← Quay lại trang sách

Chương IX (5)

Chị nuôi mang gà, mang khoai môn, mướp, đi xuống suối. Nhà ăn chỉ còn mỗi mình tôi và Hiền. Hai đứa ngồi im lặng trước mặt nhau.

Mãi một lúc Hiền mới lên tiếng:

– Anh Tư! Sao anh lại bỏ học vậy anh Tư?

Tôi hỏi ngược lại Hiền:

– Thế còn Hiền, tại sao Hiền bỏ học vào đây?

– Em hỏi anh trước mà:

– Nhưng Hiền trả lời trước đi!

– Anh ăn gian lắm!

– Tôi thì chẳng có gì lạ lắm đâu. Nếu có lạ chăng là Hiền kia! Hiền xuất thân ở môt gia đình được liệt vào loại đối kháng với giai cấp công nông. Hiền lại học ở một trường Pháp. Trường Marie Curie. Hai Minh nói với tôi như vạy. Đúng không?

Hiền cười buồn:

– Đúng anh! Anh Hai Minh trước đây cũng đã lần hỏi em, động cơ nào thúc đẩy em đi vào cách mạng, tham gia cuôc kháng chiến chống Mỹ Diệm? Em đã trả lời rằng vì em ghét Mỹ, ghét Diệm. Vì em khinh ghét, ghê tởm cái xã hội mục nát, đầy bất công, trái tai gai mắt tại miền Nam mà em đã và đang sống. Em đã trả lời giống y như vậy đối với tất cả mọi người hỏi em trước đây.

– Còn bây giờ?

– Với anh… với anh…

Tôi biết Hiền sợ. Tâm trạng của Hiền là tâm trạng của tôi. Tôi hiểu Hiền lắm. Tôi ngước nhìn Hiền, lắc đầu nhè nhẹ:

– Thôi, Hiền! Vậy đủ rồi. Tôi hiểu!

– Em có người anh thứ hai tham gia kháng chiến chống Pháp, thoát ly gia đình từ năm 1945. Anh Hai tập kết ra Bắc và trở về Nam từ năm 1961. Anh cho người về liên lạc với gia đình. Em theo má em đến thăm anh ở Bình Dương. Anh Hai em kể chuyện em nghe mê lắm, thích thú vô cùng. Em lý tưởng hóa, thần thánh hóa con đường anh Hai em đã đi qua. Cho nên khi anh Hai em rủ em theo Đảng làm Cách mạng, bảo em bỏ học là em bằng lòng ngay. Em bảo để em trở về Sàigòn thu xếp đồ đạc và hỏi ý kiến Ba đã, rồi anh Hai cho người về rước em sau. Tháng tám năm ngoái, anh Hai cho người về Sàigòn rước em lên Đất Cuốc. Anh em hàn huyên với nhau được vài ngày, anh Hai em gởi em cho Hai Cà ở khu A này. Khi anh Hai em đi rồi người ta đưa em về đây.

– Thế anh Hai em giờ ở đâu?

– Ở bên R.

– Sao Hiền không xin anh Hai đi theo về công tác chung có phải hay biết bao nhiêu không?

Hiền rơm rớm nước mắt:

– Anh Hai bảo anh Hai không có quyền. Vào đây đã có Đảng lo. Nơi nào cũng là kháng chiến, nơi nào cũng là tập thể. Tập thể sẽ chăm sóc, thương yêu, giúp đỡ còn hơn anh Hai nữa. Đừng có nặng tình cảm gia đình theo kiểu trẻ con, có như vậy mới tiến bộ. Giờ thì em lớn lên nhiều rồi, em khôn rồi. Thực tế của cuộc đời nó đã dạy cho em khôn. Em không oán gì anh Hai nhưng anh Hai tệ lắm. Anh Hai tưởng em vui sướng lắm, đâu ngờ…

– Hàng tháng anh Hai vẫn viết thư thăm hỏi, khuyến khích an ủi Hiền chứ?

– Trước kia, mỗi tháng đều có thư nhưng nửa năm nay em không viết thư cho anh Hai nữa thì anh Hai chỉ viết cho em hai cái thôi.

– Sao Hiền không viết thư cho anh Hai? Dù sao cũng là ruột thịt, anh Hai thương Hiền…

– Anh có biết tại sao Hiền không viết thư cho anh Hai không?

Mắt Hiền đỏ hoe, nhìn ra khoảng rừng thưa nhạt nắng:

– Lần đó, anh Hai em viết thư mắng em là bướng bỉnh, nặng đầu óc tiểu tư sản xấu xa. Đảng uỷ Khu A cho anh Hai biết như vậy làm anh Hai xấu hổ, bực mình vì có một đứa em không xứng đáng vào cách mạng. Mà em đã lỗi lầm gì chứ? Tình cảm gia đình, tình anh em ruột thịt đâu có còn thân thiết đối vơi anh Hai em nữa. Vậy thì em còn viết thư làm chi? Có bao giờ anh Hai an ủi hay săn sóc cho em đâu. Viết thư là để «đả thông tư tưởng», giáo dục ý thức cách mạng, trách điều này mắng điều kia… Em đi vào cách mạng như vây đó anh Tư!

Giọng Hiền trở nên thiểu não làm sao:

– Có lúc em tưởng mình là cô bé mất mẹ trong tác phẩm của Guy de Maupassant. Mất mẹ, xa mẹ là mất hết nửa phần hồn. Ở đây dường như cô độc mỗi mình em. Ai còn có thể hiểu được mình, giúp đỡ được mình?

Tôi không ngờ được nghe chuyện của Hiền theo chiều hướng đó. Chuyện của tôi buồn. Chuyện của Hiền còn buồn hơn. Tôi là con trai, từng quen đi đây đi đó, từng quen chịu đựng, can đảm chịu đựng với một căn bản hiểu biết tương đối về con đường tôi đã, đang và sẽ đi.

Hiền chỉ là một cô gái tròn mắt ngây thơ, ngơ ngác bước vào đời chính trị, nàng làm sao đủ sức nhìn xuyên qua lớp rực rỡ hào quang của lý tưởng đấu tranh để thấy những vết son nham nhở, những khuôn mặt xấu, những phũ phàng tàn bạo che dấu ở phía sau?

Không chỉ riêng Hiền bị loé mắt bởi hào quang lý tưởng cách mạng vô sản. Cả giới học sinh, sinh viên Sàigòn vô số kể như Hiền. Cho đến cả giới trí thức, những trí thức khoa bảng cao ngạo hơn người còn bị cuốn theo. Huống gì một người con gái nhỏ…

Tôi gọi Hiền nho nhỏ:

– Hiền! Hiền! Can đảm lên chứ, Hiền. Hiền không sống cô độc trong sự phiền muộn đau thương đó đầu. Còn có… tôi. Còn… anh nữa Hiền a. Anh bị người ta bắt buộc, rún ép gia đình, anh phải hy sinh cho gia đình vào đây thì sao? Đâu có gì phải khóc lóc. Đâu có gì muộn màng. Đời mình đâu phải đến đây là hết. Còn nhiều cơ hội, do mình tạo nên… Cầm bằng một chuyến du lịch xa, một chuyến phiêu lưu mạo hiểm, khám phá nhũng mới mẻ mà mình chưa biết. Có gì đáng tuyệt vọng? Bắt chước anh đi. Hãy xem thường mọi chuyện, thản nhiên trước mọi chuyện. Cuộc đời mình, tương lai mình đều do mình phấn đấu. Nó đâu phải ở đây. Nó ở một khung trời khác. Mình nên xem đây là một chuyến nghỉ hè, một cuộc du lịch để mở rộng tầm mắt. Chẳng có gì đáng buồn đâu Hiền ạ. Xem anh nè! Anh có buồn đâu.

Mắt Hiền long lanh, thiết tha nhìn tôi. Tôi thấy lòng mình chao động mạnh, chơi vơi trong đáy mắt của Hiền. Đôi mắt buồn và đẹp làm sao. Tôi cúi đầu xuống, trốn chạy một cách bối rối.

Hiền vừa lau nước mắt vừa cười:

– Em nghe anh. Em không buồn nữa. Lâu nay, em thấy anh là lạ, em sợ quá Anh không ghét em chứ?

– Không! Anh đâu có ghét Hiền. Anh chỉ sợ… bị Hiền ăn hiếp!

Hiền đánh nhẹ vào tay tôi, trách móc:

– Anh nói! Anh ăn hiếp em thì có.

– Ở Sàigòn, nhà Hiền ở đâu?

– Công Lý! Còn anh?

– Cũng Công Lý.

– Anh ra đi, ngoài gia đình, anh có còn để… thương để nhớ, để sầu cho… ai nữa không, anh Tư?

– Không! Làm gì còn có ai nữa, Hiền?

– Em hổng tin anh đâu.

– Thiệt mà!

– Ai chứ mấy ông sinh viên thì khó tin lắm.

Tôi phì cười:

– Đúng là Tào Tháo! Nếu có, việc gì anh lại chối!

– Ai biết! Anh hổng có thiệt hén? Chắc hén?

– Ừ! Chắc trăm phần trăm! Anh đâu phải loại ưa nói láo, Hiền?

– Em tin! Vậy anh nói chuyện cho em nghe đi!

– Chuyện gì?

– Chuyện của anh! Về anh!

– Anh thì biết bao nhiêu chuyện. Nếu Hiền muốn nghe, lần lần anh kể cho nghe. Đâu thể trong vòng năm mười phút, một hai giờ là xong được. Cho anh nợ lại di. Chị nuôi dưới suối lên kìa! Chỗ này đâu phải là chỗ mình có thể nói chuyện riêng tư.

Hiền đứng dậy:

– Em cho anh nợ đó. Giờ em đến phụ với chị nuôi một chút. Chắc anh đã đói meo ra rồi.

Hiền vui vẻ bước đi.

Vì chờ Hai Minh và Bảy Cảhh làm việc riêng với nhau nên đến bảy giờ rưỡi tối mới ăn xong bữa cơm chiều. Không biết hai người làm việc với nhau thế nào, cũng như Hai Minh báo cáo với Bảy Cảnh ra sao, mà thái độ của Bảy Cảnh đối với tôi thay đổi hẳn. Trước kia, Bảy Cảnh, hằn học, gay gắt, khó thương với tôi bao nhiêu, bây giờ thân mật, vui vẻ bấy nhiêu.

Ăn xong, lên nhà ngồi uống nước «sâm rừng» của Hai Minh, Bảy Cảnh gọi tôi:

– Tư Hùng nè!

Tôi hết sức ngạc nhiên, không ngờ y dùng hai tiếng đó. Lý ra, tôi tên Hùng, thứ tư, y gọi Tư Hùng chỉ là chuyện thông thường, không gì lạ. Nhưng tập quán sinh hoạt ở chiến khu, đâu phải người nào cũng được gọi thứ kèm với tên. Người ta chỉ gọi thứ khi nào có tình cảm có sự nể nang thân mật, chấp nhận một «tư thế nhập cuộc» ngang hàng, không phân biệt, không ác cảm. Nhất là kẻ có địa vị, cấp chỉ huy gọi người dưới, gọi luôn thứ với tên bao giờ cũng có sự cân nhắc, tính toán, đâu phải vô tình gọi cho vui. Huống hồ giữa Bảy Cảnh và tôi vốn đã có một ác cảm, một thành kiến không dung được nhau từ ngày dưới đồng bằng tôi về đến B2. Nó được thể hiện qua tình cảm đấu tranh giai cấp mà.

Nhưng, Bảy Cảnh bây giờ đã gọi tôi bằng hai tiếng Tư Hùng, rõ ràng là tình cảm và thái độ của y đối với tôi đã chuyển hướng. Tôi biết sự chuyển hướng đó do những báo cáo miệng của Hai Minh về quá trình công tác, sinh hoạt, tư tưởng của tôi trong những ngày công tác ở đây. Quả tình thế có nhiều thuận lợi cho tôi rồi đó.

Bảy Cảnh tiếp:

– Được nghe Hai Minh báo cáo về quá trình công tác cũng như sự tiến bộ của anh ở đây, tôi có lời khen anh. Chuyến này về U.5O, tôi sẽ báo cáo lại với Đảng ủy sự tiến bộ đó.

Bảy Cảnh cười lớn, vui vẻ:

– Tư Hùng nè! Nói thiệt với anh, tôi không ngờ anh có thể tiến bộ được vậy. Bây giờ anh thành nông dân rồi. Anh thấy công tác lao động tốt chứ? Có lao động thật lực mình mới hiểu giá trị của lao động. Nó thay đổi tác phong, nó cải tạo được tư tưởng để đến gần Đảng hơn, phục vụ đắc lực cho Đảng và cho giai cấp. Nói thiệt anh đừng giận, nông dân tụi tôi có cái nhược điểm là có thành kiến giai cấp, nhưng cũng nhờ có thành kiến giai cấp mới có đấu tranh. Tôi cũng mừng cho anh, nhờ Đảng anh được tiến bộ…

Tôi cũng cười. Nhưng Bảy Cảnh làm sao hiểu được ý nghĩa của cái cười đó. Nhờ Đảng tôi tiến bộ ư? Đảng là cái gì nhỉ? Y làm sao biết được rằng tôi làm việc không ngừng. Không nghỉ trưa. Khi thì dạy anh chị em học văn hóa, khi thì ra rẫy làm việc cực nhọc với mọi người, chỉ vì tôi muốn làm việc để quên, để đủ kiên nhẫn sống, chờ cơ hội sổ lồng, chấp nhận mọi thách thức trước đây của y. Nói cách khác, tôi đã đóng một vai kịch mà tôi diễn xuất nhiệt thành để cho y và những người khác bị lừa, ngỡ tôi thuần thành, tiến bộ, sẵn lòng nâng đỡ tôi, giúp cho tôi phương tiện sớm rời khỏi khung trời tai ác này.

Tôi càng ép xác, càng tích cực công tác thì mấy người càng dễ bị đánh lừa, thế thôi, Bảy Cảnh ạ! Trong lòng tôi, tôi có cần biết điều gì khác hơn đâu. Tôi sẽ còn dạy Hiền làm như tôi đã làm, nghĩ như tôi đã nghĩ nữa đấy.

Tôi nói với Bảy Cảnh:

– Cảm ơn anh! Anh khen làm tôi ngượng. Tôi chẳng đóng góp được gì nhiều… nếu có làm được gì cũng là nhờ tập thể đó thôi.

– Sao lại cảm ơn tôi, Tư Hùng! Bậy nè! Ừ! Vấn đề học văn hóa cho anh chị em B195, tài liệu mình ở đây quả thiếu thốn, không có thật. Anh với đồng chí Hiền chịu khó soạn ra, hoan nghinh lắm. Nhưng anh cho tôi mượn «giáo án» mà anh đã soạn cho tôi xem thử coi.

Tôi ngơ ngẩn không hiểu:

– Giáo án là gì anh Bảy? Tôi không hiểu.

– Ồ! Đó là danh từ thường dùng ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Giáo án tức là bài của thầy giáo soạn để dạy học trò. Ở tiểu học, trung học, đại học cho cả đến mọi lãnh vực khác ngoài lãnh vực văn hóa, như chính trị, quân sự, kinh tế v,v.., hễ có bài vở là có giáo án. Những giáo án đó anh còn giữ chớ?

Thì ra giáo án là những bài soạn để dạy. Tôi gật đầu:

– Dạ còn! Anh Bảy!

– Nếu vậy sáng mai anh cho tôi mượn. Không chừng tôi ở tới trưa mai «tham quan» mấy lớp học bổ túc văn hóa của anh cho biết. Tôi không nói chắc anh cũng rõ là phương pháp giáo dục tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa ta khác hẳn với phương pháp nhồi sọ của bọn đế quốc tư bản. Rồi quan niệm giáo dục Mác Xít hoàn toàn trái ngược với quan niệm giáo dục tư bản. Đối với ta, quan trọng nhứt là vấn đề tư tưởng, đường lối. Tư tưởng của ta là tư tưởng công nông, đường lối ta là đường lối vô sản, nó phải dứt khoát, rõ ràng thể hiện đường lối giai cấp, đường lối giáo dục dân tộc. Trí thức của chúng ta là trí thức công nông, văn hóa của ta phải «sắc như lá lúa, thiết thực như củ khoai». Nói nôm na, nó phải đi đúng đường lối lãnh đạo của Đảng. Anh hiểu được tôi nói gì chứ? Anh nắm được vấn đề chứ?

Không phải đến bây giờ tôi mới biết rõ vấn đề dạy văn hóa cho anh chị em B195 là rắc rối. Tôi biết ngay từ khi bắt tay vào việc. Tôi đã xác định với Hai Minh và Hai Minh chẳng đã phải khuyến khích cổ võ tôi đó sao?

Vấn đề giáo dục văn hóa trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945 – 195l) lúc còn ở Miền Tây tôi phải nghe không biết bao nhiều lần thuyết trình của những Lê Đức Thọ, Hà Huy Giáp, Lưu Quý Kỳ xuyên qua các buổi học tập chính trị hàng tuần, dành riêng cho tất cả cán bộ, nhân viên của các cơ quan cấp Nam Bộ và Trung Ương Cục Miền Nam, đóng ở U Minh Hạ. Rồi trong những cuộc hội nghị có tánh cách chuyên đề về văn hóa, giáo dục, tuyên truyền của Trung Ương Cục và Sở Tuyên Văn Nam Bộ tổ chức. Nhất là trong lần Trung Ương Cục quyết định đóng cửa các trường trung học kháng chiến «Nguyễn văn Tố», «Thái văn Lung», «Huỳnh Phan Hộ» vào tháng 10 năm 1950 vì các trường đó bị kết án mất lập trường giai cấp, đường lối giáo dục sặc mùi tư bản, đế quốc, trái với đường lối chính sách Đảng. Những phiền toái rắc rối, mắc míu của vấn đề giáo dục, vì vậy tôi không hiểu rõ sao được.

Nhưng tôi trình bày, thảo luận với Bảy Cảnh ở đây, vấn đề này với hiểu biết mà trước đây người ta truyền đạt cho tôi liệu ích gì? Bảy Cảnh có thể biết gì, hiểu gì về văn hóa, về giáo dục ngoài chuyện giở nguyên tắc Đảng, đường lối đấu tranh giai cấp của Đảng. Phiền! Phiền! Phiền lắm và cũng nhức đầu lắm.

Thôi thì, cứ vờ ngốc, mặc cho Bảy Cảnh lên lớp thao thao bất tuyệt cho sướng miệng y.

– Dạ hiểu anh Bảy! Xin anh cứ nói, tôi xin nghe.

– Thôi, để mai! Sau khi đọc qua các giáo án và tham quan lớp học, tôi sẽ góp ý kiến có chỉ thị cho anh sau. Mặt khác, để chuyến này về B2 tôi lục lại xem có quyển sách hoặc tài liệu gì anh cần tôi gởi lên cho. Ờ! Lâu nay anh đỡ sốt chớ?

– Dạ, cũng đỡ! Sốt đối với tôi giờ như chai lì rồi. Sốt thì nằm xuống uống thuốc. Hết sốt bò dậy làm việc với anh chị em. Nó thấy tôi lì quá nó đâm ra sợ.

– Lâu nay anh có viết thư về gia đình hay có được tin tức gia đình không?

Tôi lắc đầu:

– Dạ, không!

– Tôi thấy viết thư về Sàigòn thì hơi khó. Nhưng nếu anh muốn chúng tôi sẽ có cách giúp đỡ anh.. An toàn lắm. Bảo đảm lắm. Anh đừng ngại…

– Cảm ơn anh…

– Có gì mà cảm ơn. Anh xem đó là công tác cách mạng. Đảng luôn luôn chiếu cố chăm sóc đến cán bộ. Chính sách của Đảng rõ ràng như vậy. Anh viết thư thì chúng tôi giao cho những anh chị em trong cơ sở thu mua, khi đến Sàigòn mua hàng sẽ mang đến tận nhà cho anh. Anh đừng ngại.

Tôi lại cười, lắc đầu cảm ơn Bảy Cảnh lần nữa. Thực ra viết thư cho gia đình biết tin mình vẫn mạnh cần thiết lắm chứ, tôi muốn lắm chứ. Hôm nay Bảy Cảnh tốt với tôi, chăm sóc đến tôi. Không hiểu ngoài lý do tôi «ngoan đảng» biết phục tùng, tích cực công tác, xung phong gương mẫu ra còn có một ẩn ý, một thủ đoạn dò xét nào khác?

Người ta thường định nghĩa chính trị là thủ đoạn, là lật lọng, vô lương. Thương đó ghét đó, hoan hô đó cũng giết liền ngay đó v…v… nghĩa là muôn mặt, tráo trở liền tay như cái bánh phồng. Bảy Cảnh là cán bộ chính trị lại là Đảng ủy viên Khu A. Con người y, tánh tình y tôi còn lạ gì. Tôi làm sao còn có thể tin y. Và nguyên tắc tôi đã đặt ra cho mình là «Không tin ai cả, không tin gì cả» phải là nguyên tắc bất di bất dịch. Có vậy tôi mới thoát được vô số cạm bẫy người ta chăng ra trên đường tôi đi.

Biết đâu những lời lẽ trong thư tôi viết cho gia đình chẳng là một sự kiện cụ thể để người ta thẩm sát, đo lường tư tưởng, lập trường tôi. Không viết là tốt nhất.

Tôi còn đang suy nghĩ vẩn vơ, Bảy Cảnh tiếp:

– Anh Tư Hùng nè, ở gia đình, hai bác chắc đã già dữ rồi chứ?

– Dạ, ba má tôi tuổi đã ngoài bảy mươi.

– Chà, tội nghiệp ông bà già! Anh đi hai bác nhớ biết bao nhiêu. Nhớ thương nhưng cũng hãnh diện xóm làng. Mà còn em anh ở gần cũng đỡ. Hình như anh còn một cô em gái và một cậu em trai?

– Dạ!

– Ờ! Sao lúc anh đi không đưa hai em anh cùng vào cách mạng một thể? Sàigòn, cái xã hội đó chỉ làm hư hỏng con người thêm ra.

Găng đây! Y đã bắt đầu «thử lửa», giở trò mới «truy» tôi đây.

Tôi chậm chạp trả lời, lựa từng chữ cho thích hợp với «không khí chính trị»:

– Hai đứa nó đòi đi theo tôi đó, anh Bảy ạ. Nhưng tôi thấy cùng đi một lúc như vậy thật bất tiện. Phần thì địch sẽ phát giác ra rồi làm khổ ông già bà già. Phần thì tôi chưa được biết ý kiến của tổ chức việc đưa tôi đi ra sao nên tôi bảo chúng thủng thẳng tính sau.

– Còn tính sau gì nữa! Cách mạng, Đảng bao giờ cũng cần sự tham gia đông đảo của quần chúng, luôn luôn hoan hô đón tiếp một cách nhiệt thành. Anh bậy quá! Nhân dịp này anh viết thư về gia đình đi! Tôi sẽ gởi cho. Anh nhớ viết mấy câu cho hai em của anh… À! thế này! Nếu anh muốn…

Bảy Cảnh nhổm người dậy, chồm tới trước, mắt sáng rỡ:

– Nếu anh muốn, tôi về báo cáo với Đảng ủy, cho người đến liên lạc với hai em của anh. Rước hai anh chị đó vào đây một thể. Chà! Ba anh em đều công tác Khu A, gần nhau vui biết mấy. Anh đồng ý với ý kiến đó chớ?

Tôi cười. Đồng ý thế chó nào được. Và có lẽ đây cũng là một dịp may bất chợt «bắt nọn» tư tưởng, lập trường của tôi đối với Đảng. Tôi trả lời y như thật:

– Dạ, đồng ý quá chứ anh Bảy! Anh biết chắc là tôi đưa cả hai tay hai chân.

– Vậy mai anh viết thư đi. Tôi cố gắng thu xếp lẹ lẹ dùm cho.

– Nhưng..

– Hổng có nhưng gì hết! Mình phải biết tranh thủ…

– Nhưng lúc tôi đi, tôi có giới thiệu các em tôi với Bảy Tân ở B39, nhờ Bảy Tân thu xếp đưa ra chiến khu hoặc giới thiệu công tác hợp pháp với các cơ sở nội thành. Bây giờ, sáu tháng nay chắc gì chúng nó còn ở nhà? Nếu còn đi nữa, chúng nó cũng thuộc về tổ chức nào đó. Muốn gì, cũng phải có ý kiến quyết định của địa phương phải không anh Bảy!

– Ờ! Ờ!….

Mặt Bảy Cảnh thộn ra. Tôi đọc thấy trên đôi mắt đó một cái gì ngỡ ngàng, tiếc rẻ, cụt hứng nửa chừng. Điều tôi nói có lý quá mà! Đúng nguyên tắc tổ chức quá mà! Còn mở miệng vào đâu?

Đối với bất kỳ cán bộ chiến sĩ nào khi đã vào chiến khu, ngoài công tác thường ngày của mình, còn phải có bổn phận tuyên truyền lôi kéo, giáo dục gia đình mình, thân nhân mình, đồng bào địa phương mình gặp, ủng hộ Đảng, ủng hộ cách mạng chống Mỹ Diệm. Đó là nguyên tắc. Nhất là đối với gia đình thân nhân ở vùng Quốc Gia kiểm soát, ngoài việc tuyên truyền giáo dục còn có tiết mục móc nối đưa thân nhân vào chiến khu. Cấp Ủy đảng của đơn vị phải theo dõi, đôn đốc thực hiện công tác đó. Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng, hoặc những lý do trở ngại chính đáng như đường xa, liên lạc khó khăn v.v…

Cá nhân nào trong điều kiện có thể được mà từ chối nhiệm vụ trên có nghĩa là thiếu trung thành với Đảng, đáng nghi ngờ, cần phải xét lại, điều tra nghiên cứu lại, có những biện pháp đối phó thích ứng. Trường hợp tôi cũng vậy. Ngoài việc thi hành nguyên tắc tổ chức dựa vào chuyện trên, Bảy Cảnh còn đo lường đánh giá, nhận xét thêm về lòng trung thành với «Cách mạng miền Nam» của tôi ra sao. Nó sẽ quyết định phần lớn «tương lai chính trị» của tôi, ít ra trong lúc này.

Tôi đã láo một cách hợp lý. Tôi thoát được lưới rập người ta chăng ra một cách nhẹ nhàng. Khổ một mình tôi chưa đủ sao còn kéo hai em tôi lao vào nữa chứ?