Chương X (3)
Một buổi trưa thượng tuần tháng 11 năm 1963, Tám chi từ Ban Chính trị đến công tác ở C110 – xưởng quân khí Khu A – sẵn dịp đến thẳng B195 thăm chúng tôi. Tám Chi cho biết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô đình Nhu chết rồi. Quân đội nổi dậy đảo chánh, tấn công vào Dinh Gia Long đêm 31 tháng 10 vừa qua.
Anh em Diệm Nhu trốn thoát chạy vào trú ở nhà thờ cha Tam, cuối đường Đồng Khánh Chợ Lớn. Nhưng 8 giờ sáng 1-11 bị phát giác bị giết chết ở đây.
Tôi chăm chú lắng tai nghe Tám Chi kể lại những chi tiết mà Chi được nghe qua Đài phát thanh Sài Gòn và BBC. Vậy là triều đại nhà Ngô với chính sách gia đình trị ác nghiệt, độc tài sụp đổ tan hoang.
Đối với tôi, cũng như nhiều người khác, cái chết của anh em Diệm chỉ là chuyện tất nhiên. Mọi người dân Sài Gòn đều cảm thấy trước ngày đó. Tưởng đến hôm nay đã may mắn cho anh em Diệm lắm rồi.
Tám Chi hỏi tôi về đời sống của anh em Diệ. Nhất là những huyền thoại Trần Lệ Xuân. Thành thực mà nói, chuyện của anh em Diệm, huyền thoại Trần Lệ Xuân tôi được nghe kể đầy tai nhưng kể cho Tám Chi, cho các «nhân vật» ở B2 nghe, tôi không thấy có một chút hào hứng nào. Huống hồ, tôi còn đang hoài nghi, phân vân về việc Tám Chi đến thăm B195 nhân dịp đi công tác ở C110.
Dân B2 là «dân chính trị» có nhiệm vụ quản lý cán bộ, chiến sĩ và lãnh đạo tư tưởng, công tác nội bộ, tình cảm đâu để đi thăm bất cứ ai? Vậy thì Tám Chi đến đây làm gì? Chuyện tôi và Hiền đã lọt đến tai B2 rồi ư?
Cho nên mặc Tám Chi hỏi điều này đến điều kia về gia đình Diệm, tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện, viện cớ trước kia tôi đã kể cho Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tám Chi nghe rồi.
Tám Chi cho biết thêm, nhóm tướng lãnh chủ trương lật đổ Diệm lần này là do Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tướng Trần Văn Đôn chủ xướng. Vì vậy, chính quyền mới của Sài Gòn, Trung Tướng Dương Văn Minh được bầu thay Diệm vào chức vị lãnh đạo. Đột nhiên Tám Chi cười có vẻ khoái trá lắm, bảo Trung Tướng Dương Văn Minh là bạn học cũ của mình trong những năm trước 1945 tại trường Cô-le Mỹ Tho (College de Mỹ Tho). Hơn thế nữa, còn ở chung nhau trong một đội bóng tròn. Quê của Tám Chi ở Gò Công. Quê của Trung Tướng Dương Văn Minh ở Mỹ Tho. Trong những năm học ở Cô-le Mỹ Tho, Tám Chi và bạn bè gọi Trung tướng Dương Văn Minh là Minh đen. Pháp chiếm trở lại Sài Gòn, gặp nhau trong kháng chiến không hiểu vì lý do gì Tướng Minh trở về Sài Gòn. Cho đến hôm nay trở thành Trung tướng của quân đội Quốc Gia, phản động chống lại Cách mạng
Tôi ngạc nhiên, ngồi nghe Tám Chi thao thao bất tuyệt. Quả y biết nhiều về Tướng Dương Văn Minh. Còn tôi thì chẳng biết gì ráo về đời tư, gia đình của Tướng Minh. Ngoại trừ một lần vào năm 1955, lúc tôi còn ở trọ học nhà bà Cò-mi Sách. Nhân đọc báo thấy Tướng Minh dạo đó vừa mới được thăng Đại Tá làm tư lệnh chiến dịch Hoàng Diệu, bà Cò-mi Sách khoe là mười sáu năm về trước Tướng Minh yêu bà ta, đến gia đình hỏi bà ta làm vợ nhưng bà ta chê không có tương lai nên không chịu. Đâu ngờ Tướng Minh bây giờ lên quá, nổi quá.
Tôi là người ngoại cuộc, không biết Đại tá Dương văn Minh đã đành, lại còn không biết chút nào về dĩ vãng và gia đình bà ta. Tôi chỉ biết nghe như một nhân chứng bất đắc dĩ.
Tôi nghĩ bụng, thằng cha này mới ở Miền Bắc về, lại ở trong rừng sâu thế này, ai nói cho y biết những chuyện trên đây?
Buổi chiều, sau khi Tám Chi đi rồi tôi vẫn còn phân vân mãi không hiểu y đến B195 với mục đích gì? Tôi phập phồng không yên. Mãi đến bữa ăn chiều, Hai Minh tuyên bố cho tập thể biết bắt đầu từ ngày mai học chỉnh huấn ba ngày. Tài liệu Tám Chi vừa mang đến kèm theo với chỉ thị của Đảng uỷ U.50. Theo lệnh trên, chúng tôi phải kéo sang Bệnh Xá G3 phối hợp với họ học chung, nhưng nhờ Hai Minh kỳ kèo mãi, bàn tới bàn lui mới được chấp nhận ở lại nhà học riêng.
Chừng đó tôi mới rõ ra rằng Tám Chi đến đây vì vấn đề chỉnh huấn chung cho Khu A chứ không phải vì chuyện tôi và Hiền. B2 chưa biết gì cả.
… Không biết nhờ một phép lạ nào mà suốt cả một thời gian dài, từ đó cho đến tháng 8 năm 1964. B2 không hay biết gì, hoặc biết mà không có một phản ứng nào đối với «tình yêu bất hợp pháp» của chúng tôi.
Hay người ta đã quên mất chúng tôi? Cũng như cái đơn vị B195 ở tận mãi mạn Đồng Nai Thượng đèo heo hút gió, là một thứ trại cải tạo lao động hạng bét, chẳng cần quan tâm đến nó làm gì? Suốt trong chín tháng được phép ngầm và che chở của Hai Minh, với một tập thể nhiều thông cảm, mến thương, tôi và Hiền sống không khác một đôi vợ chồng thực thụ.
Điều Hiền mong muốn, ước ao vẫn chưa xảy ra. Lạ thật. Trò đời nó thế. Lén lút «ăn vụng», giấu giếm phập phồng thì bụng nó cứ to ra, còn muốn cho nó to một cách công khai, nó vẫn không nhúc nhích.
Một chiều tháng 8 năm 1964, một Cảnh vệ B2 đến B195 trao cho Hai Minh một thư gấp. Đó là thư báo của B2, kèm theo quyết định thuyên chuyển Hiền về đoàn Văn công II Quân Giải Phóng của Cục Chính Trị E.
Theo lời anh Cảnh vệ cho biết, đoàn này sắp sửa thành lập, với cái tên Đoàn Văn công II Quân Giải Phóng. Đoàn I lập từ năm 1962 ở Khu B, do anh chàng nhạc sĩ Xuân Hồng, tức Ba Một nguyên trưởng trạm đường dây B40 của R điều khiển.
Lần này, đoàn II tiếp tục thành lập, quân số hầu hết chọn lấy ở Khu A. Hiện tại, một cán bộ chính trị của B2 tên Phương Nam được U.50 chỉ định làm chính trị viên của Đoàn đang lo tập trung quân số, chờ cho đầy đủ sẽ dẫn hết về Khu B (biên giới Việt-Miên ở Tây Ninh) để học tập chuyên môn, kỹ thuật v.v… bổ sung phương tiện, nhạc cụ, nhạc công v.v…
Những nhân viên trong đoàn, ở buổi đầu, không đòi hỏi phải có khiếu, có khả năng văn nghệ, ca hát hay một căn bản vốn liếng nào.
Về Khu B sẽ cho học, đào tạo thành những ca sĩ, vũ công, tài tử sau. Chương trình học, 6 tháng, quá đủ rồi.
Đoàn Văn công II, nhân viên, cán bộ đã tập trung đầy đủ, chờ Hiền đến nữa là khởi sự lên đường về Khu B. Hiền được chỉ định vào Đoàn Văn công chỉ vì Hiền đẹp – điều kiện quyết định lớn nhất làm tiêu chuẩn chọn lựa do Đảng uỷ đề ra. Làm Văn công phải đẹp, phải quyến rũ mới động viên tình cảm, mới thu hút được người xem chứ. Cái đẹp Đảng không đào tạo được chứ những cái khác như tư tưởng lập trường, khả năng trình diễn, căn bản kỹ thuật, chỉ cần học tập là xong ngay, Đảng bảo vậy.
Đọc xong thư và quyết định thuyên chuyển của Đảng uỷ U.50, Hai Minh đưa mắt nhìn tôi như hỏi ý kiến. Tôi lặng lờ, ngây người ra một lúc lâu.
Từ trước, tôi và Hiền hai đứa đều chuẩn bị tình cảm để chịu đựng. Hai đứa trong trạng thái đợi chờ, thế mà giờ đây khi có quyết định thuyên chuyển, tôi không sao khỏi tâm trạng bối rối bâng khuâng, xao xuyến cực độ. Chúng tôi đã đến lúc phải xa nhau rồi ư? Đột ngột thế sao?
Tôi nuốt ực nước miếng qua cổ họng:
– Vậy là Hiền đi?
– Thì đi chớ sao! Quyết định trước mắt nè!
– Ngày mai lên đường hả anh Hai?
– Chắc vậy rồi! Đồng chí Cảnh vệ B2 ngày mai về sẽ dẫn chị Hiền đi theo. Ở B2 người ta đang chờ. Làm sao được!
Ừ, thì làm sao được! Tôi ngớ ngẩn thực. Lệnh là lệnh. Lệnh phải được chấp hành đúng, tuyệt đối. Kỷ luật thép mà! Tôi được tin còn bối rối thế này, không biết chút nữa đây khi đưa quyết định đến tay Hiền, nàng còn bối rối đến chừng nào nữa?
Không kiên nhẫn hơn được, tôi cầm lấy giấy quyết định bằng tờ pelure mỏng cắt đôi, với mấy hàng chữ đánh máy đơn giản, không đóng dấu đỏ chỉ có chữ ký tên trơn: Hai Cà. Tôi nói với Hai Minh:
– Tôi mang quyết định này đến cho Hiền nghe anh Hai?
Minh mỉm cười, thông cảm gật đầu. Tôi bước ra sân, bỗng Hai Minh gọi lại:
– Anh Tư! Khoan đã anh Tư. Tôi hội ý với anh một chút.
Tôi quay vào nhà, chờ đợi. Hai Minh nhíu mày có vẻ suy nghĩ lắm:
– Tôi thông cảm hai anh chị lắm. Kể ra chị Hiền đi, vấn đề học văn hoá của B195 mình cũng thiệt thòi một phần nào. Sống chung với nhau lâu, giờ ra đi tình cảm cũng bị sứt mẻ. Buồn chớ! Mà đi đột ngột như vầy làm sao tổ chức một bữa liên hoan chia tay… cho kịp.
Tôi bứt rứt, bồn chồn trong trạng thái muốn đi gặp Hiền ngay nên không nói gì. Minh nói tiếp:
– Thôi thì… chịu vậy. Hai anh chị chắc có nhiều vấn đề cần giải quyết với nhau. Tâm sự với nhau trước giờ chia tay. Tối nay, tụi tôi tản cư xuống nhà bếp ngủ. Nhường hai anh chị căn nhà này… để anh chị tự do tâm sự.
Nét mặt Minh nghiêm trang, thành khẩn. Tôi cảm động khôn cùng và thấy thương Minh, phục Minh hết sức. Nhưng điều ấy bất tiện, không tiện chút nào. Tôi nói:
– Xin cảm ơn anh Hai có lòng nghĩ tới tụi tôi. Anh đã giúp đỡ, che chở cho tụi này suốt gần năm nay rồi. Bây giờ… bây giờ tụi tôi chỉ xin anh để tụi tôi ra cái chòi ngoài rẫy được rồi.
– Trời đất! Ngoài đó lạnh tanh, xa thấy mồ!
– Được anh! Xa gì! Đi năm phút tới rồi.
Minh chép miệng nhìn ra sân. Rừng trước mặt đứng im không gió.
Tôi hỏi:
– Còn chi nữa không anh?
– Thôi! Anh đi cho chị Hiền hay đi.
Tôi đi về phía trại nữ, nhà Hiền ở. Không gặp Hiền. Sang hai nhà khác bên cạnh cũng không thấy. Hiền đâu. Chỉ có cậu Cảnh vệ B2 và hai cậu thanh niên cùng nhà với tôi đang xun xoe bên chị em, tán vung vít. Tôi quay xuống bếp. Bếp vắng hoe. Nghe tiếng nước khua lõm bõm dưới suối, tôi đi thẳng đến. Thì ra Hiền vừa tắm xong đang giặt đồ.
Thấy tôi, Hiền cười toe:
– Chỗ người ta tắm anh đi đâu vậy? Em bắt đền đa!
– Anh đi tìm em nãy giờ.
– Có chuyện gì không anh? Nhớ hả?
Tôi chìa tờ giấy quyết định bằng pelure mỏng:
– Ở đó mà đùa anh. Có giấy quyết định thuyên chuyển của Đảng uỷ U.50 đưa em về Đoàn Văn công II của Cục Chính Trị nè. Ngày mai phải theo cậu Cảnh vệ B2 đến trình diện tại B2.
Lặng người đi một thoáng, Hiền xoe tròn mắt:
– Thiệt hả anh?
– Quyết định bằng giấy trắng mực đen nè.
Hiền vung tay vẫy nước, giật lấy giấy quyết định trên tay tôi, chăm chú đọc. Nàng đọc đi đọc lại nhiều lần. Sau cùng nàng nhét mảnh giấy vào túi áo bà ba, cười nụ, tỉnh bơ như không:
– Vậy là hay! Hay quá!
Tôi ngạc nhiên hết sức. Lạ thực. Nàng không chút băn khoăn, bối rối lại còn vui vẻ là đằng khác trước quyết định chia ly hai đứa hai nơi này. Nàng loạn trí chăng? Tôi không ngăn được câu nói dỗi hờn:
– Em vui lắm sao Hiền? Em sung sướng lắm hả?
– Ơ! Anh kỳ thấy mồ. Vậy mà cũng hờn em được. Anh không yêu Hiền sao anh? Hiền là vợ anh mà.
Tôi lại càng không hiểu, muốn nổi khùng lên:
– Vợ anh mà vậy sao?
Hai dòng nước mắt trên mi Hiền rơi xuống đột ngột. Nàng cúi đầu xuống, không nói gì, giặt vội bộ bà ba đen cho chóng xong. Nàng vắt ráo nước bộ đồ, đứng dậy nhìn tôi. Hai dòng nước mắt vẫn rưng rưng nhưng môi nàng lại nở nụ cười dễ thương làm sao:
– Anh buồn em, giận em hả? Vợ anh mà anh không hiểu sao anh?
Tôi không tài nào giận được nàng, thương nàng lắm, nhưng không sao không lấy làm lạ thái độ kia. Thái độ dửng dưng, hờ hững, vui là đằng khác khi được biết người ta bắt mình phải chia ly, xa cách người yêu. Tại sao nàng không băn khoăn, bối rối, hoảng hốt như tôi? Cảm tình của giới nữ phải bén nhạy, phản ứng mạnh hơn giới nam chứ! Lạ lắm! Tôi hỏi nàng:
– Chia ly vui lắm sao em?
Hiền nắm lấy tay tôi và đẩy nhẹ về phía trước.
– Lên anh! Đi lên, em phơi đồ xong rồi em sẽ nói anh nghe.
Tôi đưa tay nhìn đồng hồ. Bây giờ đã 3 giờ 10 phút chiều. Ừ, chiều nay, chiều chủ nhật, nhằm ngày nghỉ. Tôi quên mất.
– Em phơi đồ xong thì đi ra rẫy. Anh chờ ở đầu đường.
Nói xong tôi vượt lên trước, đến đầu lối mòn.
Tôi chờ nàng ở đó. Hai con sóc đất đuổi nhau kêu chí choé quanh mấy bãi lồ ô trước mặt. Cảnh vật chung quanh vẫn bình thường như mọi ngày. Tôi lặng lẽ đứng nhìn mà đầu óc để đâu đâu.
Hiền đến. Nàng hiện ra với khuôn mặt dịu dàng rạng rỡ, đẹp làm sao. Tóc nàng quấn lên cao vừa rồi vừa gọn như những cô gái Bắc, phơi cổ tròn trĩnh trắng ngần. Trên tay, nàng cầm một chùm trái trường mơn mởn chín mọng.
Trái trường là một loại trái rừng, màu sắc, hình dáng giống như những trái dâu ta. Nhưng hột, cơm nó bên trong lại giống trái nhãn. Vị nó chua chua ngon ngọt. Mùa này là mùa mưa cũng là trái trường chín rộ ở đây.
Tôi nhìn Hiền mà nghe lòng mình nao nao, ấm áp một cách dị thường. Khuôn mặt kia, dáng dấp kia, da thịt nõn nà rung động kia, chả trách sao người ta lại chọn nàng đưa vào đoàn Văn công. Con người đó, xuất hiện trước khán giả chưa cần làm một cử động nào, chưa cần ca hát, múa may, chưa cần mỉm cười nhìn ngang liếc dọc cũng quá đủ để động viên tình cảm, động viên tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ hả hê rồi.
Vậy mà lâu nay, nàng thuộc về tôi, của riêng tôi, trong vòng tay của tôi, tôi đã quên phăng đi điều đó. Hạnh phúc của lứa đôi, những đụng chạm bay bổng tuyệt vời của thiên đường ân ái, tôi còn có thể nhớ được gì?
Bây giờ, nàng đó. Giờ phút tôi ngắm để «thấy» được sự hiện hữu của người tôi yêu, lại là những giờ phút sắp sửa chia ly, giờ phút hội ngộ sau cùng.
Tôi dang tay ra. Nàng ngã vào lòng tôi và tôi cúi xuống với tâm trạng bồn chồn hốt hoảng. Rất lâu, tôi buông Hiền ra. Và hai đứa dìu nhau sóng đôi, bước chậm về phía rẫy.
Nàng ngắt đưa tôi một chùm nhỏ trái trường.
– Trường nè anh! Anh ăn đi ngon lắm. Anh Cảnh vệ B2 vừa mới đi leo bẻ về đãi chị em.
Tôi cười. Sức hấp dẫn trai gái mạnh thiệt. Cây trường cao vút, vì bản năng sinh tồn nó cũng vượt đua theo cây rừng để thở, để nhận ánh nắng mặt trời. Nó cao hai ba mươi thước là thường.
Có nơi còn cao hơn. Nào ai có gan leo những cây trường suông đuột cao mấy chục thước để bẻ trái ăn bao giờ? Thường thường muốn ăn trái rừng ta chỉ có mỗi một biện pháp duy nhất là vác cưa, vác rựa ra đốn. Đàng này muốn được sự chú ý của chị em, muốn tạo được chút cảm tình nào đó, cái anh hùng rơm của cậu Cảnh vệ B2 nổi dậy.
Cậu ta a thần phù nổi hứng, leo một mạch bất kể hiểm nguy, sống chết để làm vừa lòng chị em. Chịu! Đầu hàng cậu ta.
Tôi lột vỏ một trái, đưa lên miệng. Nước miếng trong miệng tôi ứ đầy, phải nuốt đi. Hiền vừa cắn một trái trường vừa chép miệng hỏi:
– Sao hồi nãy anh gắt gỏng với em vậy? Bộ anh hổng thương em hả?
– Bậy! Anh mà không thương em thì còn trời đất nào nữa. Anh thương em gấp bội em thương anh mà!
– Vậy sao anh nỡ gắt gỏng với em?
– Tại em kỳ cục.
– Anh nói xấu em. Em có kỳ cục gì đâu?
– Không hả? Có ai nhận được quyết định thuyên chuyển đột ngột, xa người yêu, mà thản nhiên như em không? Chẳng những thản nhiên mà còn có vẻ vui sướng nữa. Vậy bảo sao anh không tức, không gắt gỏng được!
Hiền âu yếm nhìn tôi, cười ngặt ngoẹo:
– Đáng lẽ anh phải mừng cho em chứ!
– Sao? Sao? Em nói sao
– Em nói đáng lẽ anh phải mừng cho em chứ! Em nói không phải, không đúng sao? Hơn năm trời nay, hai đứa mình chờ mãi một cơ hội rời khỏi nơi này.
Tôi chợt hiểu. Rõ ràng là tôi ngốc và vô lý tức giận nàng. Tình yêu thương, hạnh phúc lứa đôi đã làm tôi mờ mắt, mụ người đi. Tôi đã hết sức thiển cận, chỉ thấy niềm vui nhỏ trước mắt, quên phứt mục tiêu xa và suốt cả quãng đời còn lại. Tệ thật. Tôi thấy mình tệ hơn Hiền nhiều, thua Hiền nhiều. Tôi ngượng ngập vì xấu hổ:
– Anh xin lỗi em. Anh hiểu em rồi. Anh vô lý quá.
Hiền cười khúc khích:
– Đó, anh thấy chưa! Anh dở quá hè.
Tôi cúi đầu thú nhận.
Ra đến rẫy, tôi dẫn Hiền tạt qua cái chòi con mà chúng tôi vừa cất cách đây sáu tháng dùng làm chỗ trú mưa và ngủ đêm canh rẫy sợ heo rừng, nai vào phá ban đêm khi mùa bắp vừa ra trái. Cái chòi lụp xụp lợp bằng lá may chen vào giữa đám tre rừng kín mít. Đêm nay chòi này là thế giới riêng của tôi và Hiền.
Tôi nói với Hiền:
– Tối nay hai đứa mình ra ngủ ở đây đó em.
– Anh cho anh Hai Minh biết rồi hả?
– Ừ! Ảnh bảo ảnh nhường cho tụi mình cái nhà trong đó ảnh với hai cậu kia tản cư xuống bếp nhưng anh không chịu. Anh bảo hai đứa mình sẽ ra đây.
– Anh Hai Minh tốt thiệt. Ảnh tốt với tụi mình quá. Em ở đây gần hai năm rồi mà chịu, không sao hiểu được ảnh nghĩ gì về tương lai của ảnh.
– Kể ra cũng là một con người đặc biệt. Ngoại khổ, không giống ai. Một thứ đảng viên phi Đảng.
– Ở ngoài này hai đứa vắng quá. Rủi có cọp thì sao?
Tôi cười:
– Ở đâu chứ vùng này cọp dẫy đầy. Nhưng mấy năm nay em có nghe cọp có vật ai, ăn thịt ai đâu. Nó dữ, nguy hiểm, được cái nó sợ người. Nó gặp người là nó chạy. Nếu không cả B195 mình cũng chẳng còn ai. Không đáng sợ lắm.
Hiền đột nhiên bấm mạnh vào tay tôi:
– Ờ, anh! Ở vùng này có dã nhân đó anh!
– Ai nói vậy?
– Mấy anh giao liên trạm giao liên A1 ở Suối Đá nói chớ ai.
Mới hôm qua, chị Đô… chắc anh không biết chị Đô. Chị Đô giao liên dẫn khách từ sông Đồng Nai về Suối Đá đi ngang đây hàng ngày đó.
– Anh có nghe nói đến tên nhưng chưa biết mặt.
– Chị Đô hôm qua gặp tụi em ngoài suối, kể cho tụi em nghe. Cách đây bốn ngày, một anh em của A1 sáng ra vác cây súng trường Nga đi săn giộc. Anh ta đi ngược theo suối về hướng mình nè, cách A1 chừng hai mươi phút, tới một cái đồi nhỏ anh ta nghe tiếng bẻ măng. Nhìn lên đồi, sau mấy đám lồ ô anh ta thấy có một người lớn và một đứa nhỏ lom khom bên một bụi lồ ồ. Anh ta tưởng đó là mấy người đồng bào Thượng nên không quan tâm lắm. Sẵn mỏi chân, anh ta ngồi trên một mỏm đá dựa bờ suối, vấn thuốc hút. Chợt nghe tiếng chân lạo xạo đạp trên lá khô đi xuống, anh ta nhìn lên thì thấy một con vật lông lá xồm xoàm, giống y như người ta, mà cao lớn lắm, tay thiệt dài, đen thui. Một tay cầm mụt măng lồ ô vừa đi vừa đưa lên miệng xước vỏ, một tay vịn theo mấy cây lồ ô đi lần xuống suối. Anh ta hết hồn hết vía, hoảng hốt chụp súng đứng dậy vì con dã nhân đó cách anh ta chừng hơn mười thước. Nó cũng vừa thấy anh ta. Anh ta cũng vừa thấy nó. Hình như nó cũng sợ, nó đứng lại nhăn răng ra. Anh ta điếng người, mất hết bình tĩnh bóp cò nổ một phát rồi quăng súng, bất kể sống chết nhào xuống suối, co giò chạy thục mạng về A1. Ngày sau dẫn ba bốn anh em nữa, súng ống đầy đủ trở lại chỗ cũ kiếm súng mà anh ta hãy còn run.
Nghe Hiền thuật lại, tôi cũng nghe lạnh sống lưng. Ở đâu không biết, chứ rừng sâu Đồng Nai Thượng có thể có lắm. Rừng rậm hoang vu có từ hàng nghìn năm nay thì chẳng những dã nhân mà những loại dã thú khác, thứ nào cũng có thể có. Ngay cách đây hơn sáu tháng, bên kia sông Đồng Nai, anh em bên T6 (khu 6) chẳng bắn được con tê giác là gì. Rhinoceros vốn là một con thú chỉ có ở rừng Phi Châu, đâu ai ngờ nó có ở Việt Nam, vậy mà còn có được, huống gì loại dã nhân, loại khỉ người khổng lồ. Sừng con tê giác anh em T6 gửi xuống Sài Gòn bán tự túc được hơn ba chục ngàn. Tiệm thuốc Bắc Ba Tàu Chợ Lớn mua. Còn da, phơi khô cắt chia mỗi người một miếng bằng bốn ngón tay dùng để dành làm thuốc. Chính tôi, thấy của lạ và nghe nói công hiệu trị bá chứng của nó, tôi phải nài nỉ nhờ Hai Minh đi xin về được một miếng, đang cất trong bồng kia.
Dù vậy, tôi cũng bán tín bán nghi, không hiểu anh giao liên A1 kia có thổi phồng câu chuyện để hù anh em khác chăng? Tôi hỏi Hiền:
– Em có nghe chị Đô nói bắn được con dã nhân hay có dấu vết nào đáng tin không?
– Không! Phát súng bắn hoảng đó đâu có trúng gì. Con dã nhân chạy mất. Theo lời chị Đô kể lại thì hôm sau, mấy anh em đó lên đồi thấy mấy cây lồ ô bằng đầu gối bị bẻ gãy. Dấu còn mới xanh. Như vậy là có dã nhân thiệt, vì nó khổng lồ, mạnh chẳng thua gì Hercule mới bẻ nổi mấy cây lồ ô đó để dọn đường bẻ mấy mụt măng. Ghê thật!
Có thể lắm. Nhưng biết làm sao giờ. Sợ thì sợ, chúng tôi vẫn cứ phải trấn đóng ở vùng này. Và đêm nay tôi và Hiền ngoài cái chòi này ra đâu còn chỗ nào tự do trò chuyện tốt hơn, thuận tiện hơn?
Tôi dẫn Hiền ra ngồi ở gốc bằng lăng ngày chúng tôi mới yêu nhau. Và cũng chính nơi đó, sau này, tôi đã đưa nàng vào những giây phút đầu tiên của cuộc đời đàn bà, người vợ mới cưới.
Hàng chuối nước nay đã già, trụi lá, trơ lại những cây èo uột, khẳng khiu với những cành hoa rủ. Tôi ngồi xuống nệm lá khô, tựa lưng vào thân cây, nhìn sang bên kia suối. Hình ảnh của ngày nào tôi bị sốt rét nằm ở đây và tình yêu Hiền đến với tôi hiện lên trong đầu tôi rõ mồn một. Ôi, kỷ niệm tuyệt vời.
Tôi nhắc lại với Hiền:
– Em còn nhớ, ngày đầu tiên mình yêu nhau không? Cái hôm đốt rẫy, anh bị sốt rét nằm ở đây, rồi em đến đó!
– Nhớ chứ!
– Rồi những ngày sau đó, cái nệm lá khô này là giường hợp cẩn của chúng mình. Anh đã…
– Thôi đi mà!- Hiền bịt miệng tôi– Quỷ nè! Còn nói nữa! Làm người ta mắc cỡ muốn chết!
– Ấy vậy mà hơn một năm rồi. Nhanh thật. Một năm nhanh như một tuần.
– Em thì vẫn thấy nó dài lê thê. Những lúc gần bên anh nguôi đi đôi chút. Buông ra rồi em lại thấy ngày sao dài kinh khủng, đầy những bực dọc, lo âu. Anh xem cây cỏ còn già, huống gì người. Nhất là những người đáng thương như chúng mình.
Hiền đưa tay chỉ về bên kia suối:
– Anh xem, năm ngoái hàng chuối nước còn non. Cây mập ú nu, ú nần, lá xanh mướt, hoa trổ đều, đẹp rực rỡ bao nhiêu. Giờ nó đã già cỗi. Những bông hoa trổ muộn như không nở nổi, rũ ra. Có lẽ như anh nói mà đúng. Em ngỡ em như cành hoa chuối nước trổ bên kia.
Rõ ràng ý chí của Hiền mạnh hơn tôi nhiều. Xét trên phương diện nào đó, quả tôi kém nàng xa. Khi lòng đã quyết thì nhớ mãi, không phút giây nào xao lãng, nguôi ngoai. Còn tôi, tình yêu của Hiền đem đến cho tôi quên đi nhiều thứ, trở thành cầu an hưởng lạc, quên mất những lời thách thức và số phận mình. Hèn! Con trai như vậy là hèn. Tôi xấu hổ với Hiền và thầm mắng mình như vậy.
Tôi chép miệng:
– Vậy là mai em đi rồi. Không biết đến chừng nào..
Hiền ngắt ngang câu nói:
– Anh, nè!
Rồi nàng cười thật tươi, mắt long lanh, âu yếm nhìn tôi:
– Lâu nay anh thường băn khoăn, lo sợ cho em, chỉ cần mong sao cho em có dịp thoát khỏi nơi đây. Bây giờ dịp này đến rồi đó. Anh cười với em một cái thật tươi đi.
Tôi cười, gắng gượng mà cười. Hiền nói tiếp:
– Em đi chuyến này, có nghĩa là em về luôn Sài Gòn đó. Em về trước. Em sẽ đi học lại để chờ anh. Rồi một ngày nào đó có dịp anh lại về. Chúng mình sẽ làm đám cưới muộn ra mắt bà con họ hàng. Từ đó vợ chồng mình hoàn toàn hạnh phúc, sum họp với nhau cho đến tóc bạc răng long. Phải không anh?
– …
– Tương lai mình rạng rỡ biết bao nhiêu! Em sẽ sinh cho anh một đàn con thật mũm mĩm, dễ thương. Hàng ngày, cha con dẫn nhau đi dạo phố phường. Vui biết bao nhiêu, hén anh? Nhưng mà… nhưng mà… em về trước một mình, em nhớ thương anh, chắc em cũng chẳng học hành gì nổi. Hồn em, anh bắt mất, anh giữ lại ở đây nè.
– Còn anh? Hồn anh nó có ở đây đâu.
– Nhưng nay mai rồi anh cũng có dịp thoát về với em mà. Em tin chắc không lâu đâu. Mình chỉ xa nhau có một thời gian ngắn thôi.
– Chắc gì…
– Sao không chắc? Phải chắc mới được. Đức tin của em mạnh lắm.
– Tin là một chuyện, hy vọng là một chuyện, còn thực tế lại là một chuyện khác.
– Anh nói! Có tin, có hy vọng mình mới phấn đấu, mới sống được chứ anh. Anh đã chẳng dạy em như vậy hay sao? Trước kia anh an ủi em khuyến khích em, dạy em tin tưởng, lạc quan, phải biết hy vọng, giờ anh lại… Ế lêu lêu! Anh xấu lắm.
Nàng phá lên cười làm tôi phải bật cười theo:
– Em nói phải chứ? – Hiền hỏi.
– Ừ, phải!
– Thôi hén! Bỏ chuyện đó đi? Nghe em tính nè!
– Tính gì?
– Mai em về B2 nhập vào Đoàn Văn công. Trễ lắm là ba hôm sau, em theo Đoàn Văn công về bên Khu B. Chắc chắn trăm phần trăm là phải đi qua hai con lộ chiến lược.
– Đúng. Đường 16 và đường 13. Đường 16 là đường Bình Dương đi Phước Thành, Đồng Xoài, Phước Long. Đường 13 là đường Bình Dương đi Bình Long, Lộc Ninh, Hớn Quản sang Lào.
– Đó! Em còn biết đường dây giao liên qua lộ còn phải đi ngang qua ấp chiến lược và Khu Dinh Điền. Nếu qua lộ ban ngày em sẽ cố đi thụt lại phía sau. Trong khi mọi người hối hả chạy qua lộ em sẽ núp lại một chỗ nào đó trông chừng nào biết chắc chắn không còn ai tìm kiếm nữa thì em men ra đường, đi xuôi theo lộ chừng vài cây số ở đó chờ xe đò đón về Sài Gòn.
– Nếu qua lộ ban đêm?
– Dễ ợt hè! Dễ hơn ban ngày nhiều lắm. Em cũng đi sau, tạt qua bên đường núp lại. Hay lúc ngang ấp chiến lược, em làm bộ sứt quai dép đi sau rồi lủi vào xóm nhà của đồng bào. Qua bữa sau em ngụy trang thành đồng bào địa phương ra đường đón xe.
– Tuy vậy, dù ngày hay đêm gì cũng không dễ như em tưởng. Em phải bình tĩnh, sáng suốt, biết tuỳ cơ ứng biến mới được. Như em đã thấy, cách thức đi đường, Cảnh vệ đường dây bao giờ họ cũng chia làm ba tổ. Tổ bám đường, gác đường, tổ theo khách và tổ sau cùng đi đoạn hậu để kiểm soát. Em mà có cử chỉ gì bất thường họ sẽ để ý ngay. Họ sẽ theo dõi, kèm sát một bên, vô phương cạy gỡ gì được.
– Em biết chứ! Nhưng anh tin em đi! Em đủ khôn ngoan để lừa họ, qua mặt họ.
– Ví dụ?
– Ví dụ như em vờ trặc chân, đi lẹ không được, nhường họ lên trước, em theo đuôi phía sau. Em nhờ họ mang dùm cái bồng quần áo, đồ đạc để họ tin.
– Họ không chịu qua mặt, cứ bắt em đi trước thì sao?
– Lo gì anh. Lúc tới trạm, sửa soạn qua đường, «ngoại giao» trước em, «ga-lăng» họ, họ híp mắt ra rồi. Họ híp mắt họ mới hổng thấy đường, hổng để ý…
Đàn bà con gái, sử dụng tới vũ khí đặc biệt của họ thì nguy hiểm thật. Đàn ông con trai vẫn biết vậy mà cứ mắc móp họ như thường.
Hiền để tay lên ngực tôi:
– Anh cho phép em làm vậy hén? Hổng được ghen à!
– Ghen chó gì được mà ghen.
– Vậy thưởng em đi!
– Ừ!
Và tôi cúi xuống…
Đến giờ ăn chiều, tôi và Hiền lại dìu nhau về. Anh chị em 195 chưa ai hay tin Hiền được thuyên chuyển công tác, ngoại trừ Hai Minh, tôi và Hiền. Anh Cảnh vệ B2 mang thư quyết định, cũng chưa biết sự kiện trên, nếu biết, anh ta đã ba hoa thiên địa với chị em lúc mới đến rồi. Đàng này anh ta làm thinh tức B2 chả nói gì cho anh ta biết, anh ta chỉ có bổn phận mạng thư đi và chờ trả lời thôi.
Đường ra rẫy phải đi ngang nhà tôi ở nên tôi và Hiền vừa về đến sân gặp Minh vừa xách ca muỗng từ thềm bước ra. Minh cười nói oang oang:
– Chà! Tôi tưởng người ta mải mê tâm sự không cần ăn cơm chớ!
Hiền dí dỏm:
– Đói chết anh Hai. Đói nó gầy ra hết đẹp làm sao người ta cho mình ca hát.
– Ờ, nè chị! Làm gì ăn cơm rồi chị cũng phải viết cho tôi một bản tự kiểm.
– Ủa …
– Ủa gì! Nguyên tắc nhà nước như vậy mà! Mỗi khi được thuyên chuyển đến đơn vị mới phải mang theo đầy đủ hồ sơ cá nhân từ đơn vị cũ đến chớ! Một bản lý lịch có nhận xét của thủ trưởng đơn vị nè. Một bản tự kiểm viết tay, có ghi lời phê, nhận xét của tập thể và đề nghị của thủ trưởng nè. Sau cùng mới là quyết định thuyên chuyển. Thiếu những cái đó, đơn vị mới ai chịu nhận?
– Tôi chỉ mới có quyết định không hè, anh Hai!
– Vậy chị phải viết bản tự kiểm. Lý lịch của chị thì chốc nữa tôi sẽ trao lại cho chị giữ. Đáng lẽ, theo nguyên tắc thì tôi không có quyền đưa lý lịch cho chị xem mà phải bỏ vào bao thư, trao cho anh Cảnh vệ B2 mang về B2 đưa cho Đảng Uỷ. Có vậy mới giữ được bí mật. Nhưng… mình ở đây, cần gì. Tôi sẽ ghi nhận xét tốt cho.
– Xin cảm ơn anh Hai!
– Còn giấy giới thiệu Đảng, Đoàn thì chị không phải Đảng viên, cũng không đoàn viên thì coi như không thành vấn đề.
– Viết bản tự kiểm như thế nào, anh Hai? Tôi chưa biết, cũng chưa viết lần nào. Đâu, cách thức ra sao?
Minh cười:
– Vậy là chị «dở trăm»! «Dở ngàn» chứ không phải «dở trăm» là đằng khác. Chiến sĩ cách mạng mà không biết viết bản tự kiểm!
Hiền nguýt dài:
– Vậy chớ anh có dạy lần nào đâu?
– Nói chơi với chị chứ dễ ợt hè! Bản tự kiểm tức là tự kiểm thảo đó. Tự mình kiểm thảo, nhận xét phân tích lấy những ưu khuyết của mình dựa vào sáu điểm. Chị nhớ cho kỹ nhé! Một là tư tưởng. Tư tưởng có an tâm công tác hay không? Có giao động diễn biến như thế nào thì ghi ra.
Hai là đoàn kết. Xem coi trong thời gian qua mình có hoà mình với tập thể không? Có đụng chạm mất đoàn kết với ai không? Tập thể có cảm tình với mình không? Cá tính của mình ưu khuyết ra sao? Ba là công tác. Tự mình nhận xét xem tinh thần công tác của mình như thế nào. Tích cực hay lười biếng? Kết quả công tác thời gian qua? Có ngại khó, ngại khổ, ngại hy sinh, có xung phong gương mẫu? v.v…
Ngưng một chút lấy giọng. Minh tiếp:
– Bốn là kỷ luật. Ở phần này tự xét xem mình có tinh thần kỷ luật không? Có chấp hành tốt nội quy kỷ luật, lệnh của trên đề ra? Đã bị khiển trách, khen thưởng ra sao? Năm là tiết kiệm. Tự mình nhận xét phê phán lấy mình có tinh thần tiết kiệm của công, bảo vệ tài sản của Đảng hay chểnh mảng, lãng phí. Ưu khuyết về mặt này như thế nào. Sáu là học tập. Xem mình có tinh thần học tập, tinh thần cầu tiến không? Siêng hay lười. Học thì có ba cái: học văn hoá, học chính trị, học chuyên môn kinh nghiệm. Mình có đẻ ra đường sáng kiến nào hay ho không? Đó, đại khái là vậy.
Hiền lè lưỡi:
– Anh nói gì dài quá tôi quên hết rồi.
– Nữa! Gì mà quên. Chị cứ nhớ 6 điểm vầy là ăn tiền. «Tư, đoàn, công, kỷ, tiết, học» Tư là tư tưởng, Đoàn là đoàn kết, Công là công tác, Kỷ là kỷ luật, Tiết là tiết kiệm, Học là học tập.
Hiền lẩm bẩm lập lại:
– Tư, đoàn, công, kỷ, tiết, học. Rồi, nhớ rồi anh.
– Viết xong chị phải ký tên ở dưới nghe.
– Ủa phải ký tên nữa sao?
– Ký chớ! Ký tên để người ta mới chấp nhận là do chị tự tay viết ra chớ. Còn vào đầu chị phải viết tựa là Bản Tự kiểm rồi đề ngày tháng ở trên xuống hàng phải viết tên họ rồi… này! Đại khái như sau: «Tôi tên là Nguyễn thị B. cấp bậc: chiến sĩ, chức vụ: chiến sĩ thuộc A1, B195, U.50, trong thời gian công tác tại đơn vị B195 từ ngày, tháng, năm 1962 đến ngày tháng, năm 1964 xin tự kiểm như sau » Một, Tư Tưởng, vân vân. Hai: Đoàn kết, vân vân. Vậy đó!
Hiền lắc đầu:
– Rắc rối quá. Nghe anh nói sơ qua cũng đủ nhức đầu rồi!
Tôi cũng nghe nhức đầu như Hiền. Cái trò tự kiểm này quả là một hình thức kiểm soát quá chặt chẽ. Chặt chẽ đến đáng sợ. Người ta muốn hiểu, muốn biết chi li từng tí, từ tư tưởng, hành động, việc làm, cá tính của từng cá nhân.
Minh lại cười:
– Vậy mà chị cho là nhức đầu sao? Đáng lẽ, đúng theo thủ tục, chị viết bản tự kiểm xong rồi chị phải đem ra đọc từng điểm trước một buổi họp toàn đơn vị cho tập thể nghe. Kế đó tập thể xúm lại nhận xét, phê bình từng điểm, góp ý kiến thêm cho đầy đủ. Một mặt, giúp đỡ sự thiếu sót của chị. Một mặt kiểm tra lại những điều chị viết có thành khẩn, có đúng không. Tôi phải tóm tắt những ý kiến của tập thể ghi thêm phía dưới bản tự kiểm cùng ghi nhận xét của Đảng, của đơn vị. Chớ đâu phải chị viết xong là xong đâu. Nhưng trường hợp đặc biệt, làm cái trò đó thêm cực chớ… chẳng ra làm sao.
Tôi muốn dành thì giờ đó để anh chị được tâm tình với nhau cho thỏa mãn trước khi chia tay. Thông cảm mà!
Hiền thở dài sườn sượt:
– May nhờ anh thông cảm cho chớ bắt Hiền làm đúng theo thủ tục anh nói mất ít lắm cũng hai ký lô thịt.
– Cái kiểu tự kiểm chung chung vầy còn đỡ đó chị. Chứ còn kiểu làm bản tự kiểm đặc biệt khi gặp phải một khuyết điểm hệ trọng nào, cái đó mới đáng sợ. Vừa tự phê, vừa phân tách nguyên nhân, ảnh hưởng, vừa nhận xét, vừa phản tĩnh, thành khẩn ăn năn thì chị xem, tay nào vô phúc bị bắt làm bản tự kiểm có nước khóc luôn.
Nghe Minh giải thích, tôi chợt nhớ đến Duyên ở bệnh viện G2, ngày tôi mới từ đồng bằng lên đến B2, bị sốt rét đưa đi điều trị tại đây. Duyên làm vỡ cái ống nhiệt kế. Đúng ra Duyên không làm vỡ mà do bệnh nhân làm vỡ, nhưng trách nhiệm Duyên phải bồi thường ống nhiệt kế, còn phải làm bản tự kiểm.
Như vậy, cái kiểu bản tự kiểm đặc biệt mà Minh vừa nói là kiểu bản tự kiểm Duyên đã làm.
Tiếng cười của anh chị em dưới nhà ăn vọng đến vui vẻ làm sao. Tôi nhắc Minh:
– Thôi, mình đi ăn anh Hai!
– Ừ! Đi! Chị Hiền nhớ dùm nhé! Nhớ viết bản tự kiểm. Kệ! Chị viết đại khái, tóm tắt cũng được. Nếu không có, không những chị bị cạo mà tôi còn bị cạo sát da hơn.
Trời hửng sáng. Chim hoành hoạch mồng bắt đầu hót những tiếng rời rạc đầu tiên trên ngọn bằng lăng bên kia suối.
Tôi thảng thốt, buột miệng:
– Trời sáng rồi, em!
Hiền vẫn ôm chặt lấy tôi, không nhúc nhích. Thỉnh thoảng từng giọt sương đêm đọng trên lá lồ ô rơi, độp xuống nóc chòi, dội rõ mồn một trong không gian im vắng. Da thịt nàng nóng hổi, ấm áp chuyền sang tôi. Từng tiếng tim đập nhẹ, từng hơi thở mơn man nghe thơm như mùi hoa dạ lý dường ve vuốt cuốn chặt lấy tôi trong những phút chơi vơi, sau cùng của một đêm hạnh phúc chập chờn ngắn ngủi.
Người ta thường nhắc đến câu: «Có thức đêm mới biết đêm dài.» Sai rồi. Không đúng nữa rồi! Hai đứa tôi thức trắng đêm nay, sao trời mau sáng thế? Tôi vẫn tỉnh như sáo sậu dù mắt có hơi hoa đôi chút. Đêm nay ngắn quá mà!
Tôi bàng hoàng, thì thầm vào tai Hiền, lặp lại:
– Trời sáng rồi em!
Tiếng nàng nghe như trong mơ:
– Sáng rồi sao?
– Nhanh thật! Vậy là chúng mình sắp xa nhau rồi.
– Đừng nói, anh! Anh ôm chặt lấy em đi!
Trời sáng dần. Nắm trong chòi nhìn qua kẽ lá lồ ô rậm rạp tôi nhìn thấy màn sương mù trắng đã che lấp rẫy hoa màu. Gió sáng bắt đầu khua xào xạc trên ngọn lồ ô. Tiếng nước rơi lộp độp mau hơn như một trận mưa rào đi qua. Tôi giở mí tắm đắp bằng nỉ mỏng. Ngoài trời nghe lạnh.
Không thể dần dà được nữa, hai đứa hôn nhau một chiếc hôn thật dài rồi buông nhau ra, lồm cồm ngồi dậy. Tấm nylon cao su mỏng trải trên nền đất làm chiếu, nhăn nhíu gom vào giữa.
Tôi và Hiền, hai đứa lo thu dọn đồ đạc để vào nhà. Lặng thinh và buồn nản.
Chợt Hiền hỏi tôi:
– Nếu em chết thì sao, anh?
Tôi ngạc nhiên, nhìn sững nàng. Hiền cũng nhìn tôi với nụ cười buồn, gắng gượng trên môi:
– Sao bỗng nhiên em thấy trong đầu em nó kỳ kỳ, lo lo. Em nghĩ tới một cái gì bi quan, chết chóc. Cái cảm giác đó lạ lắm…
– Bậy! Em đừng nghĩ bậy…
– Không, em đâu có nghĩ gì. Tự nhiên em rùng mình một cái rồi cái cảm giác đó nó xuất hiện. Lạ hết sức. Nó bàng hoàng, ngây ngây làm sao ấy!
– Có lẽ mình bị ám ảnh vì chuyện chia ly, chuyện hạnh phúc lứa đôi và nhất là sau nhiều ngày tháng bị chôn chặt ở bên bờ Đồng Nai Thượng này. Tuy vậy chứ, khó chết lắm em. Trời vẫn thương tụi mình mà!
Tôi dẫn Hiền ra khỏi chòi. Hai đứa đi sóng đôi theo đường mòn vào nhà. Qua một đêm không ngủ, người ta nghe nhẹ nhõm, đầu trống rỗng và bước chân như xiên vẹo khập khiễng. Ánh sáng của buổi bình minh trở nên chói chang, cay mắt.
Tôi nhắc Hiền:
– Chuyến này em đi, xem như là gặp được cơ hội tốt, đáng giá ngàn vàng nhưng em nhớ đừng liều lĩnh em nhé! Phải cân nhắc tình hình, suy tính cho cẩn thận. Em về đến Sài Gòn rồi em nhớ đến nhà anh báo tin cho Cúc, Dũng nó biết. Nếu má có lên chơi, em nhớ chăm sóc thay anh, và nói cho ba má yên lòng. Ba má với mấy em sẽ vui mừng, sung sướng khi biết chúng mình nên vợ chồng, thương yêu nhau.
Tôi chỉ nói được vậy, rồi thôi. Cái giờ phút chia tay gần kề, nhất là sau một đêm thức trắng, những câu nói dự định những ý nghĩ tràn ngập ở buổi chiều hôm qua bỗng nhiên bay đi đâu mất sạch. Sự sáng suốt thường ngày cũng không còn.
Ăn sáng xong, anh chị em đi ra rẫy cả. Hai Minh đưa cho Hiền bản lý lịch cũng như trả lại Hiền bản tự kiểm có nhận xét phía dưới. Hai Minh cùng theo tôi đưa Hiền và anh Cảnh vệ B2 lội qua suối. Suốt trên quãng đường đưa tiễn, không ai nói với ai được câu nào.
Đến đường lớn, tất cả đều dừng chân lại. Hiền chia tay ra bắt tay Hai Minh. Có lẽ là cái bắt tay đầu tiên của nàng tại chiến khu này:
– Cảm ơn anh Hai nhiều lắm. Chúc anh Hai ở lại mạnh. Trong thời gian qua, nếu Hiền có lầm lỗi gì với anh Hai, xin anh Hai tha thứ cho. Lần đi này chắc là vĩnh biệt, không chắc có còn gặp lại anh Hai và anh chị em B195 mình…
Hiền vừa nói vừa rưng rưng nước mắt, Minh cố cười to, cố tự nhiên trong khi xúc động vờn lên đôi mi ươn ướt:
– Bậy chị! Tạm biệt thôi chớ! Thế nào chị cũng còn trở lại Khu A này ca hát cho tụi tôi nghe nữa chớ. Phải không chị? Tôi cũng xin chúc chị thượng lộ bình an và…
Minh ngập ngừng rồi ngưng hẳn. Minh cười lớn:
– Chúc chị được gặp nhiều may mắn.
Tôi bàng hoàng, xúc động đứng trơ người ra. Hiền quay sang tôi. Hai hàng nước mắt chảy dài, tuôn xuống khoé miệng. Mặt nàng bỗng xanh xao hẳn ra. Đôi mắt thẫn thờ, sâu thẳm, dại đi. Môi nàng mấp máy nhưng không thốt được lời nào.
Nếu không giữ kịp và không nhớ ra rằng bên mình còn có anh Cảnh vệ B2, còn có Hai Minh thì tôi đã ôm chầm lấy Hiền. Tôi thấy đầu óc quay cuồng. Không đứng vững. Hình ảnh của Hiền của bị nhoà đi vì nước mắt. Tôi bối rối, lắp bắp:
– Em… đi!
Tôi chỉ nói được vậy. Hiền quay mặt cúi đầu thất thểu bước đi. Bóng nàng nhoè ra, lớn hẳn lên với chiếc bồng xám trên lưng giữa màu đục nhờ của khu rừng không chút nắng.