng y sĩ này cười cái bệnh sốt rét là bệnh dại. Còn tôi, tôi cười phục lăn cái thằng cha nào hóm hỉnh, sáng kiến vô song, đẻ ra cách thức quy định cấp chế độ tiền ăn cho bệnh viện. Thằng cha khôn thiệt. Óc tính toán khoa học làm sao. Chắc thằng cha đó giỏi toán và xuất thân là thành phần cho vay bạc góp.
Tôi ngỡ cái hôm đầu, chuyển xuống trại hai chắc dứt được cơn sốt. Nào ngờ chiều lại, tôi lại sốt. Sốt đến run giường run chiếu. Đắp hai ba lớp nào mùng, nào tấm đắp, nào võng nylon phủ bên ngoài vẫn cứ run. Rồi ngày hôm sau cũng thế. Phải đến ngày thứ tư cơn sốt buổi chiều mới chịu lui hẳn. So với lúc tôi tỉnh dậy ở hôm đầu, mê man bất tỉnh phải cấp cứu tại phòng khám bệnh thì sức khỏe tôi hôm nay tệ hơn nhiều. Tay chân tôi xanh như tàu lá chuối non. Trong người tuy tỉnh táo, nhẹ nhàng dễ chịu nhưng hễ nằm thì thôi, chứ ngồi dậy là choáng váng chóng mặt, phải nhắm mắt lại một lúc mới thấy đỡ.
Bước thử xuống đất, tôi nghe lảo đảo như người say rượu. Đầu nặng hơn chân, các khớp xương rời rã tưởng chừng nó không còn dính liền nhau nữa.
Về chế độ ăn, hai hôm nay tôi được ăn cháo đường do mấy cô cứu thương mang đến và bắt đầu thấy thèm cơm. Tôi định bụng sáng mai sẽ đề nghị với y sĩ Hồ Phương, giám đốc bệnh viện và cũng là y sĩ điều trị, đến thăm bệnh ở trại tôi mỗi ngày.
Chín giờ sáng hôm sau Hồ Phương đến. Mới bước vào thềm. Phương đã đưa hai tay về phía trước, vừa đi vừa cười vui vẻ hỏi tôi:
– Thế nào anh Hùng! Hôm nay dễ chịu, hoàn toàn hết sốt rồi chứ?
Tôi vui vẻ trả lời:
– Hết sốt từ chiều hôm qua rồi! Anh!
Ngồi lên mép giường, hai tay Phương nắm lấy hai tay tôi:
– Sáng nay mấy cô y tá đã lấy mạch, nhiệt cho anh rồi chứ?
– Xong rồi! Mạch 80, nhiệt 37,3.
– Chặn đứng cơn sốt rồi đó! Mấy hôm nay tụi lôi lo quá. Đúng là accès pernicieux! Danh từ chuyên môn gọi là sốt rét ác tính. Ở đây, dễ bị sốt rét ác tính lắm. Chả là rừng sâu thì khí hậu ẩm thấp, lại vùng này đầy muỗi anophèle. Giang sơn biệt lập của thần Fakciparun mà anh! Như trường hợp anh, đang sống ở đồng bằng, thành thị, môi trường khí hậu nó khác, đến đây gặp môi trường lạ, xấu hơn, ẩm thấp hơn, cơ thể bị suy yếu đột ngột. Nhân cơ hội đó, vi trùng Falciparum hay Vivax nó vật anh thành accès pernicieux ngay. Hầu hết anh em đến khu A đều như vậy. Ngay cả những anh em đã sống quen ở đây rồi, vẫn còn bị sốt liên miên như cơm bữa.
– Lúc mới đến B2, tôi có nghe anh Ba Biếu kể chuyện cho nghe về sốt rét khu A nhưng chưa hình dung được ra sao. Bây giờ tôi mới đụng độ thử với nó lần đầu tièn đây.
– Anh thấy nó như thế nào?
– Vất vả thiệt anh!
Phương cười:
– Coi như trọn năm nay, anh chuẩn bị sẵn sàng chịu đựng sốt rét bốn tháng đi. Bốn tháng đó là bốn tháng sốt rét ra trò, còn en en nửa nóng, nửa lạnh chiếm một thời gian chừng năm sáu tháng nữa.
– Úi chà! Dữ vậy anh! Hết năm còn gì?
– Thiệt đó! Không phải tôi nói để hù anh đâu. Anh không ngán nó chứ?
– Sốt thì nằm, hết sốt ngóc đầu dậy làm việc. Ai sao mình vậy, ngán gì anh!
Phương đăm chiêu:
– Cho đến bây giờ, trong công tác điều trị cho anh em bệnh binh, tụi tôi thấy gay nhất vẫn là sốt rét. Nhất là sốt rét ác tính. Anh xem, khoa nội ở đây, hiện tại nhận độ 60 bệnh binh mà sốt rét chiếm đến 57, 58 mạng rồi. Tỷ lệ của nó chiếm đến 95%. Ngay như hồi năm giờ sáng hôm nay, tụi tôi mới cấp cứu cho một ca sốt rét ác tinh. Đồng chí ấy đã…
Phương ngừng lại, không nói nữa, mắt nhìn ra sân, tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra nhưng vẫn hỏi:
– Chết rồi phải không anh?
Phương tưởng có thể giấu được tôi, nói lảng đi:
– Chưa! Đang cứu cấp! Thái độ của thày thuốc được Đảng dạy cho là «còn nước còn tát», là «lương y kiêm từ mẫu»… Anh cho tôi khám lại bệnh tình anh một chút đi!
Phương móc cái ống nghe nhét trong túi áo bà ba đen ra nghe tim, nghe phổi tôi xong, lại sờ nắn hai bên hông, gõ cộc cộc kết luận:
– Mới sốt mấy bữa, lá lách thòng nhiều. Tiếng gõ đục dữ! Nhưng chả hề gì, điều trị củng cố và tích cực bồi dưỡng phục sức mấy hồi!
Hỏi tôi thêm ba điều bốn chuyện về ăn ngủ v.v… Phương cho tôi biết thêm:
– Anh thì… tôi đặc biệt để anh hưởng chế độ 12 đồng cho đến ngày anh xuất viện. Nhưng nhà nước còn nghèo, 12 đồng chẳng đâu vào đâu. Vậy nếu có tiền cá nhân, anh đến căng-tin chia thực phẩm về nhờ mấy anh chị em hộ lý nấu giúp, hoặc đường sữa bồi dưỡng thêm. Hôm nay dưới căng-tin mới nhận được một chuyến hàng tiếp phẩm, có đường, sữa, trà, lạp xưởng, cá hộp, thuốc lá v.v… Để tôi dặn đồng chí quản lý. Anh biết căng-tin chứ?
– Chưa! Mấy hôm nay nằm một chỗ, tôi đâu có đi đâu.
May mà tôi còn để dành được vài ngàn mang theo.Tôi có thể xuống căng-tin chia thực phẩm nấu ăn thêm. Các anh em khác thì sao nhỉ? Đâu phải ai cũng có thể có tiền một cách dễ dàng giữa rừng hoang, quanh năm suốt tháng mấy chục đông sinh hoạt phí? Với số tiền đó hàng tháng, nào phải mua xà-bông, dao bào cạo râu, thuốc rê, giấy quyến, gói trà v.v… chưa chắc đã đủ.
Chợt Phương reo lên:
– A! Kìa! Cô Duyên đi ngang, để tôi gọi cô ấy vào dặn cô ấy giúp anh xuống căng-tin mua hộ.
Phương gọi lớn:
– Duyên ơi! Duyên!
Tiếng Duyên đáp, từ ngoài đường đi vọng vào:
– Có! Chi đó anh Mười!
– Vào đây!
Bóng Duyên hiện ra ở thềm nhà. Phương tưởng tôi chưa biết, chưa quen Duyên, trong khi hằng ngày Duyên đều có ghé lại đây thăm tôi, trò chuyện, nên Phương làm ra vẻ trịnh trọng giới thiệu:
– Xin giới thiệu anh đây là cô Duyên, là nữ sinh trường Gia Long đấy! Vào đây hồi năm ngoái. Cô ấy học đến lớp… lớp mấy cô Duyên?
– Dạ đệ nhị C.
– Lớp đệ nhị trong này ngang với lớp chín miền Bắc đó! Đâu hai người xem coi lúc ở Saigòn có quen nhau không?
Phương cười tủm tỉm làm Duyên ngượng nghịu đến đỏ mặt. Tôi cũng thấy nhột nhạt, Phương tiếp:
– Duyên xnống phòng khám bệnh, xem mệnh lệnh điều trị, trong bệnh án coi chế độ khẩu phần của anh Hùng vẫn còn 12 đồng hay đã sụt xuống 7 đồng rồi. Nếu còn 12 đồng thì thôi. Nếu đã có ai ghi sụt xuống 7 đồng thì Duyên bảo là tôi ra lịnh giữ nguyên chế độ 12 đồng đến khi nào anh Hùng xuất viện. Sau đó, Duyên đưa anh Hùng xuống căng-tin hay Duyên xuống đó hộ anh Hùng, chia thực phẩm vật dụng cho anh Hùng nhá! Quản lý không chịu chia thì bảo đã có lệnh của tôi.
– Dạ!
Trước khi bước đi, Phương còn vui vẻ nhắc tôi:
– Chiều nay khỏe, mời anh lên văn phòng uống nước với tôi chơi.
Phương bước đi. Duyên ngồi xuống cạnh giường đối diện:
– Hồi sáng Duyên có ghé thăm anh nhưng thấy anh còn ngủ nên không gọi. Sáng nay anh ăn được nhiều cháo chứ?
– Cảm ơn Duyên. -Tôi nói-. Tôi có ăn được một ít. Nhưng sao không thấy đói. Miệng đắng quá.
Bỗng Duyên cho tay vào túi áo móc ra một gói giấy nhỏ, ngập ngừng:
– Biết anh đắng miệng nên… nên khi nãy Duyên có ghé đằng căng-tin… mua cho anh mấy cục xí muội nè! Anh ngậm cho nó đỡ…
Duyên nhìn xuống. Tôi cảm động thực sự và thấy lòng mình chợt xao xuyến:
– Cảm ơn Duyên nhé! Cảm ơn Duyên…
Duyên bối rối ngẩng lên và nói lảng đi:
– Mấy anh ở trại này đâu vắng hết rồi anh?
– Chắc mấy anh ấy, sang đánh Tu-lơ-Khơ ở trại bên kia.
Chợt hai tiếng súng lục nổ lẹt đẹt xa xa, phía bên kia suối. Tôi nói với Duyên:
– Tiếng súng đó đúng là tiếng súng lục. Chắc ông cán nào nổi hứng ra rừng bắn chơi…
Duyên ngắt lời tôi:
– Không phải đâu anh! Lễ truy điệu đó!
Tôi chưng hửng:
– Truy điệu? Truy điệu ai? Ai chết mà truy điệu?
– Mới có bệnh nhân bị hy sinh hồi sáng nay.
-…?
– Không phải thương binh đâu! Anh ấy sốt rét ác tính nặng quá, đơn vị đưa đến muộn nên cấp cứu không kịp, chết tại phòng anh nằm hôm trước đó. Ban Chỉ Huy sợ để làm ảnh hưởng đến tinh thần bệnh binh nên cho đi đào huyệt ngoài nghĩa địa, chọn vội chọn vàng sáng nay. Không cho ai biết hết đó.
Không ai biết nhưng tôi biết, nhiều người biết. Tự dưng tôi thở dài.
Cái chết đối với con người sao giản dị thế, dễ dàng thế và vô lý làm sao!