Chương X (2)
Minh không nói gì, đưa tay rót nước thêm vào cốc, trầm ngâm ngồi nhìn hơi khói nhẹ bay lên. Tôi cảm ơn Minh hết sức. Quả tình Minh đã vì cảm tình cá nhân, bỏ nguyên tắc tổ chức. Nếu Đảng Uỷ U.50 biết rõ hành động cố tình làm lơ nguyên tắc, che chở cho tôi và Hiền, Minh tất không làm sao tránh khỏi một cuộc kiểm thảo nặng nề, bị cảnh cáo dễ như chơi. Sau đó áp dụng kỷ luật Đảng. Không hiểu Minh còn chịu đựng những gì khác nữa…
Riêng tôi và Hiền, hai đứa trong tư thế chấp nhận và sẵn sàng chịu đựng mọi phản ứng xấu nhất mà Đảng uỷ Khu A, cụ thể là B2 sẽ dành cho mình.
Cái chuyện cảnh cáo ghi lý lịch tất nhiên rồi. Nhưng đối với chúng tôi có nghĩa gì khi mà mình không chấp nhận cái chính quyền hiện hữu là của mình. Cho đến những biện pháp như thuyên chuyển, cách ly hai đứa ra hai nơi, cấm thư từ liên lạc, cấm gặp nhau, tổ chức kiểm thảo, dùng mọi hình thức lăng nhục danh dự làm cho chúng tôi đau đớn về tinh thần v.v…
Dù sao, đối với tôi, tự ái và tự trọng của một người có học thức không cho phép tôi có thể dửng dưng, khinh thường được. Mặt khác, nó có tầm quan trọng đặc biệt, xóa bỏ những dịp thuận tiện, những thời cơ tốt mà tôi kiên nhẫn đợi chờ bấy lâu nay. Chính vì vậy, tôi rất cần đến sự giúp đỡ của Minh, sự thương mến chở che, cứu vớt được phần xấu nào hay phần ấy.
Có thể là tôi đã lợi dụng Minh, nhưng biết sao giờ? Tôi thương Minh nhưng tôi thương tôi hơn. Tôi thương Hiền hơn. Mâu thuẫn đó còn biết giải quyết bằng cách nào để không ai bị thiệt thòi? Thôi thì đành, Minh nhé! Trong cuộc đời, cao đẹp nhất là nghĩa cử hy sinh. Mình đâu phải sống cho mỗi một mình mình mà sống cho mọi người xung quanh, cho gia đình, cho bạn bè, xã hội, cho Tổ quốc và nhân loại. Hành động của Minh là một sự hy sinh rồi. Tôi cúi đầu kính trọng Minh với sự biết ơn, mong có ngày đền đáp. Minh ạ, tôi đâu dám lợi dụng tình anh, nhưng hoàn cảnh nó thế… tôi biết xấu hổ, tôi biết khinh, biết ghét mà!
Cho đến lúc leo lên võng nằm ngủ, tôi nằm trằn trọc mãi không sao chợp mắt được. Tôi nghĩ nhiều về Minh, áy náy không yên.
Rồi Hiền nữa. Sự liều lĩnh và táo bạo của Hiền. Vẫn biết đó là một cách hiệu nghiệm để thoát ly ra khỏi thế giới tủi cực, đau buồn này nhưng áp dụng phương cách đó thực không thường chút nào.
Trong đời người con gái, hôn nhân vô cùng trọng hệ, nếu dang dở một lần, ảnh hưởng nó sẽ mang lại biết bao nhiêu là cơ cực buồn đau. Trường hợp của nàng, dẫu rằng yêu đúng chỗ, chọn đúng người mà mình yêu nhưng nàng đâu có quyền yêu, quyền lấy, đâu có quyền bảo vệ tình yêu đó cho kỳ được, đâu có thực hiện được quyền tự do của mình. Tất cả thuộc về tổ chức, thuộc về Đảng uỷ Khu A. Trên phương diện tinh thần, lý thuyết, tất cả mọi sự ngăn cấm, mọi lời chỉ trích đều vô nghĩa nhưng thực tế nhất định không thể là vô nghĩa. Trong hoàn cảnh hiện tại nó là một sự liều mạng, thí thân.
Lúc chiều, khi hai đứa còn ngoài rẫy, tôi lập lại một lần nữa cho nàng biết rằng, bất trắc vẫn có thể xảy đến như Hiền có thai, sinh đẻ chỉ đơn độc mỗi một mình, không có tôi bên cạnh để chăm sóc, an ủi và rồi Hiền cũng không được phép liên lạc gia đình, không có cách nào vượt qua được bên kia bờ sông Bé chứ đừng nói đến đồng bằng nữa. Hoặc giả ý muốn được có thai của nàng không thành hoặc vì bệnh hoạn hay tai nạn gì đó, tôi có thể chết lắm, liệu chừng đó đời Hiền ra sao?
Hiền vẫn một mực chối phăng:
– Em chỉ quan tâm có mỗi một điều là anh có yêu em không? Thực tình sống chết có nhau hay không? Em có là vợ của anh mãi mãi hay không? Vậy thôi! Ngoài ra em chẳng cần quan tâm gì hết. Em đã quyết tâm rồi! Bằng mọi cách, em không thể đánh mất tự do và đánh mất anh. Không đạt được điều đó, em chết. Bất quá em như cành hoa chuối nước ngoài suối. Hôm trước nở, hôm sau tàn. Nở không ai biết. Tàn không ai hay. Có nghĩa gì đâu anh!
Trời ơi! Người ta yêu sao người ta sung sướng thế! Quên mất cả thời gian, quên mất cả loài người.
Không còn biết gì đến hiện tại và tương lai. Người ta chắp cánh bay bổng lên chín từng trời hoan lạc, chìm trong thiên đường của ân ái và chỉ biết có hai kẻ đang yêu. Còn tôi, tôi cũng thèm yêu, khao khát yêu và được yêu, tôi cũng biết rung cảm, mơ đến những phút giây ái ân tuyệt trần với làn môi ngọt, với mùi da thịt đam mê, tại sao tôi cứ bứt rứt không yên, khốn khổ thế này? Thà không tim, không óc, không biết suy tư như con chó hoang ngoài lộ có phải sướng hơn không?
Yêu Hiền? Tôi yêu nàng lắm. Thèm nàng, tôi thèm lắm. Vậy mà tình yêu đến với tôi như một thống khổ, một sự dằn vặt không ngừng. Yêu, ai còn bảo là thiên đường hạnh phúc? Hiền ơi, em có biết thế không?
Nằm mãi không ngủ được, sực nhớ đến hai viên thuốc sốt rét Paludrine 0,10 Ngân đưa hồi chiều, chưa uống để ở góc bàn, tôi ngồi dậy, bật lửa đốt đèn, đi uống thuốc.
Bữa ăn sáng xong, mọi người lục tục kéo nhau ra rẫy. Trời mưa, ướt lá, ướt rừng không đốt rẫy mới được thì lại ra rẫy cũ xới đất làm cỏ, đốn cây, sửa lại lớp rào ngăn thú rừng vào phá.
Như thường lệ, công việc buổi sáng của tôi là ở nhà soạn bài dạy văn hoá cho anh em trong đơn vị. Hiền cũng vậy. Nhưng hôm nay nhằm phiên trực nhật, làm thêm nhiệm vụ chị nuôi, nấu ăn, giờ này chắc còn đang lu bu dọn dẹp dưới bếp.
Tôi nằm trên võng một mình, nhìn chếch ra ngọn cây rừng. Ở rừng, sau một ngày mưa, sáng dậy bao giờ sương mù cũng dày hơn hôm qua. Sáng hôm nay yên tĩnh quá, vắng quá. Tiếng vượn hú xa xa, tiếng chim hồng hoàng «Khục Khoặc» trên ngọn dầu, không thấy đâu. Có lẽ sáng nay sương mù nhiều, chúng cũng chả buồn thức sớm ra khỏi tổ.
Nghe tiếng chân đi nhẹ trước sân. Tôi không cần nhìn ra cũng biết đó là Hiền. Vừa bước lên thềm, Hiền đã hỏi:
– Sáng nay anh khỏe không anh?
– Khoẻ như thường. -Tôi quay đầu cười trả lời với Hiền- Anh nói sốt rét đối với anh nhàm quá, không đáng kể nữa!
– Xí! Anh nói! Chết như chơi. Anh lơ là với nó có ngày nguy. Em hổng chịu đâu. Sáng nay anh uống thuốc chưa?
– Rồi!
– Ngân nó cho anh uống thuốc gì đó?
– Mình ở đây ngoài Paludrine ra còn có gì khác đâu?
– Có chứ! Có Chloroquine! Mà thứ đó độc lắm. Ngân mà cho anh uống Chloroquine em bẻ răng nó liền. Sao em ghét Chloroquine quá không biết!
Hiền bước tới kéo mí võng nilon ra, ngồi gọn vào lòng tôi. Dây dù cột võng căng thẳng, chuyển răng rắc. Nàng đưa tay rờ trán tôi:
– Trán anh mát như thường.
– Thì anh nói sốt rét chả ăn nhằm gì mà!
– Nữa! Kỳ hông!
– Vậy chớ hổng phải sao?
– Thôi đi, cho em nằm với!
– Cái võng nylon nhỏ thế này, hai đứa nằm sao được. Lọt dưới đất hết hai đứa cho coi.
Hiền cười khúc khích:
– Càng vui chớ sao!
Vậy là 2 đứa nằm gọn trong lòng võng chật cứng.
Tôi cười:
– Mình như vầy, có ai thấy mắc cỡ chết.
– Đi hết rồi! Thiên hạ đi hết rồi em mới lên đây. Đêm hồi hôm anh ngủ có ngon không?
– Không!
– Sao vậy? Nhớ em hả?
– Ừ!
– Hình như anh nói chuyện tụi mình cho anh Hai Minh biết rồi, phải không?
– Nói hồi tối hôm qua.
– Hèn chi, sáng nay xuống bếp, ảnh cứ nhìn em cười chúm chím hoài. Em hỏi ảnh cười gì, ảnh nói em đừng làm bộ giả mù sa mưa. Anh nói cho ảnh biết, ảnh có nói gì hông?
– Ảnh sẽ thông báo cho tập thể biết.
– Trời đất! Ảnh báo cáo cho B2 biết thì lôi thôi cho tụi mình!
– Không! Ảnh hổng có báo cáo cho B2 biết đâu.
– Sao anh biết!
– Ảnh nói.
– Còn thông báo cho tập thể biết thì thông báo như thế nào?
– Thì nói tụi mình đang tìm hiểu nhau để tiến tới xây dựng hôn nhân. Thời gian này chỉ là thời gian tìm hiểu. Sau đó nếu thấy hợp và quyết tâm lấy nhau, sẽ làm đơn xin phép Đảng uỷ.
Hiền cười lớn:
– Còn hợp với không hợp. Mình nói như vậy ai mà tin cho được. Thà cứ nói thẳng là tụi mình yêu nhau hổng được sao? Úp úp mở mở chi vậy?
– Đó là kế hoãn binh đó. Nếu B2 biết được chuyện tụi mình thì còn có đường tránh né, bào chữa cho mình cũng như cho anh Hai Minh.
– Nếu vậy sao không làm đơn xin phép làm lễ tuyên bố phứt cho rồi. Đường đường chính chính phải hay hơn không?
– Ai cho phép mình lấy nhau? Họ cách ly liền tức khắc thì có. Anh thuộc thành phần tiểu tư sản trí thức nè. Em thuộc thành phần tiểu tư sản học sinh. Thành phần của mình có được chấp thuận, ít ra cũng mất cả năm điều tra, nghiên cứu đủ thứ về công tác, về tư tưởng, về gia đình vân vân. Trong thời gian đó, họ sợ mình ăn ở với nhau có thai, đặt họ trước một tình trạng đã rồi, phải giải quyết, họ bắt buộc phải có biện pháp đối phó.
Hiền xì một tiếng:
– Xì! Tết Congo họ mới cản được mình. Chuyện riêng tư của mình, hạnh phúc của mình, họ hổng có quyền gì hết. Mình yêu nhau, thương nhau, đâu cần họ chấp nhận, cho phép mình mới là vợ chồng. Họ cho mình cũng là vợ chồng. Họ không cho mình cũng là vợ chồng. Mình mà về Sài Gòn rồi, giỏi thì họ theo cấm với không cấm đi. Quái hết sức. Vậy mà họ đề cao tự do luyến ái, nghe sao được.
– Từ do luyến ái là một việc. Còn đứng về phương diện tổ chức, chấp nhận là một việc khác. Họ có cái lý của họ. Có nguyên tắc, luật lệ của họ, mình phản đối để mà bị đứt đầu à?
Hiền nghếch đầu lên vai tôi:
– Rồi anh tính sao bây giờ?
– Tính gì?
– Anh kỳ hông! Tính chuyện tụi mình chứ tính gì!
– Mình đâu có tính gì được. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Bất kỳ lúc nào, ở đâu em cũng không được quên điều đó. Phải bình tĩnh, khôn khéo, kiên nhẫn. Phải biết chịu nhục, phải biết lòn trôn giữa chợ như Hàn Tín chớ em! Ngay thẳng, trực tính là một đức tính tốt nhưng không phải lúc nào dùng cũng tốt. Em hiểu chứ? Hiền!
– Dạ!
Tiếng dạ chứa đựng nhiều dỗi hờn.
– Em có nghe anh không?
– Anh là chồng em mà. Em đâu dám cãi anh.
– Vậy đủ rồi em. Mình cứ giữ nếp sống như bình thường. Trước mặt mọi người, trước sau gì vẫn vậy. Chỉ trừ khi nào có riêng hai đứa thì sao cũng được. Mình phải biết tuỳ thời. Miễn rằng giữa lòng mình… Kể từ hôm qua, hai đứa mình đã có trách nhiệm mới, ý nghĩa mới. Vậy là đủ. Mình sống với nhau cả đời đâu phải chỉ trong một giờ, một ngày, hoặc một năm. Chừng nào vợ chồng mình về đến Sài Gòn, chừng đó tha hồ. Em muốn gì anh cũng chiều em hết. Còn bây giờ, mọi việc để anh lo. Em phải tuyệt đối nghe theo, Hiền!
– Dạ!
Hiền không trả lời chỉ lắc đầu.
Sương mù tan dần. Sau cơn mưa lá rừng xanh mướt. Tôi giữ Hiền chặt trong vòng tay, đền nàng bằng một chiếc hôn dài. Và tôi đỡ nàng ngồi dậy:
– Thôi dậy em? Có anh chị em nào thấy họ cười chết!
Hiền ngồi dậy, hất mái tóc ra sau, chân buông thõng xuống đất, ngồi song song với tôi, nét phụng phịu không còn nữa:
– Chắc thế nào tối nay anh Hai Minh cũng cho họp toàn đơn vị.
– Chắc vậy.
– Ảnh mà tuyên bố chuyện tụi mình, bàn dân thiên hạ ngã ngửa ra. Đâu ai có ngờ.
Tôi tò mò hỏi:
– Lâu nay chị em họ có nói gì anh không?
Hiền cười:
– Họ nói anh là ông cụ non. Con người khô khan như đất ruộng mùa nắng. Dòm cái mặt thấy phát ghét.
– Chắc không?
– Chắc chớ sao hổng chắc?
Nói xong Hiền ngoẹo đầu ra cười:
– Nói vậy chớ hổng có đâu anh! Chị em họ chỉ nói anh nghiêm thôi và tội nghiệp anh, hồi nào tới giờ ở nhà sung sướng, không làm động tới cái móng tay bây giờ theo cách mạng, chịu gian khổ, đói khát, lao động, chẳng bao giờ nghe anh than hay tỏ ra chán nản. Họ nói anh mà ở Sài Gòn thì lên xe xuống ngựa, làm việc lương tháng mấy chục ngàn, sướng một cây. Dám từ bỏ cuộc sống đó vào đây, phục lắm.
Tôi mỉm cười. Mỉm cười vì tự ái được ve vuốt thoả mãn thì ít mà mỉm cười hả dạ vì những lời bình phẩm đó thế nào cũng lọt tới tai B2 và Đảng uỷ Khu A mới nhiều. Dư luận, nhận xét của tập thể bao giờ cũng «nặng ký» lắm. Dựa vào đó, cấp trên của tôi nhìn tôi với con mắt khác. Tín nhiệm tôi hơn. Sẵn sàng đề bạt tôi, cất nhắc tôi lên hàng ngũ cán bộ, giao những trọng trách mới. Dĩ nhiên sự thay đổi đó vô cùng thuận tiện cho tôi tìm một cơ hội thoát khỏi thế giới này.
Chắc chắn là Hiền cũng nghĩ như tôi nên nàng hôn nhẹ vào má tôi:
– Em mừng cho anh. Em cũng hãnh diện vì anh nữa. Thế là một ngày nào gần đây, Đảng uỷ Khu A cũng chấm dứt cuộc đày ải anh ở rừng Đồng Nai Thượng này. Hy vọng anh sắp thành rồi đó, anh! Chỉ có em…
Nàng ngập ngừng một lúc, với giọng bùi ngùi tiếc rẻ:
– Em không khôn bằng anh. Em không khéo bằng anh. Em thực thà quá. Franc quá! Không biết đóng kịch, che dấu tình cảm mình, chỉ biết sống cái nếp sống tự nhiên của một cô nữ sinh Marie Curie, nhiễm cái thói quen cởi mở tự do của những thiếu nữ Tây Phương. Nghĩ sao nói vậy. Buồn, vui, giận, hờn, bất mãn đều phản ứng ra mặt, nhanh như điện, cho nên ….
Tôi an ủi nàng:
– Nhưng em đã làm điều gì quá đáng đâu. Anh chị em tập thể B195 vẫn quý mến em kia mà.
– Anh đừng nói nịnh em để em vui lòng. Em biết nhận xét mà.
Chợt tôi nghe có tiếng phi cơ khu trục từ hướng đông vọng tới. Tôi lôi Hiền ra khỏi sự phiền muộn:
– Kìa em! Khu trục kìa!
Hiền vẫn không quan tâm:
– Kệ nó anh! Hồi nào tới giờ, vùng này có bị oanh tạc đâu.
Tôi kéo nàng đứng dậy đi ra sân:
– Trước giờ chưa bị oanh tạc, bây giờ bị oanh tạc thì sao? Chủ quan thì chết đa!
Tuy miệng tôi nói vậy, nhưng trong đầu chủ quan chẳng kém gì Hiền. Giữa rừng sâu ở Đồng Nai Thượng, Quốc Gia làm gì ngờ đến có người ở? Mà có người ở chăng đi nữa, thì cũng tưởng là đồng bào Thượng chứ đâu cho là «VC». Cụ thể từ trước đến giờ, hàng ngày phi cơ đủ loại, bay ngang đây không thiếu, có lần nào chú ý đến đâu. Chẳng hề nghiêng cánh, chẳng hề đảo lấy một vòng. Núi rừng Đồng Nai Thượng vẫn an nhiên như bàn thạch. Chính vì vậy tất cả các đơn vị đóng vùng này, không nơi nào buồn nghĩ đến chuyện đào hầm trú ẩn tránh phi pháo.
Tiếng phi cơ rõ dần, nặng chịch như tiếng cối xay lúa. Quả là đông. Tiếng động cơ rền rĩ điếc tai thế này, ít ra cũng có đến ba chiếc khu trục bay thành đoàn là ít. Tôi và Hiền cùng ngước mặt nhìn lên những kẽ hở của vòm lá rừng dày đặc, theo hướng tiếng động cơ, hy vọng nhìn thấy một hình ảnh nào chăng? Nhưng chúng tôi chẳng nhìn thấy gì hết. Cây rừng dày quá. Cành lá, lớp lớp đan kín vào nhau.
Tiếng rền rĩ điếc tai đi qua đỉnh đầu tôi rồi đi xa dần. Nhưng không, đoàn khu trục vòng trở lại, xoay tròn quanh chỗ tôi và Hiền đứng. Bốn bên đều có tiếng động cơ khu trục. Đúng rồi, phi cơ dàn hàng một thành đội hình chiến đấu đây.
Tôi dáo dác nhìn quanh. Hồi hộp cực độ. Tôi nắm tay Hiền, hét lên:
– Nó sắp bỏ bom rồi, chạy Hiền!
Mặt Hiền xanh ngắt như tàu lá, hốt hoảng:
– Chết! Chạy đâu giờ anh? Làm sao?
Quanh đây không nơi nào có hầm trú ẩn. Cũng không có một cái hố, một địa thế nào thấp hơn mặt đất. Tôi sực nhớ đến cái lò Hoàng Cầm ở nhà bếp. Lò đào sâu dưới đất. Khoảng trống xê dịch trước miệng lò thấp hơn mặt đất ít ra cũng đến tám tấc tây.
Tôi nắm tay Hiền lôi xềnh xệch chạy phóng mạng xuống nhà bếp. Hiền xuýt té sấp mấy lần, may tôi đỡ kịp. Hai đứa vừa nhảy xuống lò Hoàng Cầm thì tiếng rít rợn người, đinh tai nhức óc của chiếc khu trục bổ nhào xuống cũng vừa vượt qua trên đầu tôi.
Oành! Oành! Hai tiếng nổ liền nhau long trời lở đất. Đất đội lên, rung rinh. Mái nhà như chao đi, run rẩy. Mấy nắp son nhôm chạm nhau khua leng keng. Hiền ôm cứng lấy tôi run lên:
– Làm sao… anh? Làm … sao giờ anh?
Tôi điếng người. Còn biết phải làm sao giờ! May có cái lò Hoàng Cầm để núp, nếu không, nằm khơi trên mặt đất cũng phải chịu chứ biết sao. Lại chiếc khu trục kế tiếp bổ nhào, rền rĩ rít ngang qua đầu tôi. Ngồi nép vào thành đất ở góc lò, tôi ôm chặt lấy Hiền, lấy tay xoa xoa trên lưng nàng để nàng đỡ sợ.
Lại oành! oành! Hai tiếng bom nổ điếc tai kế tiếp. Đất rung chuyển lắc lư như đưa võng. Tôi lắng tai nghe. Không nghe tiếng đất rơi, tiếng miểng bom bay rào rào trên lá, nhất là mùi khói thuốc nổ, tôi vững dạ nhiều. Cơn hồi hộp sợ hãi qua nhanh.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi từng bị phi cơ khu trục dội bom nhiều lần. Kinh nghiệm cho tôi biết, không có tiếng đất rơi lộp độp, không nghe miểng đi rào rào trên lá cây, không nghe mùi khói thuốc nổ, như vậy nơi bom nổ cách đây ít ra cũng ngoài ba trăm thước đường bán kính. Tôi trấn an Hiền:
– Đừng sợ, Hiền! Xa! Bom bỏ ở xa!
Hiền vẫn xanh ngắt, miệng cố nở cười méo xệch:
– Xa… hả anh?
– Ừ! Xa. Mình đây không ăn thua gì đâu.
– Nó liệng bom ở đâu vậy anh?
Lại tiếng phi cơ bổ nhào rít qua đầu. Tôi lắng nghe và tính toán. Bom lại nổ điếc tai. Tôi trả lời Hiền:
– Ngoài rẫy! Rẫy mình bị oanh tạc rồi. Chà! Không biết anh chị em mình ngoài ấy có sao không?
Hiền chắc lưỡi lo âu. Nhưng mặt Hiền cũng hồng lại dần. Tim nàng vẫn đập mạnh. Ngực nàng sát vào ngực tôi ấm áp, mềm mại. Tiếng đập của trái tim nàng dội rõ mồn một lên da thịt tôi. Hai đứa nhìn nhau… Một cảm giác mới, nóng bừng, nhen lên sau cơn sợ hãi. Môi lại tìm môi. Tình yêu là thế đấy. Bấy giờ, hai đứa quên cả tiếng bom đang rung chuyển đất trời và bóng dáng của tử thần lẩn quất quanh đây.
Hơn hai mươi phút sau, đoàn khu trục kéo nhau đi hết, trả lại sự yên lặng bình thản về cho núi rừng. Ném bom xong, hết bom lại bắn. Bắn đã vài loạt rồi thôi. Sự có mặt của chiến tranh ở rừng núi, chỉ ngần ấy thì chưa có nghĩa gì. Tôi dìu Hiền đứng dậy. Quần áo hai đứa mốc thích, dính đất lấm mem. Tự dưng hai đứa nhìn mặt nhau, phá ra cười, phủi đất cho nhau.
Tôi trở lên nhà gặp Minh vừa về tới. Đầu cổ ướt loi ngoi. Minh nghe răng ra cười:
– Chút nữa qua phần rồi, anh Tư!
Tôi lo lắng:
– Anh chị em mình có ai sao không?
– Không sao! Hết hồn, hú vía thôi. Rẫy mình tan hoang hết rồi. Đéo quả! Mấy thằng phi công nó tưởng mình trốn ở giữa rẫy sao không biết, hết chiếc này tới chiếc khác nhè giữa rẫy mà liệng tơi bời. Tôi thấy ba chiếc khu trục nó vòng trở lại, biết không êm rồi, hét anh chị em mình nhào xuống suối núp hết…
Minh lại nhướng mắt, nhe răng cười:
– Vậy mà có một trái bom rớt cách suối chỗ tôi nằm chừng năm thước làm tôi tá hoả tam tinh, nhào ngửa. Đất phủ đầy đầu.
Anh chị em lục tục kéo về đầy đủ. Tiếng cười nói vang vang. Kể chuyện trốn bom của mình.
Vừa thay quần áo, Minh vừa nói với tôi.
– Vầy là mình phải mở chiến dịch đào công sự chống phi pháo rồi đây!
– Thiệt, không có công sự ớn quá chừng!
– Hồi nãy ở nhà anh làm sao?
– Chạy xuống bếp, nhảy xuống lò Hoàng Cầm.
– Còn chị Hiền?
– Cũng vậy!
– Chà, trốn máy bay như vậy, mỗi ngày trông cho máy bay nó đến vài chục lần. Anh có trông không?
Tôi cười. Anh chàng bữa nay bắt đầu châm chọc tôi rồi đây.
Buổi chiều, sau giờ học văn hoá, chúng tôi không ra rẫy mà xúm nhau đào công sự. Tổ nào đào cho tổ nấy. Nhà nào, đào ở nhà đó. Ngày mai còn phải đào thêm mấy công sự khác quanh nhà ăn, để phòng khi phi cơ đến lúc đang ăn hay đang học, hoặc hội họp. Vì đối với chúng tôi, nhà ăn còn là nơi tập trung hội họp, học hành, liên hoan v.v… Nhà ăn có bàn, có băng ngồi, lại rộng. Còn những nhà khác chỉ là nhà để ngủ.