Chương XI (2)
Sáng ra, anh em A2 mách cho tôi biết, nếu tôi muốn đi nhanh và khoẻ thì đừng đi theo đường dây. Vì theo đường dây tôi phải lội bộ hay ngày nữa mới đến B1. Hiện tại, có một đoàn xe cam nhông vận tải, từ Sông Bé chở gạo lên mấy kho ở ngã ba bên kia cầu dây Mã Đà hồi chiều hôm qua. Gạo đã xuống hết. Sáng nay đoàn xe đó chạy về bờ sông Bé để chuyển hàng nữa. B1 đóng gần sông Bé, trên đường xe vận tải đi qua. Tội chi phải lội bộ cho mệt. Đi xe hơi cho nó khoái.
Nghe anh em mách, tôi mừng hết sức. Theo sự chỉ dẫn, tôi khoác bồng lên vai, rảo bước đi về phía cầu dây khi sương mù còn phủ trắng ngọn cây rừng.
Cầu dây bắt ngang ngọn sông Mã Đà. Tuy là ngọn sông nhưng Mã Đà vẫn sâu và rộng. Bề ngang có đến 20 thước. Về mùa nắng, nước rút thu về giữa lòng sông. Hai bên bờ lởm chởm những đá tảng bị nước xói mòn. Nước giữa lòng sông vẫn chảy xiết, ào ào nổi bọt trắng xóa, văng tứ tung qua những gộp đá chắn ngang.
Tôi leo mấy bậc thang cây để bước lên cầu. Đúng với nghĩa cầu dây, vì là cầu dây nên bộ phận công binh Khu A treo cầu lơ lửng ngang sông, cách mặt đất có đến 5 thước. Hai đầu cầu là hai cây rừng to hơn 1 thước đường kính, có cháng ba. Mây nước sợi to bằng cổ tay, ba sợi bện lại thành một cho chắc, cột chặt, căng thẳng song song nhau từ cháng ba bên này sông sang cháng ba bên kia sông. Khoảng cách hai sợi dây mây, nói cách khác, bề ngang cầu quảng một thước rưỡi.
Hai sợi dây như lan can, tay vịn của một cầu treo. Từ đó, những sợi mây tàu, mây cát nhỏ hơn cột treo hai thân cây rừng bằng bắp tay có gác ngang dày đặc từng đoạn cành cây ngắn, khít vào nhau làm mặt cầu. Muốn sang sông, từ mặt đất phải bước lên thang 5 thước mới đến được đầu cầu. Bấy nhiêu đó cũng đã toát mồ hôi hột. Và khi qua cầu, cầu đong đưa như đưa võng làm những kẻ nhát không tài nào dám qua một mình. Lúc nào cũng chực rơi tõm xuống sông sâu, lởm chởm đá.
Thực ra, công binh Khu A không thể làm khác hơn được.
Vì rằng bắc cầu ngang sông, muốn «che» được mắt phi cơ trinh sát LI9 hay những loại khác, phải lựa quảng nào có tàng cây che kín lòng sông. Sông đã rộng, hiếm có chỗ nào kín như chỗ này.
Nếu bắc cầu thấp, từ khoảng trống ngoài kia, khi phi cơ nghiêng cánh nhìn xéo vào sẽ phát hiện một cách dễ dàng. Mà phi cơ phát hiện được, bom sẽ phá huỷ cầu và con đường mòn cũng sẽ bị phát giác theo, rồi ăn bom nốt. Do đó, để đạt yêu cầu «Kín đáo» không còn cách nào khác hơn là phải bắc cầu dây càng sát ngọn cây chừng nào, càng tốt chừng ấy.
Tôi bước lên cầu với cảm giác đưa võng, ớn lạnh sống lưng. Tôi không có gan nhìn xuống dòng nước chảy xiết, sâu thẳm những đá bên dưới và cũng không còn lòng nào nhìn cảnh lạ của rừng hoang, đứng từ một điểm giữa không trung chênh vênh.
Sang đến bên này cầu, tôi thở phào nhẹ nhõm. Dù vậy, khi quay mặt tuột 5 thước thang với cái bồng trên lưng tôi cũng không sao khỏi run tay. Người ta thường nói câu «qua sông bạc đầu». Ở trường hợp tôi hôm nay, câu nói đó cũng không ngoa chút nào. Như vậy không hiểu những anh chị em tải gạo, tải thực phẩm khi qua cầu này thì họ làm gì sao nhỉ?
Một dọc xe cam nhông sáu chiếc đậu thành hàng ở Ngã ba «Ông Tư Trần». Tại sao ngã ba này gọi là ngã ba Ông Tư Trần, tôi đành chịu, không thể nào hiểu nổi. Ông Tư Trần là ai? Dĩ nhiên ông ta phải là một nhân vật đặc biệt của Khu A.
Ngã ba này, một ngã qua cầu dây Mã Đà theo đường dây ra miền Bắc. Một ngã đi về hướng Đồng Xoài. Và một ngã chạy về phía Lộ Ủi rồi qua bàu Đồng Triêng, bàu Chân Ra xuống thẳng bờ sông Bé.
Sáu chiếc xe hàng, cũ có, mới có, nằm im lìm giữa đường. Bên trên, tàn cây rừng che kín mít. Bề ngang có đường xe rộng chừng 4 thước. Con đường này cũng do công binh Khu A dọn dẹp để cho xe vận tải lưu thông, chở hàng chiến lược, chở thực phẩm chuyển từ bờ sông Bé đến đây cho vào các kho dự trữ.
Mấy anh em tài xế, «lơ xe» đang quây quần từng nhóm lo ăn bữa sáng vừa nấu xong bên vệ đường. Vậy là xe chưa chạy. Tôi mừng hết sức, tiến đến nhóm gần nhất, làm quen:
– Chào mấy anh!
Ba thanh niên đang ngồi bệt dưới đất ăn cơm, đều ngẩng đầu nhìn tôi. Không ai lên tiếng trả lời. Tôi nói tiếp:
– Xe mình đây, chừng nào chạy về sông Bé mấy anh? Tôi xin mấy anh cho quá giang đến phòng Thường Trực.
Một thanh niên ngoài ba mươi, lớn nhất trong ba người để ca cơm xuống đất:
– Đồng chí quá giang hả? Cái gì chớ cái đó dễ ợt. Có gì khó khăn đâu. Xe xuống hàng rồi,trống không, cả Đại đội quá giang còn được huống gì mỗi mình đồng chí. Sao? Đồng chí cần đi gấp lắm không?
– Không! Cũng không gấp gì lắm.
Cậu thanh niên ngồi bên vui vẻ:
– Vậy thì anh ngồi nghỉ chơi, ở đi với tụi tui.
Cậu ta quay người nhìn về mấy nhóm kia:
– Mấy tay kia họ sửa soạn chạy ngay bây giờ. Nhưng qua khỏi cầu Công Binh thì họ đậu lại, tổ chức đi đánh cá suối nhậu chơi. Chiều tối họ mới xuống sông Bé.
– Còn mấy anh?
– Tụi tui chưa chạy bây giờ đâu! Còn đi lấy xăng rồi hạ cây xoài mút đằng kia«quất» một bụng cái đã!
Tôi nghĩ bụng, mấy ông trời này có đi ít nhất cũng phải ba bốn tiếng đồng hồ nữa, vậy mà rủ mình ở lại đi cùng. Chi bằng quá giang mấy xe kia chạy liền có phải sướng hơn không. Nhưng không hiểu cầu Công Binh ở chỗ nào và từ đó đến Phòng Thường Trực bao xa. Nếu gần, họ ngừng lại ở cầu Công Binh, mình lội bộ có hề chi. Tôi hỏi:
– Từ cầu Công Binh đến Phòng Thường Trực gần xa?
– Đi bộ chừng hơn một tiếng đồng hồ. Nếu gấp thì anh theo mấy tay đó. Mà… tội cha gì phải đi bộ, anh! Ở lại ăn xoài mút với tụi tôi. Đàng nào bốn năm giờ chiều anh cũng tới Phòng thường trực rồi.
Nghe nói đến xoài mút, tôi thấy muốn ở lại ngay. Từ trước đến giờ, trái cây rừng, tôi mới được ăn qua trái trường. Mấy anh chị em B195, rồi trạm A1 kể cho tôi nghe, rừng ở đây có nhiều loại trái cây ngon lắm. Nào là xoài mút, lôm chôm, dâu, gùi, vải v.v… Đặc biệt là xoài mút.
Ngon chẳng thua xoài cát, xoài hòn. Dâu, lôm chôm, vải chẳng khác loại trồng ở Búng, Lái Thiêu. Nghe kể mà ham, nhưng ăn chả ăn được lần nào. Vùng rừng Đồng Nai Thượng tôi đã ở qua, không có loại cây này. Do đó tôi muốn được thưởng thức một lần cho biết.
Vậy thì… ở đây có xoài mút, người ta sắp sửa hạ cây xuống, tại sao mình không ở lại ăn chơi? Thực tội cha gì phải đi gấp! Vả mình có việc gì phải đi gấp đâu? Tôi hỏi lần nữa:
– Anh liệu 5 giờ chiều này có đến Phòng Thường trực không?
– Đến chớ! Nói vậy chớ không tới 5 giờ đâu. Ba giờ chiều cũng dư sức tới rồi. Tôi chạy lẹ cho.
Thì ra anh ta là tài xế. Anh ta cho biết như vậy vững quá rồi. Tôi mỉm cười gật đầu. Anh ta tiếp:
– Thôi anh lột bồng ra liệng lên xe đi. Tụi này cũng ăn rồi đây nè. Mình lên xe đi lấy xăng chút xíu thôi.
Tôi xách bồng liệng lên xe. Anh em cũng vừa xong bữa ăn. Anh tài xế hỏi tôi:
– Anh ở đơn vị nào?
– A1 của C113.
– Ờ, anh ở đường dây mà! Anh ăn sáng chưa?
– Rồi! Mới ăn xong bên trạm A2.
Anh ta tháo khăn quấn cổ lau miệng, mở cửa xe:
– Bây giờ anh ngồi đây chơi chút nghen! Tôi xách xe đi đổ xăng. Chút xíu trở lại liền.
Anh ta cho xe nổ máy, vọt chạy đi theo ngỏ hướng về phía Đồng Xoài. Hơn năm nay, sống giữa rừng sâu của Đồng Nai Thượng, ngoài tiếng phi cơ tôi không được nghe một thứ tiếng động cơ nào khác. Quanh năm suốt tháng, triền miên với tiếng gió rừng, tiếng chim và tiếng vượn hú xa xa. Hình ảnh của chiếc xe hàng vận tải và tiếng nổ rì rầm lẩn với mùi khói xăng gây trong lòng tôi một cảm giác vui vui, ấm cúng làm sao. Nó gợi cho tôi một cái gì quen thuộc cũ với vô số kỷ niệm chợt đến một cách mơ hồ, lẫn lộn vào nhau, không rõ nét.
Hai mươi phút sau, lấy xăng vào xe xong, anh tài xế cho xe quay về chỗ cũ đậu lại. Tắt máy xe, anh ta đẩy cửa nhảy xuống, phủi tay:
– Xong rồi, anh!
Hai anh em «lơ xe» nãy giờ ngồi tán hươu tán vượn với tôi bên vệ đường đứng lên, tiến lại cửa xe lấy xuống mỗi người một cây súng trường Nga bá đỏ, khoác vào vai. Thì ra hai anh em này đi theo không chỉ làm nhiệm vụ «lơ xe» phụ khuân vác, áp tải mà còn bảo vệ, giữ an ninh cho xe.
Anh tài xe nhảy lên thùng xe phía sau đưa xuống hai cái rựa to:
– Rựa nè mấy chư vị! Hai chư vị xách rựa vô thay phiên đốn lần lần đi. Tao ở ngoài này đứng gác, có gì tao la lên. Chừng nào mệt, ra gác thay, tao vô đốn cho.
Hai anh em kia lấy rựa, xăm xăm tách vào rừng, dẫm lên những cành khô kêu răng rắc.
Tôi lấy làm lạ. Không hiểu anh tài xế này gác gì? Gác ai? Tôi hỏi:
– Sao lại phải gác anh?
Anh tài xế cười:
– Phải gác chớ! Thiệt! Trái cây rừng không ai trồng hết mà mỗi lần muốn ăn cực hết sức.
– Vậy chứ sao anh! Muốn ăn phải đi hái, đi đốn mới có chứ! Nếu không cũng phải đi lượm. Cây cao trật ót thế kia, không chịu cực làm sao có ăn.
– Đâu phải chuyện đó. Anh ta đã cải. Cực chuyện khác.
– Cực chuyện gì vậy anh? Cực chuyện gác hả?
– Ừ! Sợ Ban Chỉ Huy U.50 hay mấy ông cán bộ bắt gặp. Mấy ổng kiểm thảo, ghi lý lịch mình thì nguy lắm.
– Ủa! Đốn xoài mút ăn có gì mà kiểm thảo với ghi lý lịch?
– Vậy anh không được nghe phổ biến lịnh của Đảng Uỷ Khu A sao? Hai ba năm nay rồi?
– Đâu biết! Tôi mới đến Khu A năm ngoái. Ở B195 với A1 tôi có nghe nói về chuyện này đâu.
– B1 đứng về phương diện phòng vệ, ra lịnh cấm đốn cây vì sợ trống rừng. Sợ phi cơ phát hiện vùng mình ở.
– À…à… tôi chưa biết! Mới nghe anh nói lần đầu.
Kể ra B1 làm thế cũng phải. Ý thức bảo vệ thực cao. Hèn chi mấy anh em này đốn xoài mút phải gác ngoài đường là vậy. Sợ có người trông thấy.
Anh tài xế vui vẻ:
– Nhưng kẹt cái là… B1 thì vậy. Còn B2 ra lệnh cấm leo trèo. Muốn ăn trái rừng làm sao thì làm chớ không được leo. Leo rủi ro té chết làm sao? Rồi B5, quân y, cấm ăn trái cây rụng, mất vệ sinh, dễ gây bệnh hoạn. Anh nghĩ coi, cây rừng thì cao, đốn thì cấm, trèo không cho, lượm không được. Ngặt cái là xoài mút, lôm chôm, dâu rừng ngon bạt mạng mà bắt, nhịn thèm chịu sao thấu?
Tôi chỉ biết cười trừ. B1 cấm đúng. B2 cũng đúng. B5 cũng đúng. Nhiệm vụ của họ, họ phải lo. Quân lực lo việc bảo vệ căn cứ. Chính trị sợ có những cái chết lãng, ảnh hưởng tư tưởng ảnh hưởng chính sách. Quân y phải lo phòng bệnh… Nguyên tắc mà!
Anh tài xế nhướng mắt, khoa tay:
– Đảng uỷ khuyến khích «cải hoạt», cố gắng tìm chất tươi, rau cải, trái cây để bảo đảm cho chiến sĩ có sức khoẻ, công tác phục vụ cách mạng. Mà như vậy anh nghĩ có mâu thuẫn không?
Anh ta cười, nói tiếp:
– Hồi cái thời ông Năm Quốc Đăng còn làm Thủ trưởng Khu A kìa! Ổng khó trời đất! Lính, cha nào phất phơ gặp ổng là teo dái hết.
– Gì dữ vậy?
– Vậy anh chưa nghe anh em kể chuyện ổng sao?
– Chưa!
– Ổng nóng dữ lắm. Có một lần, mấy anh em Cảnh vệ B1 lui cui lo đón xoài mút ăn, quên gác đường. Tình cờ ổng đi ngang, đến chừng ổng vô sát bên đít mới hay. Mấy anh em kia phát hoảng, liệng xoài, bỏ súng lủi chạy trốn. Ổng la lên, biểu đứng lại. Đứa nào chạy ổng bắn. Nhưng rồi mấy anh em đó, họ cũng chạy mất hết. Ổng chửi thề một hồi, ngồi xuống ăn xoài đã rồi ổng lượm mấy cây súng của mấy anh em B1 mang hết lên vai. Ra đường giao cho cận vệ của ổng để mang về văn phòng Đảng uỷ. Mấy anh em kia thấy ổng mang súng đi mất, kêu trời như bộng. Mất súng có nước chết chớ về đơn vị ăn nói làm sao?
Tôi hỏi:
– Rồi mấy anh em đó chạy theo xin?
– Không! Chưa kịp chạy theo xin thì ổng đã trở vô. Đi rón rén rình bên bụi mây nước sát bên. Thình lình ổng nhảy ra lấy gậy phang vô giò một thằng ngã quỵ. Ổng hét lên: «Chạy hả? Chạy hả?». Rồi ổng hỏi: «Ê! Chú ở đơn vị nào? Thủ trưởng chú là thằng nào? Thủ trưởng chú biểu chú đốn xoài hả? Chú biểu mấy đồng chí của chú chạy về đơn vị kêu thủ trưởng của chú tới liền bây giờ gặp tui coi».
– Mấy ông kia chạy kịp không?
– Run quá, chạy gì nổi. Một thằng bị quất vô giò té bò càng ngồi đó, còn hai thằng nữa cứ đứng run, lắp bắp nói không ra tiếng.
– Có ông nào chạy đi kêu thủ trưởng của mình không?
– Đi gấp chớ! Một lát, Trung đội trưởng Cảnh vệ ba giò bốn cẳng chạy tới. Ổng chờn vờn quơ gậy tính đập nữa làm thằng Trung đội trưởng phải né lia lịa. Ổng hỏi: «Chú sai lính chú đốn xoài hả?» Thằng kia xanh máu mặt, chối lia. Ổng ra lịnh: «Chú với mấy thằng lính của chú làm sao cây xoài sống lại thì làm. Xúm vô khiêng cây xoài trồng lại đi». Mấy thằng kia nói cây xoài lớn quá, cả trăm người khiêng chưa nổi, có ba bốn đứa làm sao được. Ổng hét lên: «không được cũng phải được! Có sức làm, có sức chịu. Phải trồng cây xoài lại cho sống y như cũ. Nếu không bỏ tù hết. Trồng xoài đi, xong rồi làm bản tự kiểm xách đến văn phòng Đảng Uỷ đổi súng».
– Rồi sao nữa?
– Thì đành ngồi nhìn nhau chịu trận chớ làm sao! Chờ ổng đi xa, thầy trò lót tót kéo nhau về nhà làm bản tự kiểm, mang đến văn phòng Đảng Uỷ… đổi súng.
Tôi cười. Anh tài xế còn cười to hơn:
– Hì…hì! Từ đó đến bây giờ, ở Khu A này thằng nào muốn ăn xoài, ăn lôm chôm, ăn dâu đều phải coi chừng, canh gác đàng hoàng mới dám mò vô rừng đốn cây.
– Bây giờ ổng đâu còn ở Khu A mà lo.
– Ừ! Bây giờ ổng về khu E rồi. Ổng làm thủ trưởng khu E. Khu E là khu rừng Sát với rừng Bà Rịa, Hàm Tân, Xuyên Mộc, núi Thị Vải đó. Ổng là người lập Khu A này, công trạng dữ lắm. Ổng đi, ông Hai Cà thay thế cũng khó đâu thua gì ổng. Rồi từ đó, đơn vị nào, cấp chỉ huy cũng dặn lính, cấm đốn cây gắt eo. Lôi thôi đơn vị biết, bị phê bình, kiểm thảo thấy mồ tổ, chớ phải chơi đâu.
Mấy chiếc xe kia rồ máy chạy đi. Tôi băn khoăn nhìn theo cho đến khi chúng khuất dạng ở khúc quanh trước mặt. Tôi chợt khám phá ra rằng, đoàn xe sáu chiếc này, không chiếc nào thùng sau có mui. Mui xe che mưa nắng cho hàng hoá bị tháo bỏ, chỉ còn thớt cây trống lổng.
Tôi hỏi anh tài xế:
– Xe sao không có mui, anh? Mỗi khi chở gạo, chở hàng gặp trời mưa hư hết làm sao?
– Hồi mới lấy về, xe nào cũng có mui hết chớ nhưng anh nghĩ coi, xe chạy theo đường mòn trong rừng thế này, có mui cao nghệu, cản nhánh cây, cọ quẹt hoài làm sao chạy? Rồi còn cái chuyện cất giấu, ngụy trang tránh máy bay, khó khăn. Cho nên đem chiếc nào về cũng phải phá mui ra. Trời mưa, đậy nylon, hề gì!
Tôi ngạc nhiên:
– Ủa, xe này mình lấy chứ không phải mua à?
– Ừ! Lấy xài còn không hết. Việc gì phải bỏ tiền ra mua?
– Xe nầy lấy, lấy của ai và lấy ở đâu? Ai bỏ cho mình lấy dễ vậy?
– Thì ba C101, C103, C116 của Khu A chứ ai. Lấy ở đường 16, đường 13 của bọn tư sản, của địch. Dễ ợt. Khó khăn gì. Anh biết hôn, đường 16 là đường Sài Gòn, Phước Thành, Đồng Xoài, Phước Long đó, hàng ngày xe hàng qua lại cả trăm chiếc. Muốn lấy, mình chỉ cần một Tiểu đội súng ra đón đường, chận lại là rồi.
Anh tài xế móc gói thuốc rê, vấn một điếu, châm lửa bập bập:
– Thường thường, C116 của mình có trách nhiệm cảnh giới, kiểm soát đường 16. Muốn «mượn nhẹ» chiếc nào, hôm đó dẫn theo các đồng chí tài xế. Một tổ nhảy ra đứng chận đường. Xe ngừng lại. Một đồng chí mình bước tới mời mọi người trên xe xuống hết, xét giấy xe. Nếu xe chưa đóng thuế cho mình, hoặc xe của những tên phản động ác ôn thì cứ việc tịch thâu. Còn xe của bọn tư sản đóng thuế cho mình rồi thì mình ký giấy mượn tạm. Đồng chí phụ trách việc đó, làm biên nhận là nhân danh Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, chúng tôi là đơn vị gì đó có mượn ông A, ông B một chiếc xe hàng vận tải hiệu gì, số mấy vào lúc mấy giờ ngày tháng năm v.v… Chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trả lại hoặc bồi thường xứng đáng nếu có hư hao, mất mát khi nước nhà độc lập, giải phóng hoàn toàn. Dưới đó ký tên, đóng dấu. Giao cho chủ xe, hoặc tài xế xe đó đem về trao lại cho tụi tư sản. Vậy là xong thủ tục rồi. Tài xế của mình leo lên lái vô rừng, chạy về đây.
– Anh có tham gia vụ này lần nào không mà anh biết rành quá vậy?
Anh ta cười, hãnh diện:
– Sơ sơ mới hai lần thôi. Một lần ở Bà Đả! Một lần ở Dinh Điền hai.
– Găng ha!
– Ừ, găng thiệt!
– Mấy chiếc xe này coi bộ nó rệu, cũ mèm hết rồi.
– Ừ! Xe vận tải của mình bên này sông Bé chỉ có sáu chiếc anh thấy đó. Đem trồng hành được hết rồi. Ngày nào cũng sửa tới sửa lui, tôi đâm bực với nó. Chỉ có bên kia sông Bé, đoàn xe bên đó vừa nhiều lại vừa toàn xe «mới cắt chỉ». Tối nào nó cũng chạy hà rầm sáng đêm xuống Bình Mỹ, Vĩnh Tân chở hàng chiếc lược. Gạo, thực phẩm đem về chất ở bờ sông Bé để chuyển về bên này.
– Sao mấy anh không đề nghị xin xe mới chạy cho sướng như người ta?
– Có, có chớ! Tuần rồi tụi tui có đề nghị báo cáo lên Đảng uỷ. Anh Ba Vinh B1 cho biết, trễ lắm là tuần tới thế nào tụi tui cũng có xe mới. Mà toàn là loại xe máy dầu. Đời bây giờ, ai thèm xài máy xăng.
Mải mê lo nói chuyện, chợt có tiếng cây ngã xuống cái ào. Anh tài xế buột miệng:
– Rồi! Hai thằng này, giỏi thiệt. Nó hạ cây rồi. Nó chẳng thèm bắt mình thay phiên. Vô anh!
Anh tài xế nhanh chân rẽ vào rừng, về hướng cây xoài mút vừa bị đốn ngã. Tôi hấp tấp vạch lá bước theo.
Cây xoài mút to hơn vòng tay một người ôm, suông đuột, cao đến hơn hai mươi thước, bị rựa đốn ngã nằm dài dưới đất. Nhiều trái vẫn còn dính trên cành, vàng tươi mơn mởn, chưa chịu rụng.
Lâu nay, nghe anh chị em ca tụng xoài mút ở rừng được liệt vào hàng ngon đệ nhất. Vừa ngọt vừa thơm làm nước miếng chảy tuôn ra đầy miệng vì thèm. Cái ăn bằng tai nó làm tôi nôn nao, ao ước mãi cái ngày ăn bằng miệng, thử xem nó ngon đến chừng nào cho biết. Nỗi nôn nao, ao ước đó, không ngờ thành sự thật ngày hôm nay. Giữa lúc tôi không ngờ nhất. Trái chín rụng đầy, vương vãi tứ tung trên mặt lá rừng khô. Tôi chộp lấy một trái. Vàng lườm. Da nó căng cứng, mọng lên. Trái xoài mút là thế này đây ư? To bằng ngón chân cái tròn quay. Hình thức của nó chẳng giống trái xoài chút nào. Tôi đưa lên mũi ngửi. Mùi thơm từ cuống xông lên nhè nhẹ. Chà, thơm xoài thật. Giống mùi thơm của xoài thanh ca, xoài voi.
Tôi định lột vỏ, nhưng chợt thấy trước mặt anh tài xế cho nguyên trái tong vào miệng, cắn mút lia lịa mấy cái đoạn phun cả hột cả vỏ ra. Anh ta lắp ngay vào một trái khác, nhanh như máy. Trông anh ta ăn cũng đủ thấy ngon một cách hả hê. Mắt anh ta sáng rỡ. Má anh ta bự ra. Ôi chao.
Bắt chước anh ta tôi chả cần xem trái xoài mút trên tay sạch hay dơ, hay gì gì nữa, đưa lên miệng cắn một phát làm nước ngọt vỡ ra. Thấm vào lưỡi, vào môi mát rượi.
Tôi ăn một lúc hơn hai mươi trái. Dù vỏ nó dày hột nó to, từng ấy cũng đủ làm cho tôi no nóc ách. Bấy giờ tôi mới bắt đầu quan sát đến cây.
Thân nó tròn lẳn, da sù sì, không giống cây xoài chút nào. Lá xoài mút lại càng khác lạ hơn nữa lá tròn xoe, mốc thích như những lá điều cằn cỗi. Ấy thế mà trái nó lại thơm mùi xoài. Có lẽ vì mùi thơm đó và vì trái nhỏ, hột to, ăn phải mút mút nên người ta đặt tên cho nó là xoài mút chăng?
Anh tài xế hỏi tôi:
– Từ ngày lên chiến khu đến giờ, anh ăn xoài mút được mấy lần rồi?
– Chưa anh! Lần này là lần đầu tiên đó!
Anh ta cười:
– Thế nào? Anh phát biểu… cảm tưởng coi?
– Ngon! Ngon thiệt. Danh bất hư truyền.
– Mùi vị nó đâu có khác xoài vườn chớ?
– Giống hệt! Chỉ khác cái lá, cái cây, cái trái. Nói chung hình thức, dáng dấp nó không giống cây xoài. Ừ, anh! Rừng này có loại xoài vườn như ở quê mình không anh?
– Có chớ! Hằng hà sa số, thiếu gì! Có nhiều chỗ xoài mọc thành rừng, chớ đâu phải một hai cây. Cũng như nhiều chỗ mọc toàn dâu, lôm chôm, vải, như vườn người ta trồng. Nhiều nhất là khu vực gần sông Bé, Lộ Ủi. Bây giờ là bắt đầu tới mùa trái cây rồi đó.
Nghe anh ta nói phát mê. Tôi hỏi tiếp:
– Chắc mấy năm nay, anh ăn mòn răng hết rồi. Nhưng đi kiếm nó có khó không anh? Làm sao mình biết chỗ nào có mà kiếm?
– Ồ, dễ ợt. Thiếu gì! Đi dài theo đường, chịu khó dòm sâu vào hai bên rừng, có thì thấy liền, chớ cần gì phải lội kiếm đâu xa, anh. Ngay như cây xoài mút bữa nay, hồi nãy tôi lội vô đây ỉa, tình cờ dòm lên thì thấy nó đó thôi. Dọc theo đường xe biết bao nhiêu mà kể, ngặt nó chưa chín. Có cây này sao nó chín sớm…
– Mùa trái cây năm nay, cây xoài này là cây mấy anh hạ đầu tiên?
– Ừ! Còn anh từ ngày lên đây chưa được ăn lần nào, thiệt sao?
– Thiệt chứ! Anh coi trên sông Đồng Nai, đâu có gì…
– Ừ! Trên đó thì «hẻo» lắm! Chỉ có cá, thịt là nhiều, dễ kiếm.
– Còn loại xoài như xoài vườn có ngon không anh?
– Cha… cái đó hơi kẹt đa! Tôi chưa được ăn lần nào…
– Ủa, anh mới nói nó mọc như rừng ấy mà!
– Cây thì không thiếu. Nhiều cây hai ba người ôm chưa giáp. Nhưng từ ngày lên rừng đến giờ, không năm nào thấy nó có trái. Chỉ có loại xoài mút này năm nào cũng đều đều. À, anh biết cây thanh trà không?
Tôi ngơ ngác, không hiểu:
– Thanh trà…. loại bưởi thanh trà đó hả?
– Không, thanh trà là cây thanh trà. Trái nó bằng ngón tay, bóng lưởng. Da nó mỏng dính, vàng vàng, đo đỏ, ngọt ngọt, chua chua, thơm mùi xoài. Lá nó tròn tròn, nhỏ nhỏ như lá khế đó?
– Tôi nhớ rồi. Biết! Tôi biết! Sao anh?
– Rừng này nhiều lắm. Anh em ở đây, có nhiều người không biết, cũng kêu nó là xoài mút.
– Còn vải, dâu, lôm chôm? Nó có khác loại mình trồng không!
– Không! Cây, lá, trái của nó giống hệt như loại mình trồng ở vườn. Vải thì trái cũng chín đỏ, có gai, cơm dày… Nhưng tuỳ cây. Cây nào ngọt thì ngọt lịm như đường cát. Cây nào chua, chua té đái chớ chẳng chơi. Đâu cũng vậy. Còn lôm chôm ở đây lạ cái là ruột nó vàng tươi như nghệ. Vỏ vàng, vỏ đỏ gì ruột cũng vàng. Dâu với lôm chôm ở đây sai lắm anh. Một cây mình có thể hái đựng ba bốn bồng không hết. Hai chục người chắc gì xúm lại ăn hết một cây đâu.
Chúng tôi vừa nói chuyện, vừa hái trái chín, gom lại thành một đống to. Sau đó cho vào hai bồng cột lại mang ra xe. Tôi cũng bỏ đầy hai túi áo bà ba những trái vàng bóng, ngon lành nhất.
Tôi nghĩ lẩn thẩn thứ này mà được đem về Sài Gòn, chắc chắn được mọi người ưa chuộng, bán đắt hơn nho tươi. So với nho, nó vừa lạ mắt, vừa hiếm, vừa ngon ngọt, thơm hơn nhiều. Sau này, yên ổn, hết chiến tranh, không nghề ngỗng gì làm, cứ lên rừng này hái trái rừng về bán cũng dám thành triệu phú chớ chẳng chơi.