Chương IX (4)
Bây giờ, sống chung đụng thường ngày với người Kinh nên cảnh trên không còn nữa. Thường ngày họ cũng mặc đồ bà ba. Dù vậy, một số vẫn còn giữ thói quen che yếm và quấn váy.
Về đàn ông con trai, lúc nào cũng ở trần trùi trụi. Phơi nắng ngoài rẫy, ngoài rừng nên da như tượng đồng đen, nổi mốc. Để che «đùm của quý», họ lấy một khúc vải ngang độ hai tấc, dài hơn thước rưỡi, giống y như cuộn băng. Họ quấn quanh hông gống như sợi dây nịt da to bản của lính tập thời Tây. Ở giữa rún, họ cho miếng vải thòng xuống háng vòng qua sau đít và cột lại ở sống lưng.
Rượu họ uống là rượu «ịch», một thứ rượu cần. Họ bứt đủ thứ lá cây rừng, hàng ba bốn chục thứ lá bỏ vào hủ, chế nước, rồi ủ men làm bằng rễ và vỏ cây rừng. Ủ như thế chừng hai mươi ngày sau đem ra uống. Họ cặm một lóng trúc dài vào hủ. Thế là bà con anh em xúm lại tha hồ mà nút. Có khách đến nhà, họ cũng bê hũ ra mời. Rượu làn lạt, đăng đắng, cay cay, chẳng ra sao, thế mà say bò càn, ngã lăn ra sàn lúc nào không biết.
Đặc biệt, từ trước đến giờ họ không hề trồng hoa màu rau cải. Họ cũng không biết ăn những thứ đó. Họ chỉ trồng vỏn vẹn một thứ lúa, dẽo như nếp. Thấy bộ đội ăn rau, họ cười bảo:
– «Anh Đội» bằng nhau với con bò!
Chả là bò thì ăn cỏ. «Anh Đội» ăn rau giống như bò ăn cỏ. Vậy thì «anh Đội» và con bò bằng nhau.
Thấy bộ đội ăn khoai mì họ cũng bảo:
– «Anh Đội» bằng nhau với con nhím!
Ăn bí, ăn dưa thì «bằng nhau với con chuột!» để diễn tả ý nghĩ mộc mạc của họ. Đối với họ, quý nhất là muối. Vì ở rừng nhiều khi không đến chợ được để đổi muối phải đốt tro cây dền hơi mằn mặn làm muối ăn. Ngược lại, họ rất ghét đường.
Có lần, Hai Minh mang theo mấy táng đường mía vào buôn để cho trẻ em Thượng. Theo lối suy diễn của Minh, trẻ con Việt một chục đứa hết mười đứa thích kẹo, thích đường nên Minh nghĩ trẻ con Thượng cũng vậy thôi. Nhưng khi Minh đưa một táng đường mía cho một chị chủ nhà thì chị ta bảo:
– Đường của «anh Đội» thúi rồi!
Minh ngơ ngác, chẳng hiểu, đưa táng đường lên mũi ngửi, nó vẫn thơm mà! Duy chỉ vì đem ra ngoài gió, táng đường hơi tươm nước tí chút đó thoi. Minh chưa kịp hiểu thì chị ta bồi thêm một câu:
– Thằng con của «đồng bào» đang khóc nghe «anh Đội» nói cho đường sợ quá nín khóc rồi.
Về đời sống trẻ con ở đây thực đáng thương. Do tập quán cổ truyền, cũng như ánh sáng văn minh của nhân loại là một cái gì xa tít mù, ở tận đâu đâu nên đời sống phản khoa học, thiếu vệ sinh đã giết chết 95% trẻ con. Ngược lại, đứa trẻ nào còn sống, được thích ứng với hoàn cảnh thì trở thành một thứ đá, thứ gỗ chai cứng. Nắng gió, khí hậu của núi rừng không sao suy suyển được nó. Nó mạnh như thần, lớn lên theo thời gian.
Ở rừng núi, vi trùng sốt rét là vua. Hài nhi được sinh ra với phương pháp sản khoa mất vệ sinh, phần lớn bị chết vì vi trùng và vì lạnh trong những ngày đầu mở mắt chào đời. Kế đó là vi trùng sốt rét.
Có lần, Minh đến buôn, thấy trước sân một nhà sàn, một đứa trẻ chừng ba tháng bị bỏ ngoài nắng, phía trên che chiếc lá dầu, nằm dẫy dụa khóc thét. Minh hỏi thì được trả lời:
– Nó bị lạnh, phơi nắng cho nó hết lạnh.
Được hỏi nếu nó bị nóng thì sao, «đồng bào» thản nhiên trả lời:
– Đem ngâm nó dưới suối, chừng nào hết nóng đem nó lên.
Sự kiện trên đây, nói lên một cách hùng hồn tại sao đồng bào Thượng càng ngày càng ít người đi. Dân tộc bị «mòn» dần không phát triển nổi.
Đối với trẻ con Thượng, mới bốn năm tuổi đầu, biết đi biết chạy, biết nói vừa đủ là chúng bắt dầu sống «nếp sống của người lớn». Chúng có «quyền» giống cha chúng, mẹ chúng. Hai Minh nhắc lại chuyện cách đây không lâu, hôm đó có mấy anh em đi đồng bằng về biếu cho Minh một gói thuốc thơm Ara. Nhân thèm gà nấu cháo xé phay, Minh lội vào buôn xách muối đổi gà.
Gặp một đồng bào chủ nhà, sẵn có thuốc thơm Minh lấy thuốc ra mời:
– Mời anh một điếu thuốc thơm!
Anh chủ nhà mừng lắm, mắt sáng rỡ, nhận lấy điếu thuốc. Giữa lúc đó vợ anh ta từ ngoài sân bước vào, chủ nhà liền chỉ tay:
– Vợ tui nữa! Vợ tui một điếu!
Minh lại vui vẻ móc ra một điếu đưa cho chị. Nhưng thằng con mới bốn năm tuổi của anh ta, trên miệng đang ngậm một ống điếu làm bằng gốc le dài ngoằng cũng rút ra, đưa tay chỉ lia lịa vào gói thuốc Ara của Minh. Nó líu lo với ba má nó một lô tiếng Sa Tiên mà Minh không hiểu gì hết.
Minh tưởng thằng bé ngậm ống điếu chỉ là một nghịch ngợm, trẻ con chơi vậy thôi chớ sao ngờ được mới từng ấy tuổi đầu đã biết hút thuốc. Có lẽ thấy gói thuốc Ara đo đỏ, ngộ nghĩnh nó muốn xin chơi.
Minh cười với thằng bé. Anh chủ nhà bảo:
– «Anh Đội»! Thằng con «đồng bào» một điếu nữa.
Minh ngơ ngác, ngạc nhiên hết sức, nhưng cũng cười «cầu tài» khom xuống vuốt ve nó:
– Cháu còn nhỏ! Bây giờ cháu còn nhỏ. Chưa biết hút thuốc. Mai kia cháu lớn, «anh Đội» sẽ cho cháu một điếu.
Anh chủ nhà cãi ngay:
– Không! Thằng con của «đồng bào» nó hút thuốc giỏi lắm. Nó biết hút thuốc.
Minh cố giả vờ không nghe:
– Bây giờ cháu còn nhỏ lắm…
Anh chủ nhà lại cướp lời
– Nó nhỏ nhưng nó cũng là một người. Nó cũng là một người. «Anh Đội» là một người, nó cũng là một người như «anh Đội». Bây giờ nó nhỏ, nhưng mai kia nó lớn bằng «anh Đội».
Thằng bé gục gặc đầu ra vẻ tán thành lời cha nó nói. Túng quá Minh phải rút thêm một điếu Ara đưa cho nó, mới êm. Nó cười toe, giật lấy điếu thuốc đang cháy của mẹ nó đưa lên miệng mồi, bập bập một cách thành thạo.
Nó hít mấy hơi khói, mũi ra có vòi, sung sướng một cách vô tả.
Rồi nó líu lo một hơi, chừng như bình phẩm gì đó đoạn chạy xuống nhà, ra sân lượm cây ná nhỏ của nó, lắp tên bắn vung tí mẹt về gốc cây trước mặt.
Minh lắc đầu phục lăn. Quả là «một người». Lớn nhỏ bình đẳng như nhau!
Nhìn thằng bé bắn tên với cây ná bé tí, tuy nó chẳng ra làm sao cả nhưng cũng đủ cho mọi người biết, đồng bào Thượng đã tập bắn ná từ thuở mới biết đi biết chạy. Trò chơi của trẻ con Thượng là tập bắn ná. Do đó, chả trách tại sao đến khi trưởng thành người Thượng nào cũng đều bắn ná bách phát bách trúng, y như nhau.
Nhờ đó, họ săn thú rất tài lình. Với cái ná trên tay và nắm tên tẫm thuốc độc bằng mủ cây rừng đựng trong ống tre, họ hạ nào cọp, voi, nai, mang, mễn v.v… Thú rừng to mấy, mạnh mấy cũng chết. Sớm lắm vài phút đối với thú nhỏ, trễ lắm một vài giờ đối với thú lớn.
Bắn được thịt, họ về gọi cả buôn xúm ra xẻ thịt mang về cùng ăn với nhau chứ không bao giờ ăn riêng rẽ một mình.
Mỗi buôn có một người cầm đầu. Người đó là người già nhất. Họ nhất nhất tuân theo lệnh ông già này. Được lòng ông già này tức được lòng cả buôn. Ông già này ghét, cả buôn đều ghét.
Nhà của đồng bào Thượng cất rời rạc xa nhau, không như người Kinh, nhà này gần sát nhà kia. Đáng lẽ đời sống ở rừng nguy hiểm, thú dữ rắn rít chung quanh, đe dọa thường trực, phải sống gần nhau, kết đoàn thành sức mạnh để bảo vệ lẫn nhau mới có thể sinh tồn được. Nhưng vì tập quán, thói quen thích sống cô độc, yên tĩnh, không muốn người khác dòm ngó, để ý đến nếp sống riêng mình nên họ không thích ở sát nhà nhau. Họ sống rời rạc trong những nhà sàn nhỏ, vừa là nơi ngủ, nơi ăn, nơi chứa đồ đạc, không vách, ngăn buồng gì cả. Ngủ cũng không mùng, không mền. Họ rất hồn nhiên, đói thì ăn, gặp gì ăn nấy, buồn ngủ cứ lăn ra ngủ…
Chúng tôi nghe Minh kể chuyện về đồng bào Thượng một cách thích thú say sưa. Quả thực lần đầu tiên, tôi biết một cách tương đối đầy đủ. Trước đây, đọc qua các sách về địa lý, nhất là những tiểu thuyết đường rừng, những bài báo viết về đồng bào Thượng ở thượng du Bắc Việt, tôi đọc một cách bàng quan, chẳng khác nào như đọc chuyện cổ tích.
Đi ngang qua một đám rẫy, mướp bò xanh um, trái la liệt nằm dài trên đất, tôi thấy ham làm sao. Tôi mơ tới một nồi canh mướp nấu cá trê, cơm trắng nóng hổi, ôi chao!
Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái. Rẫy mướp này của ai vậy cà? Tôi hỏi Minh:
– Cha, mướp nhiều quá ta! Anh Hai! Rẫy của ai vậy?
Minh trả lời:
– Của đồng bào Bù Cháp đó!
– Ủa! Nói đồng bào Thượng họ không biết trồng rẫy, ăn rau cải, hoa màu mà!
– Chuyện đó chắc là chuyện trước kia. Chớ bây giờ họ bắt chước mình. Không những trồng mướp, còn trồng bí, dưa, đậu, khoai mì nữa. Anh coi, họ còn biết nuôi heo, nuôi gà nữa đó!
Tôi chép miệng:
– Uớc gì mình có được một nồi canh mướp thì tuyệt.
Minh cười:
– Xin thôi! Cái gì chớ mướp không khó đâu. Chút nữa, gặp đồng bào mình xin họ cho liền. Họ cũng không ham thứ này. Họ trồng vì thích trồng hơn là cần ăn.
– Còn rẫy của B195 mình sao không trồng mướp như họ, anh?
– Có chớ! Nhưng chưa có trái.
Hiền cười, chen vào:
– Mà sao, kỳ! Chưa bao giờ rẫy mình tốt bằng rẫy của họ. Họ chẳng bỏ phân, tưới nước săn sóc gì hết. Còn mình nào phân hóa học, tưới nước ngày hai ba lần. Rẫy họ cũng không bị thú rừng phá như rẫy mình. Bộ họ có phép gì sao chớ?
– Cũng dám lắm! – Minh nói- Ờ, anh Tư có nghe chuyện một cậu ở C110 bị đứng gốc ớt phơi nắng một ngày không?
Tôi lắc đầu, không hiểu:
– Không!
– Năm ngoái, một cậu ở C110 cũng đi ngang rẫy của đồng bào Bù Cháp phía dưới kia, thấy mấy cây ớt sai oằn, chín đỏ. Cậu ta ngứa tay hái lia lịa. Nhưng xong rồi thì đứng vịn gốc ớt phơi nắng suốt ngày không thèm đi.
Minh cười lớn:
– May là buổi chiều tối có mấy đồng bào Thượng đi rừng về ngang rẫy, thương tình họ thả cho đi không thì hổng biết sự thể ra sao. Một lần tỡn cho tới già!
– Đồng bào Thượng họ thư bùa hả anh Hai?
– Ù! Họ tom bùa, hễ tay nào tham lam thò tay vào hái đồ của họ trồng thì chết đứng ở đó, trừ phi họ mở mới đi được. Nếu không, chịu phép! Vậy chớ chưa độc bằng đồng bào Lý Lịch. Họ thư độc lắm. Ai ăn cắp hoa màu của họ thì bị cùi, sưng phù mình mẩy, rụng từng lóng tay. Phải đem heo tới xin chịu phạt họ mới mở bùa.
Từ trước, tôi vốn nghe nhiều giai thoại về bùa ngãi của đồng bào Thượng nhưng ít khi nào tôi quan tâm đến. Giờ nhớ lại tôi chợt giật mình. Cái chuyện giữa rừng núi hoang vu, không thấy một người thấp thoáng thì hành động hái trái ớt, trái cà, trái mướp, có vẻ bình thường lắm. Người ta dễ bị khung cảnh chung quanh tạo nên ý nghĩ, cái này là của rừng, của thiên nhiên, ai hưởng cũng được. Thêm nữa, giữa lúc đói khát, thèm thuồng thì cái chuyện hái «của rừng» thật dễ xảy ra biết bao nhiêu. Có khi nào người ta nghĩ đó là ăn cắp của người khác?
Có lẽ Hiền cũng nghĩ như tôi, bắt gặp một «đồng điệu» nào đó, Hiền cười hỏi:
– Anh Tư còn thèm mướp nấu canh cá trê nữa hông?
Tôi cũng cười, thật thà:
– Hết rồi! Hết dám thèm nữa rồi!
Qua hết đám rẫy, chúng tôi theo con đường mòn đi vào khoảng rừng thưa, chừng ba phút, gặp ngay môt ngôi nhà sàn nhỏ, mái lợp tranh thấp lè tè dựng bên gốc cây dầu to. Xa xa về phía tay trái ba bốn ngôi nhà khác cùng loại.
Minh cho tôi biết:
– Đây là nhà của vợ chồng Hơ Ring. Mình ghé đây đi! Hơ Ring tử tế lắm. Mấy lần trước tôi đều ghé đây nhờ anh ta dẫn đi thăm đồng bào, đổi chác.
Minh xăm xăm bước lên chiếc thang cây. Trong nhà tối om, vắng hoe. Chắc vợ chồng Hơ Hing ra rừng rồi cũng nên. Nhưng khi khom lưng chui qua mái nhà, tôi thấy góc phía trong sau bếp, dưới ánh sáng lờ mờ, hiện lên một người đàn ông ở trần trùng trục nằm quay mặt, đưa lưng ra. Không khí âm u, rờn rợn lạ. Tôi tưởng chừng như đó là một người chết. Minh bước tới, sàn nhà rung rinh lên:
– Hơ Ring ơi! Hơ Ring! Ngủ say vậy?
Hơ Ring quay người ra, lồm cồm ngồi dậy:
– Ai đó?
– Tôi đây! Hai Minh đây! Tới thăm Hơ Ring.
Tôi và Hiền đứng ngấp nghé ở cầu thang nhìn vào cùng cúi đầu chào anh thanh niên Thượng. Anh ta cũng gật đầu đáp lễ. Dáng anh ta nặng nhọc bơ phờ:
– Ừ! Hơ Ring đau đầu. Ông bà rừng phạt đó.
– May quá. Chị Hiền kia có mang theo thuốc đau đầu cho Hơ Ring kia.
Anh ta lộ vẻ mừng rỡ nhìn Hiền. Hiền cho tay túi áo bà ba móc ra một bọc nylon nhỏ, cột túm những viên thuốc trắng. Hiền loay hoay mở dây thun cột.
Có lẽ thấy trong nhà vừa tối, vừa chật chội, xoay trở khó khăn, cứ phải đứng chết dí một chỗ, Minh bảo:
– Xuống sân cho mát. Xuống sân chị Hiền đưa thuốc cho Hơ Ring uống. Một chút nữa, hết đau đầu liền.
Tất cả đều tuột xuống đất ra sân. Nhờ ánh sáng, bây giờ tôi mới trông rõ mặt anh thanh niên Thượng. Trên trán và hai bên thái dương anh ta bôi thứ gì xanh rờn Hai mắt trắng dã, ngơ ngác. Anh ta cầm hai viên thuốc Aspirine đưa lên miệng nhai nhỏ ngon lành như nhai kẹo. Minh leo lên nhà lấy xuống cho anh ta một ống tre nước
Chúng tôi mãi nhìn Ho Ring không để ý chung quanh. Khi chợt quay lại phía sau lưng thì đã có năm, sáu người đàn bà đứng đó tự bao giờ. Trên tay người nào cũng bồng một đứa nhỏ. Họ yên lặng nhìn chúng tôi như những pho tượng gỗ. Hay thật! Lúc chúng tôi mới đến không thấy bóng dáng ai, gần như chẳng ai thấy, thế mà vài phút họ đến đây một cách bí mật. Minh cười vui đưa hai tay lên:
– Chào «đồng bào»! «Đồng bào» mạnh giỏi!
Họ vẫn làm thinh. Minh nói tiếp:
– Hơ Ring bị đau đầu. «Anh Đội» cho Hơ-Ring uống thuốc. Hơ Ring hết đau đầu bây giờ.
Một người đàn bà chuyển mình bước tới. Rồi tất cả bước theo. Một người nói:
– «Anh Đội» cho «đồng bào» thuốc đau đầu như Hơ Ring!
À, thì ra họ thấy Hơ Ring được cho thuốc, họ cũng đến để xin thuốc.
Họ nhất loạt đưa tay xin thuốc… đau đầu. Minh giải thích theo cái kiểu của Minh:
– Hơ Ring đau đầu. «Đồng bào» không có đau đầu. «Đồng bào» không uống thuốc đau đầu được.
Một người nói:
– Bữa nay «đồng bào» không đau đầu. Mai kia «đồng bào» có đau đầu. Bữa nay «đồng bào» không uống, mai kia «đồng bào» uống.
Cái gì chứ lý luận theo kiểu này thì cứng họng. Nay không đau ngày mai sẽ đau. Minh đành xuôi tay cười trừ. Và Hiền lại tủm tỉm cười, bốc cho mỗi người hai viên thuốc Aspirine.
Người nào cũng vui vẻ hả hê, mời chúng tôi đến nhà chơi. Thành thực mà nói, đi thì tôi muốn lắm nhưng trong lòng thấy sờ sợ, không yên. Thêm nữa, trời đã trưa, trong bụng cồn cào vì đói. Tôi thèm một bữa ăn.
Hơn nửa giờ sau, nhờ công hiệu của thuốc Aspirine, Hơ Ring dường đã hết nhức đầu. Anh ta cho biết vợ anh ta đi rừng, ở nhà còn lại một mình. Dù vậy, anh ta sẽ lo cơm nước mời chúng tôi. Anh ta vui vẻ chạy đi một lúc mang về một con gà.
Cho đến hai giờ chiều thì chuyện cơm nước, đổi chác của chúng tôi hoàn tất với sự giúp đỡ của Hơ Ring. Với chừng 3 kí muối chúng tôi đã đổi được nửa bồng thuốc rẫy, hai con gà giò và một mớ mướp, khoai môn. Đúng là «một thắng lợi vẻ vang».
Về đến nhà vừa vặn đúng buổi ăn chiều. Anh em lục đục kéo xuống nhà ăn. Nhưng tôi chợt thấy Bảy Cảnh ở B2 đến với mấy người khác. Thằng cha khó thương này đi đâu vậy cà?
Tôi nói nhỏ cho Hai Minh biết:
– Bảy Cảnh đến đó, anh Hai!
– Kệ y!
Qua khỏi suối, tôi nhường Hai Minh và Hiền bước lên trước. Bảy Cảnh đứng khoanh tay rế ở trước sân nhà ăn, cười giọng kẻ cả:
– Hai Minh! Cậu kiếm ở đâu ra hai con gà giò ngon vậy?
– Chào anh Bảy! -Minh nói- Anh tới hồi nào vậy anh Bảy?
– Trưa giờ! Chờ cậu hụt hơi.
– Tụi này đi vô buôn Bù Cháp đổi thuốc rẫy với một ít thực phẩm tươi.
– Mấy cậu ở đây an nhàn dữ! Có hay gì chưa?
Minh ra vẻ ngạc nhiên:
– Hay gì? Anh Bảy!
– Tụi nó đột kích, đi càn tới Suối Lớn. Bệnh viện G2 với Quân y tan hoang hết rồi.
– Ủa! Hồi nào vậy? Có ai sao không anh Bảy?
– Hôm kia! Được tin báo là tao dông lên đây. Ghé đằng G3, rồi mới tới đây bữa nay.
Tôi trờ tới, không thể nào không hỏi Bảy Cảnh:
– Chào anh Bảy!
– Ờ, chào anh! Chà! Anh Hùng độ này ra vẻ lao động dữ đa!
Tôi cười không nói. Tôi đang hồi hộp, nóng muốn biết về chuyện bệnh viện G2 bị đột kích. Không biết những gì đã xảy ra? Dù sao, trong những ngày nằm điều trị sốt rét trước kia, tôi cũng quen được nhiều người, có cảm tình với họ, thương mến họ. Anh chị em đó có bề gì thực đáng buồn. Tôi nhớ đến thằng cha Bảy quản lý. Ừ, nếu có chết thì thằng cha đó nên chết hơn để nó sống nó chỉ làm khó chịu mọi người.
Và tôi cũng chợt mỉm cười nghĩ thằng cha Bảy Cảnh này sao để cho y sống sót chạy lên đây nhỉ? Y mà chết đỡ thiên hạ bao nhiêu.
Bữa ăn chiều của B195 không vì chúng tôi mang thực phẩm về mà tạm ngừng. Tiếp tục như thường lệ. Nay không ăn thì mai ăn. Nhưng Bảy Cảnh, Đảng ủy viên cấp trên chúng tôi thì không đồng ý như thế. Khi chúng tôi đồng ý với nhau tạm xếp cái vụ tắm giặt, xách ca muỗng xuống nhà bếp ăn với tập thể thì Bảy Cảnh nhăn mặt:
– Hai Minh! Ăn bay giờ sao cậu?
Minh trả lời một cách tự nhiên:
– Dạ! Ăn chớ anh Bảy! Ăn với tập thể cho vui.
– Bậy! Vui gì? Bò khô đem kho dai nhách, nhai với củ chụp kém hào hứng biết mấy. Làm bớt con gà..
Hai Minh lặng thinh, ở vào cái thế kẹt. Bảy Cảnh tiếp:
– Đãi khách mà!
Vậy là đành đãi khách. Bị bắt buộc phải đãi, không tránh được.
Sau khi tôi và Hai Minh xuống suối tắm giặt xong trở lên nhà, Bảy Cảnh bảo:
– Hai Minh! Tôi với cậu làm việc riêng với nhau một chút coi!
Tôi biết câu nói đó là câu ra lệnh đuổi khéo tôi chỗ khác. Người ta làm việc riêng với nhau thì tôi không có lý do gì được chộn rộn ở đây. Tôi đi xuống bếp. Giờ này bếp vắng hoẹ, chỉ còn một mình chị nuôi loay hoay làm gà, gọt mướp, gọt khoai môn.
Tôi muốn được gặp mấy anh em đi theo Bảy Cảnh để hỏi tin tức về trận đột kích vào bệnh viện G2, Ban Quân Y và các đơn vị khác đóng gần Suối Lớn và rẫy Năm Chất. Không biết những ai còn ai mất. Mấy anh đó, ăn xong lại kéo nhau đi «quạt» chị em ở mấy nhà nữ rồi. Giờ này, tôi men xuống đó, hỏi những chuyện «ngoài đề» thực kể cũng không hợp lý chút nào.
Nghĩ đến «quạt», lúc đầu khi tôi mới đến đây, một tối, tôi nghe một chị em nói:
– Mấy ông nội con nít đó đi ngang qua rẫy thấy có tụi mình, họ nhào vô «quạt» dữ quá!
Tôi ngơ ngác không hiểu. Về hỏi Hai Minh, rõ ra «quạt» là tiếng lóng ám chỉ những cuộc tán tỉnh, dở trò «đấu lý tình cảm» giữa nam và nữ. «Quạt tưa tai» tức quạt đến rách cả lỗ tai thì quả là đến mức ác liệt rồi. Cũng như khi hai con voi đực và cái gặp nhau, cái hành động gây cảm tình, tán tỉnh của chúng bằng cách lấy hai tai kề sát vào nhau phe phẩy, dường như để quạt mát cho nhau.
Tôi ngồi xuống bàn ăn. Hiền cũng vừa đến:
– Ủa! Anh Tư sao anh ngồi một mình ở đây?
– Bị đuổi!
– Anh nói…
– Thực mà! Bảy Cảnh muốn làm việc riêng với anh Hai Minh thì không đuổi tôi đi sao được.
Đột nhiên, Hiền hỏi:
– Anh Tư biết chùa Xá Lợi chớ? Chùa Xá Lợi nào?
Hiền ngồi xuống băng, đối diện với tôi, hất mái tóc ra sau:
– Ở Sàigòn đó!Đường Bà Huyện Thanh Quan, bên hông trường Gia Long đó!
– Biết!
– Đêm 20 tháng 8 rồi, tức là cách nay ba bốn hôm, Trần Lệ Xuân đem xe thiết giáp tới bao vây, xua lính vô phá nát chùa, bắn chết hàng chục sư sãi. Còn cả trăm sư sãi với đồng bào Phật tử đang tuyệt thực phản đối chế độ độc tài của gia đình Diệm Nhu đều bị bắt chở đi hết.
– Sao Hiền biết?
– Mấy anh ở B2 mới nói. Họ nghe radio, đài Hà-nội loan tin…
Tôi cười:
– Nếu BBC loan tin chắc đúng, Chứ đài Hà-nội thêm mắm dậm muối… Đứng về phương diện phản tuyên truyền người ta hay thổi phồng, làm to chuyện bất cứ một sơ hở nhỏ nhặt nào của đối phương.
– Nhưng có người ta mới loan tin chớ!
– Chắc chắn là có rồi. Sự kiện chắc chắn có, mà con số và những chi tiết e không chính xác lắm. Nhưng theo tôi, dù sao cái chuyện đem xe tăng vây chùa, tấn công sư sãi đang tuyệt thực, quả anh em Ngò Đình Diệm hết thời rồi đó. Hiền ạ! Phản ứng thế giới, phản ứng trong nước sẽ quan trọng vô tưởng.
– Anh còn nhớ cái vụ đảo chánh hụt mấy năm trước rồi ném bom xuống dinh Độc Lập chớ? Chắc kỳ này quân đội lại đảo chánh nữa cho coi.
– Có thể lắm! Hôm trước Tết năm nay, lúc tôi ở Sàigòn thì tình hình căng thẳng giữa anh em Diệm và nhân dân nói chung, cũng găng lắm rồi. Nơi nào, đi đâu cũng nghe toàn chuyện chống đối, oán thán hành động càng ngày càng quá quắt của Nhu và Trần Lệ Xuân. Đối với Phật giáo, sự kỳ thị tôn giáo, bất công quá đáng cũng đã gây nên một không khí sôi sùng sục rồi. Bây giờ biết đâu sự kiện mới mẻ này chẳng là thùng dầu đổ vào đống lửa?
– Mấy anh đó nói tình hình Sàigòn lúc này đen tối hổn độn ghê lắm. Trí thức, sinh viên học sinh xuống đường họp với sư sãi biểu tình hàng ngày. Giá lúc này mà mình còn ở Sàigòn chắc là vui lắm.
Tôi không trả lời, Hiền đăm chiêu nhìn ra sân.
Mới ngày nào đây mà tôi đã xa Sàigòn hơn sáu tháng rồi. Sáu tháng với biết là bao nhiêu biến chuyển dồn dập. Không riêng gì cho tôi mà cho cả Sàigòn nữa.
Chợt Hiền hỏi tôi:
– Lâu nay anh Tư có viết thư gởi về nhà không, anh Tư?
Tôi đáp với giọng buồn
– Không, Hiền! Viết thì biết viết gì? Viết được gì? Có viết đi nữa, chắc gì thư đã tới. Thôi, thà không viết còn hơn.
– Em cũng vậy! Xa gia đình một năm rồi, em thấy nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ mấy em vô cùng mà cũng đành nhớ thương thầm, không biết làm sao. Viết thư xong phải đưa kiểm duyệt. Ban Chỉ huy phải viết ngoài phong bì hàng chữ «Đã kiểm duyệt» và ký tên, thư đó mới được xem hợp lệ, giao liên mới chuyển đi. Nếu gửi ở các vùng căn cứ hoặc nông thôn, chuyện mang, xách không đáng kể. Còn gửi về Sàigòn, phiền lắm. Đôi khi vì giấu đút, tránh bị các trạm kiểm soát xét gặp dọc đường người ta có thể vất đi cho rãnh nợ, nếu không, xét gặp, liên lụy đến gia đình. Chưa nói đến việc lòng tự ái bị tổn thương, thư mình bị người ta bôi chỗ này, bỏ chỗ kia để không lộ «bí mật» hoặc «gây ấn tượng không tốt cho cách mạng» v.v… ngay cả «mất lập trường, tư tưởng bi quan».
Hiền cũng nghĩ như tôi. Không viết là tốt nhất.
Khung trời ở đây là khung trời lạ. Nó không chấp nhận những thứ tình cảm gia đình, tình cảm cá nhân, riêng tư. Bởi vì loại tình cảm cá nhân riêng tư, không phải là tình cảm cách mạng, làm suy giảm sức chiến đấu, giũa mòn ý chí đấu tranh. Và nó là động cơ diễn biến tư tưởng.. không an tâm công tác, ngại khó, ngại khổ, ngại hy sinh. Không bước chân đến khung trời này thì thôi, đến rồi thì mọi người, bất cứ ai cũng phải dẹp tình cảm sang bên, không có quyền nghĩ đến nó.
Đảng không chấp nhận. Lý thuyết đấu tranh của Cách mạng không chấp nhận. Ở đây chỉ có Đảng, có tập thể, có công tác cách mạng, chỉ có đấu tranh sắt máu. Nguyên tắc là nguyên tắc bất di bất dịch.
Tôi biết từ lâu rồi, đâu phải đến bây giờ tôi mới biết. Cho nên, cũng lâu rồi, tôi chưa hề mở miệng hé môi nói bất cứ một chuyện tình cảm nào của riêng tôi cho ai nghe dù có nhiều người gợi chuyện hỏi đến. Nói ra chẳng lợi gì hết, chẳng ai thông cảm cho mình hết. Ngược lại nó còn được chuyền tai từ người này sang người khác, sau cùng nó trở thành một dữ kiện cho Ban Chỉ huy, cho Đảng, cho chính trị viên «nhận xét tư tưởng», ghi vào sổ tay và tùy theo sự đánh giá tư tưởng xuyên qua «quan điểm» của cá nhân đó, có thể trở thành một bài học chung cho tập thể trong một buổi học tập, hội họp, kiểm thảo nào đó, hay ít ra nó cũng là những bực mình, phiền muộn, khó khăn.
Dầu rằng tại B195 này, may mắn, Ban Chỉ huy có mỗi một mình Hai Minh. Hai Minh cũng không phải là loại cán bộ «đúc khuôn», được sản xuất trong lò tạo chính thống, theo kiểu những cán bộ khác tôi đã gặp. Ngược lại là đàng khác. Bởi Hai Minh còn nhiều tình cảm, còn biết suy tư. Nói theo lý luận Đảng thì Hai Minh hãy còn «chưa tiến bộ», chưa gột bỏ được tình cảm tiểu tư sản, chưa cởi bỏ được lớp áo tiểu tư sản học sinh. Chính vì vậy mà Minh tham gia kháng chiến từ năm 1945, từ lúc hãy còn là thiếu nhi, năm 1951 được tập kết ra Bắc, được kết nạp vào Đảng, được học tập giáo dục nhiều, Hai Minh vẫn là chuẩn úy của «quân đội nhân dân» miền Bắc, trong khi những người kháng chiến từ 1950, giờ đã là Trung úy. Mặt khác về phía Đảng, Hai Minh là một tổ trưởng Đảng, không hơn không kém, còn bị liệt vào loại đảng viên kém.
Tổ đảng ở đây chỉ có 3 người. Hai nữ một nam.
Nam là Minh, cũng là tổ trưởng. Tâm hồn Minh như vậy, lòng Minh gần như chẳng muốn hoạt động gì, chẳng theo dõi ai, chẳng «xây dựng» giúp đỡ phát triển ai. Minh không biết dùng thủ đoạn chính trị. Minh sống bằng cảm tình, bằng những lời nói thật.
Vậy mà, riêng tôi, từ ngày về đây, tôi vẫn như thế. Tôi vẫn nhẫn nlục, giấu kín những gì thuộc về tôi, cố gắng sống một cách mẫu mực gương mẫu giống y như những cán bộ được Đảng đào tạo trong một lò chính thống. Tôi sợ tâm tình. Tôi sợ những gì thuộc về tình cảm.
Ngay với Hiền, suốt mấy tháng qua, ngay nào cũng làm việc chung với nhau. Ngày nào cũng gặp mặt bàn bạc từ chuyện hướng dẫn anh chị em học tập văn hóa đến chuyện rẫy bái, chuyện tập thể v.v.. nhưng chưa lần nào tôi hỏi Hiền về gia đình, về những kỷ niệm cũ. Tôi biết Hiền mến tôi, nể tôi, có nhiều cảm tình với tôi nữa là đàng khác, nhiều lúc muốn nói chuyện với tôi nhưng tôi cố tránh.
Hiền đẹp, đẹp hơn Duyên ở G2 nhiều. Một cái đẹp kiêu sa quí phái. Bộ quần áo bà ba, công tác lao động, làm rẫy, dang nắng, dạn gió vẫn không sao xóa được cung cách và những đường cong làm rung động bất cứ người con trai nào đối diện với nàng. Nó vẫn toát ra một sức cuốn hút mãnh liệt.
Nhiều lần, tôi đã phải quay mặt đi không dám nhìn Hiền. Không dám nhìn lâu vào đôi mắt đó. Tôi sợ. Tôi trốn chạy một thực thể mà tôi biết mình vốn đang thèm muốn. Tôi cố dửng dưng nhưng lòng tôi cứ phải xao xuyến không ngừng.
Tôi đúng là một con ốc sên thu mình vào vỏ, trốn ngoại cảnh. Trốn chạy một cách tiêu cực, rả rời, chịu đựng để chờ một cơ hội. Nhưng những mâu thuẩn từ bên ngoài đến, mâu thuẩn nội tại chính giữa lòng tôi càng ngày càng lớn, càng dày không để cho tôi yên. Nếp sống gương mẫu đạo đức của tôi chỉ là một hình thức chống đỡ, một đạo đức giả để tạo cơ hội, mong cho cơ hội đến sớm hơn. Bất kỳ ai ở hoàn cảnh của tôi, dù có khôn ngoan đến đâu cũng chỉ làm được thế là cùng.