Chương XI TRƯỞNG TRẠM A1
Hiền đi được mười tám ngày thì tôi cũng nhận được quyết định thuyên chuyển do Hai Cà thủ trưởng U.50 ký tên, cử tôi làm trưởng trạm giao liên A1 đóng ở Suối Đá. Thay cho đồng chí trưởng trạm cũ về đảm nhiệm công tác khác ở C113 tức Đại đội phụ trách đường dây giao liên Khu A.
Thật là bất ngờ. Tôi không hiểu mình nên vui hay nên buồn nữa đây. Hiền đã đi rồi. Hiền đã đi rồi. Hiền đi, nàng mang theo cả niềm vui và cả một phần sức chịu đựng kiên nhẫn ở trong tôi. Có lẽ hôm nay Hiền đang ngất ngưởng ở Sài Gòn hàn huyên vui vẻ với gia đình nàng và cả gia đình tôi.
Tôi tính nhẩm, sau khi đến B2 trễ lắm là vài ngày. Đoàn Văn công của nàng khăn gói lên đường sang Khu B. Hai ngày kế tiếp đã đến đến đường 16, nếu đi ngả Phú Giáo Phước Thành. Và ba ngày đến đường 13. Dù đi ngõ Phước Sang hay Phú Giáo gì cũng vậy. Đường đi về Khu B, Minh đã kể rành rọt cho tôi nghe.
Với quyết tâm bằng mọi cách về Sài Gòn cho kỳ được của Hiền, không có gì trở ngại xảy ra, chắc chắn Hiền có mặt ở Sài Gòn hơn mười ngày nay. Còn nếu có trở ngại nào đó thì… sao nhỉ?
Tôi lo lắm. Tôi muốn được biết tin, nhưng suốt 18 ngày qua đâu có ai biết gì về chuyến đi của Đoàn Văn công đó.
Bây giờ, tôi được quyết định thuyên chuyển. Tưởng thuyên chuyển về đâu chứ Suối Đá với đây chỉ cách nhau vài giờ đường rừng, cũng thuộc phần đất Đồng Nai Thượng. Tình hình có thay đổi gì khác hơn đâu. Cơ hội? Chỉ còn là một hy vọng muộn màng.
Ở phương diện khác, quyết định thuyên chuyển trên, chứng tỏ cho chúng tôi biết rằng thời gian cải tạo lao động cả năm dài của tôi, đối với Đảng uỷ Khu A có kết quả tốt. Và người làm cho Đảng uỷ Khu A có nhận xét tốt về tôi, chắc chắn phải là Hai Minh.
Tuy Hai Minh không bàn, không nói gì với tôi điều gì nhưng tôi biết chắc rằng trong âm thầm, bằng mọi cách, Hai Minh cố giúp đỡ tôi làm cho tình thế được sáng sủa hơn. Chỉ nội cái việc hàng tháng, trong bản báo cáo chính trị, kết quả công tác của đơn vị gửi về B2, Hai Minh ghi một câu nhận xét «Vũ Hùng công tác tốt, tinh thần trách nhiệm cao, tư tưởng an tâm phấn khởi được sự thương mến của tập thể».Bấy nhiêu đó trong nhiều tháng cũng đủ gây nên một biến đổi rồi.
Và quyết định này còn nói lên hai ý nghĩa. Một là chiến sĩ hạng bét Vũ Hùng được đề bạt «lên lon» cán bộ Tiểu đội. Hai là chuyện yêu đương giữa tôi và Hiền người ta chưa biết gì cả.
Ngày đi, Hai Minh săn được một con hươu sao, tổ chức liên hoan tiễn tôi về đơn vị mới. Anh chị em trong đơn vị cũng lưu luyến bày tỏ cảm tình thân thiết. Tôi cảm động vô cùng.
Suốt hơn một năm dài theo cách mạng, qua nhiều cơ quan, nhiều đơn vị, chưa nơi nào tôi thấy tình cảm mình có thể xúc động được như nơi đây.
Hai Minh đưa tôi đến trạm A1 Suối Đá vào buổi sáng. Thái – nguyên trưởng trạm – báo cho tôi biết để chiều sẽ bàn giao công việc cũng như tập họp anh chị em trong đơn vị giới thiệu tôi.
Buổi trưa, gần đến giờ ăn, tôi xuống bếp thấy ở đây ăn gạo trắng. Tôi ngạc nhiên hỏi Thái, người trưởng trạm cũ:
– Anh Thái! Ở đây mấy anh ăn toàn gạo trắng, sướng thật.
Thái cười, giải thích:
– Cũng không toàn gạo đâu anh! Chế độ 10 mà! Khẩu phần mỗi người 10 lít một tháng.
– Té ra bữa cơm hôm nay nấu trọn lon sữa bò. Khẩu phần trong ngày?
– Đúng! Đãi anh đó!
– Ở B195 cũng được ăn gạo chế độ 10 đâu hơn tháng nay.
– Còn mấy tháng trước?
– Bắp kè với củ chụp!
– Bên này được ăn gạo chế độ 10 từ ba bốn tháng nay. Mình thì vậy. Còn các đồng chí khác, cán bộ mùa thu theo đường dây xã hội chủ nghĩa từ Bắc về Nam được hưởng chế độ đặc biệt. Chế độ 30. Mỗi ngày một lít đều đều.
– Ở đây, mình phải cấp gạo cho khách?
Thái nhăn mặt:
– Đã cấp gạo còn phải cung cấp thực phẩm vật dụng. Căng-tin của mình luôn luôn phải có cá hộp, thịt hộp, trứng, khô, thuốc, giấy, trà, đường, sữa, tiêu, hành, tỏi, ớt, mỡ, dầu, xà-bông hàng trăm thứ. Mà quân số A1 của mình chỉ có mười mấy ngoe. Lớp nào lo tải gạo; lớp nào lo tải thực phẩm rồi giao liên đưa rước khách. Ứ hơi chứ phải chơi sao anh. Lúc nào anh chị em ít sốt còn đỡ. Mấy lúc sốt nhiều, muốn khóc luôn.
– Nhưng bù lại còn có vấn đề tiếp phẩm…
– Kể cũng đỡ thiệt. Nhờ có chính sách chiếu cố cán bộ mùa thu, mình cũng có phần được hưởng nhờ. Mấy cái món trà, đường, sữa, thuốc thơm thì đây không thiếu. Nhưng tốn tiền nhiều quá. Sinh hoạt phía nhà nước phát cho tháng nào hết sạch tháng đó.
– Vậy chớ có 40 đồng, nhằm gì anh.
– Có mấy anh chị em bên 195, tháng nào còn nguyên tháng đó.
Tôi cười:
– Còn nguyên mà làm gì, anh? Thiếu thốn mọi thứ, bứt rứt thấy mồ. À, anh! Tiếp phẩm mình xuống đồng bằng tự mua lấy, tải về chia lại cho khách hay sao?
– Không, anh! Đi xuống B4, tới mấy cái kho thực phẩm ở Mã Đà chia lại thôi. Đi đồng bằng cả nửa tháng mới được một chuyến hàng, mình đâu có người làm được chuyện đó. Đi Mã Đà, mình chỉ mất bốn ngày.
Thái đột ngột hỏi tôi:
– Lâu lâu ăn thử một bữa cá mòi hộp, chiên củ hành chơi nghe anh?
Nhìn thau đựng đọt khoai mì luộc rồi dĩa đậu phộng kho với dĩa mắm ruốc xào nằm yên trên bàn, tôi bối rối không biết trả lời sao. Trả lời «không» hoá ra đạo đức giả, không thực thà mà «ừ» thì nói kỳ quá.
Ăn cá mòi thì dĩ nhiên Thái phải xuống căng-tin chia lại với quản lý, tốn tiền Thái. Buổi đầu, như vậy anh em hiểu lầm mình vòi vĩnh thì sao?
Tôi bối rối ậm ừ, không trả lời sao cả. Dù vậy, Thái vẫn đứng lên:
– Anh ngồi đây chờ tôi chút! Tôi xuống căng-tin chia cá mòi với củ hành. Tôi lên liền,
Thái bước đi ra sân. Vài phút sau Thái trở lại với hộp cá mòi Phan Thiết trên tay và một củ hành tây:
– Xin chị nuôi tí mỡ, tí tiêu là mình có một dĩa cá mòi chiên thơm phức rồi.
Thái vào bếp lấy rựa khui hộp cá mòi. Tôi phụ với Thái chẻ củ hành. Chị nuôi đứng bên bếp nhìn chúng tôi cười tủm tỉm.
Chiên xong, Thái đem lại bàn thì anh em cũng lò dò kéo tới ăn trưa. Chúng tôi vừa cầm đũa, chưa kịp ăn, bỗng có tiếng chân chạy thình thịch ngoài đường mòn vào. Chúng tôi cùng nhìn ra. Một cô gái mặc bà ba đen, đầu cột khăn, lưng mang bồng hiện đến ở đầu nhà ăn. Cô ta hổn hển gọi:
– Anh… Thái ơi! Anh Thái!
Thái đột ngột đứng dậy:
– Gì vậy? Gì vậy chị Đô?
Thì ra cô này là cô Đô. Nước da ngăm ngăm. Dáng người dong dỏng cao. Hai ống quần xăn lên đến gối. Ngực cô ta rung rinh theo bước chân đi.
Đô đứng lại ngoài sân nhà ăn, vừa thở, vừa nói:
– Có… một đồng chí… khách… gần chết rồi!
– Chị mới dẫn khách về tới à?
– Dạ!
– Đâu? Đồng chí khách đó đâu rồi?
– Khiêng võng về tới bây giờ? Đồng chí khách bị bệnh từ đêm hôm qua ở bên kia sông Đồng Nai.
Thái nhăn nhó bước ra khỏi bàn ăn:
– Chà! Phải cho khiêng ngay sang bệnh xá G3. Mình ở đây đâu làm sao được? Đi, đi anh Hùng! Mình lên xem qua một chút đi.
Tôi bước ra, theo Thái đi lên văn phòng. Đoàn cán bộ khách do một bảo vệ của trạm dẫn cũng vừa về đến. Đi đầu là cậu bảo vệ. Kế đó, chiếc võng kaki màu cứt ngựa cột dọc theo một đoạn lồ ô dài nằm trên vai của hai cán bộ khác. Chiếc võng nặng trĩu, đong đưa theo bước chân chệnh choạng của người đi trước. Dù có chiếc gậy chống, vẫn không sao giữ được thăng bằng.
Đi theo sau chiếc võng là một đoàn cán bộ trên ba mươi người. Người nào cũng đội nón vải màu xanh. Súng ngắn lủng lẳng bên hông. Chiếc ba lô to tướng trên lưng. Kẻ mặc quân phục, người mặc bà ba đen, mồ hôi nhễ nhại đứng xúm xít vào nhau.
Thái tiến ra, lên tiếng:
– Chào các đồng chí! Các đồng chí mới đến. Đồng chí này bị bệnh sao vậy?
Phía sau, một cán bộ tách khỏi đám đông, vượt lên trước:
– Ngộ độc! Đồng chí ấy bị ngộ độc. Tôi là trưởng đoàn
– Chào đồng chí! Ngộ độc gì vậy, đồng chí?
– Ngộ độc khoai mì!
– Trời đất! Ngộ độc khoai mì thì vô lý quá! Tụi tôi ở đây, ăn khoai mì thay gạo, tháng này qua tháng kia, cả năm trường, có ai ngộ độc bao giờ đâu?
– Tại đồng chí không phải chuyên môn nên đồng chí không biết đó thôi.
Thái cười tủm tỉm:
– Không cần chuyên môn cũng thừa biết là khoai mì không độc.
Anh cán bộ nhíu mày, phật ý.
– Đồng chí nói không đúng!
– Tại sao đồng chí biết tôi nói không đúng?
– Biết chứ! Bởi vì tôi là bác sĩ mà! Trong đoàn này, hơn ba mươi đồng chí chúng tôi đều là bác sĩ, y sĩ, dược sĩ. Và đồng chí này bị ngộ độc là đồng chí dược sĩ cao cấp.
Thái ngượng nghịu, xuống nước rõ rệt:
– Bây giờ … bây giờ làm sao, đồng chí? Đưa đi bệnh xá G3 ngay bây giờ…
– Đồng chí xem kìa! Muộn rồi!
– Sao? Bộ không cứu chữa được nữa sao, đồng chí bác sĩ?
– Thôi, đồng chí thu xếp chỗ cho anh em nghỉ ngơi rồi mình giải quyết sau.
Thái hướng mắt về phía cậu bảo vệ của Trạm. Cậu ta lên tiếng:
– Mời các đồng chí khách theo tôi!
Anh cán bộ bảo hai người khiêng võng:
– Để các đồng chí kia vào trạm, có hai đồng chí theo tôi, mình khiêng võng vào văn phòng, giải quyết cho xong thủ tục.
Không ai nói thêm câu nào, lặng lẽ bước đi. Cái không khí chết chóc buồn thảm, trĩu nặng đè xuống lòng mọi người.
Một đầu cáng được gác lên chiếc bàn tre giữa nhà. Một đầu nữa được gác lên cây thanh ngang theo hàng cột. Người bác sĩ trưởng đoàn đến bên võng, khom người xuống nắm lấy cổ tay nạn nhân nghe mạch. Đoạn vạch hai mí mắt, đưa tai sờ ngực, sờ mũi. Tôi đứng dựa cột dõi, tâm trạng bâng khuâng cùng cực.
Thái cũng men đến bên võng, thì thầm:
– Còn có hy vọng gì không, đồng chí?
Giọng người bác sĩ rầu rầu:
– Đồng chí xem kìa! Toàn thân đồng chí ấy tím hẳn lại. Đồng tử nở thật to, bất động. Mạch không còn đập. Tình hình thế này, nếu đang tại phòng cấp cứu của bệnh viện 108 Hà Nội, đủ mọi phương tiện cũng không tài nào cứu được.
– Rủi sao mà rủi đến như vậy! Phải hồi mới bắt đầu ngộ độc cứu chữa kịp… may ra.
– Lúc phát hiện được bệnh trạng, chúng tôi đã họp lại hội chẩn cấp tốc, dùng mọi hình thức như cho nôn mửa, thụt tháo, trợ tim mạch, giải độc tố. Chỉ tiếc là khi phát hiện được, độc tố đã lan tràn vào máu. Chúng tôi không có lấy một giọt huyết thanh. Cố gắng lắm chúng tôi mới kéo dài được đến bây giờ. Nếu không đồng chí ấy đã hy sinh từ sáng.
Anh ta ngưng một chút, lau mồ hôi rịn ra trên trán, nói tiếp:
– Đồng chí cũng biết chúng tôi băn khoăn lo lắng, đau xót lắm chứ, nhưng giữa rừng phương tiện cứu cấp có hạn, dù có biết, có tài giỏi đến đâu cũng đành xuôi tay.
– Còn khoai mì làm sao ngộ độc được, đồng chí bác sĩ?
– Đại khái là trong cây khoai mì, trong củ khoai mì sống có một chất mủ trắng mỗi khi lột vỏ, đồng chí thấy nó chảy ra…
– Có! Tôi có thấy.
– Mủ đó chứa một chất át xít, có độc tố nguy hiểm. Khi ta lột vỏ củ khoai mì rửa sạch, coi như không còn chút ái-xít nào nữa. Nếu còn cũng không đáng kể lắm. Rồi khi đem nấu thì nhờ nhiệt độ cao, độc tố đó bị tiêu huỷ, trở nên vô hại. Nhưng để sống, nhất là khoai mì mới đào, mủ hãy còn nhiều mà cạp sống một lúc bốn năm củ, đối với những cơ thể yếu đuối, thiếu sức đề kháng như đồng chí dược sĩ đây vừa mới hết sốt rét, nó là một liều thuốc độc vô cùng nguy hiểm. Thực sự, trong việc ngộ độc khoai mì không phải đơn giản như vậy. Nhưng để đồng chí dễ nắm được vấn đề, tóm tắt đại khái như vậy…
– Nhưng đồng chí dược sĩ có biết khoai mì có chất độc không?
– Có chứ! Đồng chí ấy rất giỏi về dược chất, chuyên môn của đồng chí ấy mà! Các đồng chí dược sĩ là thầy chúng tôi về phương diện này.
Thái giương mắt, băn khoăn, đi lại bàn ngồi xuống:
– Vậy sao đồng chí dược sĩ lại ăn khoai mì sống?
– Chả là hơn tháng nay, sau khi vượt khỏi sông Ba, chúng tôi không mua được gạo, chịu đói dài, ăn uống bất thường, vất vả hết sức. Chiều hôm qua, tụi tôi kiếm được mấy gùi khoai mì. Có lẽ, trong khi chúng tôi xúm nhau lột khoai mì để nấu thì chắc vì đói quá, không chờ được nữa, đồng chí ắt cạp khoai mì sống đến no. Mãi đến lúc hơn hai giờ sáng, đồng chí ấy đau bụng dữ dội, chúng tôi ùa dậy lo cứu cấp thì đồng chí ấy hổn hển cho biết: «Tôi bị ngộ độc khoai mì sống».
Lòng tôi nghe nao nao. Trong tình cảm giữa con người bất cứ sự chết chóc nào cũng là một đau đớn, ngậm ngùi. Huống hồ, suốt bao nhiêu năm xa quê hương, thương nhớ không nguôi, nô nức chờ ngày được trở về gặp mặt lại những người thân yêu, những gì quen thuộc cũ, giờ chân mới đặt những bước đầu tiên lên mảnh đất quê hương miền Nam, niềm vui phấn khởi chưa kịp đến thì ngã lăn ra chết. Chết vì mấy củ khoai mì sống.
Một cái chết lãng, phi lý hết sức. Một cái chết tức tưởi, ấm ức, không thể chấp nhận được với một dược sĩ cao cấp. Dù phi lý, dù tức tưởi, dù không thể chấp nhận, nó cũng đã xảy ra rồi. Nghe sao buồn lặng rưng rưng. Tôi không dám nhìn chiếc võng với một thân thể tím đen, bất động. Thế là xong một kiếp người…
Giọng Thái trở nên lạc lỏng:
– Thôi, các đồng chí xuống trại tắm rửa, lo cơm nước xong đi, rồi mình sẽ liệu. Chúng tôi cũng chưa cơm nước gì.
Ăn cơm xong, tôi theo Thái trở lên văn phòng. Tại đây đã có người bác sĩ trưởng đoàn và hai người khác ngồi sẵn. Thái lên tiếng:
– Ủa, các đồng chí không ăn cơm sao?
– Chúng tôi chưa nấu xong. – Một người nói.
Thái ngồi vào bàn:
– Tôi có ý kiến đề nghị các đồng chí … là dù muốn dù không, khi có một đồng chí khác hy sinh trên đường dây, chúng tôi có một phần trách nhiệm. Đứng về nguyên tắc tổ chức…phải có một cuộc họp điểm kiểm tử vong và thảo luận việc tống táng.
Bác sĩ trưởng đoàn nói:
– Chúng tôi rất đồng ý. Chính chúng tôi có mặt ở đây cũng vì vấn đề đó. Xin giới thiệu với đồng chí, ba chúng tôi đây là Ban Chỉ Huy đoàn đi hôm nay. Đồng chí không đề nghị, chúng tôi cũng đề nghị. Vì trách nhiệm chúng tôi, phải có bản kiểm thảo tử vong báo cáo về Cục Chính Trị R và Quân uỷ.
– Tôi cũng vậy. Tôi cũng phải làm báo cáo gửi về Đảng uỷ Khu A.
Thái đi ra trước hàng hiên gọi to lên:
– Đồng chí Đô ơi! Đồng chí Đô!
Có tiếng Đô «có» ở dưới nhà ăn. Thái tiếp:
– Ăn xong, đồng chí lên đây ngay. Có việc gấp nghe.
Thái quay trở vào:
– Về phía khách thì có ba đồng chí. Ban Chỉ Huy Đoàn và cũng là cấp uỷ Đoàn. Về phía đường dây thì tôi, đồng chí Hùng và đồng chí Đô – đầu tàu chuyển giao liên hôm nay. Cũng xin nói thêm để các đồng chí rõ, đồng chí Vũ Hùng đây vừa được U.50 thuyên chuyển tới sáng nay, thay tôi làm trưởng trạm A1 này. Chúng tôi chưa kịp bàn giao thì các đồng chí đến. Ngày mai trở đi, tôi không còn trách nhiệm ở đây nữa… đi nhận một công tác khác.
Đô ba chân bốn cẳng chạy tới. Thái chỉ góc băng ngồi ở cuối bàn:
– Đồng chí Đô ngồi đây!
Thái tiếp:
– Bây giờ nếu các đồng chí đồng ý, xin một đồng chí khách làm thư ký, ghi biên bản buổi họp.
– Được, đồng chí!
Bác sĩ trưởng đoàn trả lời và lục trong xắc-cốt mang bên hông ra, lấy mấy tờ giấy trắng đưa cho người kế bên.
Thái nói:
– Trước hết, xin đồng chí Đô cho biết sự kiện xảy ra trong phạm vi hiểu biết của đồng chí!
Đô cúi xuống, bẻ mấy ngón tay kêu răng rắc:
– Tôi…tôi là đầu tàu của chuyến giao liên hôm nay. Như thường lệ, sáng sớm hôm nay tôi và hai đồng chí bảo vệ đã có mặt lại địa điểm đổi trực bên này sông Đồng Nai, chờ đoàn khách đến. 6 giờ thì đoàn khách sang sông. Tôi thấy trong đoàn có một bệnh nhân khiêng võng… Khi bàn giao, ký nhận vào sổ trực đường dây với các đồng chí bên trạm I-6 thì được biết trong đoàn khách có một đồng chí bị bệnh nặng, cần phải chuyển cấp tốc về đây để đưa sang bệnh xá G3 cấp cứu. Thế là, tôi hối hả dẫn đoàn đi ngay. Thỉnh thoảng có ngừng lại chờ cho các đồng chí khách thay vai và tiêm thuốc cho bệnh nhân… Phần tôi, chỉ có vậy.
Bác sĩ trưởng đoàn tiếp theo:
– Riêng chúng tôi thì chiều hôm qua khi đến trạm bên kia sông, có gặp mấy đồng bào Thượng gùi mấy gùi khoai mì đi ngang. Chúng tôi gọi lại mua. Họ không bán. Đề nghị đổi gì họ cũng không chịu. Mà chúng tôi thì ăn củ chụp, lá bép chịu trận cả tháng nay rồi, thấy khoai mì mừng hết sức. Cuối cùng, tôi phải tháo chiếc nhẫn vàng 18 ra đổi, họ mới bằng lòng. Tôi chia đều ra cho từng Tiểu đội xúm lột để nấu. Đồng chí ấy bị sốt mấy hôm nay, vừa khỏi, giăng võng nằm bên cạnh đó xem các đồng chí khác lột mì. Có lẽ, sẵn đống khoai mì sống kế bên võng, nên đồng chí ấy thò tay lấy cạp vỏ ăn sống mà không ai để ý nên không thấy. Khoai mì nấu chín xong, vớt ra, tất cả xúm lại ăn. Đồng chí ấy ăn đâu nửa củ gì đó.
Ngưng lại nuốt nước miếng, bác sĩ trưởng đoàn nói tiếp:
– Ăn xong, tất cả chúng tôi đều đi nghỉ. Quãng hơn hai giờ khuya, đồng chí ấy gọi đồng chí nằm kế bên cho biết là đang bị đau bụng dữ dội. Cả đoàn thức dậy. Lúc tôi đến thì thấy mặt đồng chí ấy xanh ngắt, nhăn nhó rên rỉ, lăn lộn thở dốc. Mạch bắt đầu loạn nhịp. Giữa lúc ấy, đồng chí thì thào cho tôi biết là đồng chí đã ăn bốn năm củ khoai mì sống lúc chiều tối, giờ đang bị ngộ độc. Lập tức, chúng tôi mở cuộc hội chẩn cấp cứu, cho nôn mửa, thụt tháo, tiêm thuốc trợ tim mạch, giảm đâu…
Thái lên tiếng hỏi:
– Các đồng chí trạm bên T6 có hay không?
– Tôi có thông báo, nhưng các đồng chí đó đâu có cách nào giải quyết được. Trạm thì không có thuốc gì ngoài thuốc sốt rét và thuốc đỏ. Còn bệnh viện T6 cách xa năm, sáu ngày đường.
– Hèn chi mới sáng sớm mà các đồng chí đã sang sông rồi. Bộ các đồng chí yêu cầu trạm bên ấy đưa đi sớm chứ gì?
– Phải! Vì các đồng chí ấy bảo chỉ có bên này là có bệnh xá gần nhất. Phần sau cùng thì như các đồng chí đã biết.
– Như vậy, Thái nói, trong vấn đề trách nhiệm, về phía chúng tôi, chúng tôi bị đặt trước một việc đã rồi. Đồng chí Đô trong việc dẫn đường cũng đã có tranh thủ thời gian đi nhanh, về sớm. Nếu cần kiểm thảo vấn đề trách nhiệm trong cái chết của đồng chí dược sĩ cao cấp, chỉ có về phía các đồng chí thôi.
– Chúng tôi rất đồng ý ý kiến của đồng chí. Nhưng như các đồng chí đã biết, đó là một trường hợp bất khả kháng. Khi chúng tôi biết được đồng chí ấy ngộ độc thì bệnh tình hết sức trầm trọng nguy kịch. Dù vậy, với phương châm «Còn nước còn tát» chúng tôi đã hội chẩn, đã cố gắng làm hết sức mình với những phương tiện eo hẹp của chúng tôi có. Về phần chuyên môn, chúng tôi sẽ họp cấp uỷ đoàn kiểm thảo với nhau sau. Về phần trách nhiệm chung cũng như thái độ phục vụ thì chúng tôi không thấy có một khuyết điểm nào. Để kết luận, một cách khách quan vô tư, thành thực mà nói, nguyên cớ đưa đến cái chết của đồng chí dược sĩ là tại đồng chí ấy thiếu đấu tranh tư tưởng, biết khoai mì sống ngộ độc vẫn cứ ăn, nóng nảy không đợi chờ. Kế đó, điều kiện cứu cấp, không đủ thuốc men và phương tiện cần thiết như huyết thanh ngọt và các loại thuốc đặc hiệu về giải độc, cũng như dụng cụ phụ thuộc, chỗ nằm, dưỡng khí v.v… các đồng chí đồng ý với nhận xét của tôi chứ?
Không ai nói gì cả. Điều đó có nghĩa không ai phản đối nhận xét trên. Trong hoàn cảnh, điều kiện đó mọi người đều biết, không sao có thể làm hơn được.
Thái thở dài:
– Bây giờ về vấn đề tống táng. Theo chính sách Đảng, mỗi khi có một đồng chí hy sinh, đơn vị phải cấp vải, nylon, chiếu, hòm nhưng chúng tôi ở đây, bất ngờ thế này. hòm nhưng chúng tôi ở đây, bất ngờ thế này… hòm đã không, vải, nylon cũng không nốt… nhưng để tôi cố gắng chạy thử xem.
– Trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ thì đâu nói đến cái chuyện phải thế này hay thế kia, đúng theo nguyên tắc chính qui. Tuỳ theo các đồng chí. Mình biết làm sao giờ?
– Các đồng chí có ý kiến chi thêm không?
Không ai nói gì cả. Mọi người nhìn nhau rồi đứng dậy. Phiên họp kiểm điểm tử vong xem như đã xong. Thái nói câu sau chót:
– Vậy mình giải tán! Các đồng chí về ăn cơm kẻo đói bụng. À, đồng chí thư ký buổi họp, xin đồng chí viết ra làm hai bản. Các đồng chí giữ một, tôi giữ một. Tôi xin một để gửi về Đảng uỷ U.50.
Khách đi hết. Thái gọi quản lý lên văn phòng bàn việc tẩm liệm, chôn cất và việc phân công anh em.
5 giờ chiều, chúng tôi hoàn tất công việc tống táng. Do sáng kiến của anh em, tuy không làm được hòm gỗ nhưng cũng làm xong một cái hòm bằng tre, đóng đinh vuông vắn. Chúng tôi cũng làm lễ truy điệu. Ban Chỉ Huy đoàn đứng ra đọc thành tích, tiểu sử người chết và phát biểu vài cảm tưởng thương xót của mình như một điếu văn.
Thay vì chôn ở gần trạm A1, có lẽ một phần vì ngại gần nhà sẽ tạo nên ám ảnh diễn biến tư tưởng cho đơn vị, một phần muốn được cho mọi người nom thấy nên tập thể A1 đề nghị đem ra đường lớn chôn ở đó, cách xa nhà chúng tôi ở có hơn năm trăm thước.
Đưa tiễn người chết khi hạ huyệt, ba phát súng lục nổ đòn. Những kỷ vật của người chết như hình ảnh, ví tay, nhật ký, đồng hồ, bút máy v.v… được Ban Chỉ Huy đoàn giữ lại để trao về Cục Chính Trị, gửi về gia đình sau này.
Hôm sau, Thái lên đường về C113 nhận nhiệm vụ mới. Nhưng không phải vì thế mà công việc điều khiển công tác ở trạm A1 chỉ có một mình tôi. Ngoài tôi còn quản lý cũ ở đây, được đề cử làm phó trạm.
Công việc của một Trạm đường dây, như «đường dây ông Cụ» này đưa khách từ Bắc về Nam hay ngược lại. A1 chúng tôi chỉ chịu trách nhiệm một chặng đường. Bên kia sông Đồng Nai thuộc trách nhiệm T6. Về phía Nam, tại sông Mã Đà, đã có trạm A2.
Việc điều hành công tác đã có nề nếp cũ, nhiệm vụ của tôi, kể ra thực chẳng có gì đáng kể, ngoài chuyện mỗi tháng làm một bản báo cáo công tác của đơn vị và giải quyết, trả lời những vấn đề liên quan đến khách. Nặng nhất, phải kể là công tác tiếp phẩm, cung cấp cho khách, gạo và những thực phẩm cần thiết ở chặng đường đầu mới bước chân về đến miền Nam.
Theo nguyên tắc tổ chức, công việc nội bộ là công việc của người chỉ huy phó đơn vị. Đối với tôi, ở A1, tôi không quyền đã đành mà cũng không thích, không muốn dính dáng đến vấn đề này. Tôi chỉ là một quần chúng ngoài Đảng, lại được ghép vào thành phần tiểu tư sản trí thức. Người ta đâu có cho phép tôi chen vào công việc lãnh đạo nội bộ đó.
Bởi vì nói đến công tác lãnh đạo nội bộ, là nói đến công tác Đảng, Đoàn, mà một anh chàng không Đảng, không Đoàn như tôi thì quyền gì dám chen vào công việc của họ.
Người ta cử tôi làm trưởng trạm A1 chỉ là một sự dò xét, một thử thách, đặt vật thí nghiệm vào nhiều môi trường để xem phản ứng. Có thế thôi. Kể ra cũng thực buồn cười, khi người ta đặt tôi vào công tác của một trưởng trạm đường dây.
Ở đây chúng tôi có sáu cây súng: 1 K50, 1 Mouilles, 2 carbine, 1 trường Mas, và 1 trường Nga bá đỏ. Số súng này, quân lực B1/U.50 chỉ cấp có hai cây: 1 Mi và 1 trường Mas. Số còn lại, do khách đi trên đường dây – cán bộ mùa thu – trên đường về Nam cho. Vì rằng, bất cứ cán bộ nào được chỉ định về Nam, ngoài súng cá nhân, bắt buộc phải mang còn được khuyến khích mang thêm súng. Khả năng có thể mang nổi bao nhiêu cứ mang. Mục đích làm giàu thêm vũ khí cho miền Nam, miễn đến miền Nam thì thôi. Không bị ràng buộc bởi một nguyên tắc, luật lệ nào. Do đó, trên đường dây, khách có quyền cho các trạm tùy theo cảm tình của mình.
Nhờ vậy, vũ khí được coi như là vũ khí riêng của chúng tôi, ngoài giấy tờ sổ sách và quyền kiểm soát của B1. Ngay đến việc đạn dược cũng vậy, B1 cấp cho mỗi cây súng không quá 20 viên. Mất một viên, sử dụng một viên cũng phải báo cáo nêu rõ lý do.
Lý do chính đáng như phải tự vệ, hoặc trường hợp bất khả kháng thì thôi. Nếu không, đơn vị trưởng phải làm bản tự kiểm, bị khiển trách. Trong lúc mọi đơn vị tĩnh tại của Hậu Cần Khu A tức U.50, súng nào cũng thiếu đạn, ở đây, nhờ xin khách được nên chúng tôi có rất nhiều, tha hồ sử dụng không cần phải báo cáo.
Lợi dụng phương tiện trên, hàng ngày chúng tôi cố thu xếp công việc, gồng gánh cho nhau để truất ra hai người, cho đi săn giộc và các loại thú rừng khác: mển, cheo, heo rừng, min, bò rừng, đặc biệt là hươu theo các bàu ở sông Đồng Nai.* * *
Qua cái Tết đầu năm 1965, đến tháng ba tôi lại được gọi về trình diện tại B1 và U.50, nhận công tác mới. Vậy là nhận xét của tôi trước đây hoàn toàn đúng. Việc Đảng uỷ U.50 «lên lon» cho tôi, đưa tôi đến làm trưởng trạm A1 chỉ là một sự thử thách, thí nghiệm.
Nếu tôi tiến bộ, ngoan ngoãn, trung thành, tôi sẽ được Đảng tín nhiệm và giao tôi những công tác quan trọng hơn. Tôi lại sẽ được «lên lon», sẽ xa Đồng Nai Thượng, sẽ gặp nhiều cơ hội mà tôi đã kiên nhẫn đợi chờ.
Lệnh trình diện lại B1, tức Ban Tham mưu, tức văn phòng Ban Chỉ Huy U.50, nó báo cho tôi biết điều đó. Tuy ngoài mặt tôi cố làm ra vẻ bình thường nhưng trong lòng, tôi mừng vô hạn.
Tôi lên đường vào ngày hôm sau, theo giao liên của trạm đến trạm A2 ở bờ sông Mã Đà. Nghỉ lại đây một đêm với anh em A2. «Người nhà» cả, nên ngoài sự tiếp đón nồng hậu, vui vẻ, tôi còn được anh em cho biết nhiều tin lạ.
Đồng chí thủ trưởng U.50 của tôi tức bí thư Đảng uỷ Khu A, là thiếu tá Hai Cà được Cục Chính Trị cho «lên lon» và thuyên chuyển công tác, đưa sang làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn chủ lực R mới thành lập: Q 764. Trước đây, R có ba Trung đoàn chủ lực là Q 761, Q 762, Q 763 với ám số 271, 272, 273. Ba Trung đoàn này đã được điều động về Bà Rịa, Hàm Tân, Xuyên Mộc để mở «chiến dịch Bình Giả» từ tháng 12-1964 đến nay.
Bây giờ, chủ lực R có thêm một Trung đoàn nữa, mà Trung đoàn trưởng là Hai Cà. Anh em giải thích cho tôi biết, theo quy chế lục quân miền Bắc, cấp bậc thiếu tá tương đương với chức vụ Trung đoàn phó. Trung đoàn trưởng phải là trung tá. Hai Cà được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 764, rõ ràng đó là sự đề bạt, «lên lon».
Trung đoàn này, do sự tập họp giữa Tiểu đoàn D800 của I-1 (quân khu 1) gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Bình Dương, Biên Hoà, Phước Tuy, Bình Tuy với ba Đại đội C101, C103, C116 của U.50 và một Tiểu đoàn mới từ miền Tây đưa lên.
Trước giờ, để bảo vệ Khu A, U.50 có ba Đại đội vũ trang chiến đấu. Nay ba Đại đội này bị R rút đi ra khỏi U.50. Biến chuyển cho Khu A không chỉ có ngần ấy. R ra lệnh giải tán các đơn vị sản xuất tự túc chuyên trồng rẫy của Khu A như C102, C101, C106, C108, B195. Những đơn vị này tập trung lại, thành lập Tiểu đoàn Thanh Niên Xung Phong đầu tiên đi làm công tác vận tải chiến lược, chuẩn bị cho một chiến dịch mới sắp mở ở Khu A.
Rẫy bái, hoa màu sản xuất lâu nay, xem như không cần đến nữa. Bởi tình hình miền Nam bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới.
Việc trồng rẫy, chẳng có nghĩa gì hết, chẳng giải quyết được gì hết cho nhu cầu vĩ đại của chiến trường sắp tới.
U.50 bây giờ không còn là U.50 nữa, mà được đổi thành Đoàn 30. Việc thay đổi ám số đó để giữ bí mật, địch không biết đó là đơn vị nào, ở đâu, nhiệm vụ tính chất thế nào. Để thay cho Hai Cà, Cục Hậu Cần R cử thiếu tá Mười Thiện từ Cục Hậu Cần bên Khu B sang thay.
Tình hình Khu A, nay rộn rịp biến chuyển dữ dội. Bệnh viện G2 được phát triển thêm, mở rộng ra trở thành Bệnh viện 16 trung tâm Khu A.
Bệnh xá G3 ở Bù Cháp Đồng Nai Thượng cũng bị giải tán kéo về gần Sông Bé, được bổ sung thêm thành lập bệnh viện Đội 17.
Tôi ngồi nghe mà lòng ngơ ngẩn, hoang mang. Từ A1 về đây, đi phà một buổi đường rừng, thế mà cho đến sáng nay trước khi lên đường tôi chẳng hay biết gì hết. Không ai nói cho tôi nghe gì hết về tình hình biến chuyển đó. Tôi chợt nghĩ đến lệnh trình diện tại B1 của tôi.
Tôi sẽ nhận công tác mới gì đấy? Tôi sẽ làm gì trong chiến dịch sắp tới. Và chiến dịch nhắm vào cứ điểm nào ở vùng Khu A này nhỉ?
Tôi không biết nhưng tôi mang máng hiểu rằng, vì có chiến dịch nên tôi mới phải rời khỏi A1 về trình diện tại B1.