← Quay lại trang sách

Chương XI (3)

Ngồi trên xe, tôi nghe nao nao, là lạ, vừa bâng khuâng vừa hả hê, vừa như ngỡ ngàng không sao diễn tả được cảm giác đó. Trước mặt sau lưng, chung quanh rừng cao chớn chở xanh ngắt một màu. Đường mòn trước mặt, tôi tưởng chừng như một đường hang rỗng. Hai bên vách là những thân cây dựng đứng, sát vào nhau. Bên trên, vòm lá lợp kín, âm u.

Thỉnh thoảng qua vài chỗ trống, nắng nhuộm vàng đám cỏ tranh non. Tiếng máy xe nổ rì rầm. Mùi xăng hăng hăng. Gió thốc vào xe vun vút. Đường lồi lõm lại nhiều rễ cây, đồi con, dốc nhỏ nối tiếp nhau nên ngồi trên xe tôi có cảm giác như ngồi trên ghe, căng buồm vượt sóng giữa một ngày gió lớn, trồi lên hụp xuống trên sông Cửu Long những năm tôi còn bé.

Dọc theo đường, những tàu lá mây đầy gai buông thõng. Những sợi dây xanh, những cành cây thấp quất vào ca-bin xe lộp bộp. Kính chắn gió trước mặt, nó đã vỡ tự bao giờ, trống lổng. Đường kẻ viền xung quanh rỉ sét, đầy bùn.

Ngồi kế bên anh tài xế, chốc chốc tôi phải khom người xuống, hoặc né sang bên để tránh những cành cây đầy lá đập vào khung kính trống trơn. Tôi nghĩ đường thế này, kính nào không vỡ? Mà dù có còn, chắc tài xế cũng phải đập cho vỡ ra, liệng đi để tránh tai nạn kính vỡ nửa chừng khi xe chạy, phang vào mắt.

Xe chạy qua mấy ngọn suối khô, trũng sâu xuống, bò lên thật vất vả. Tôi chợt thấy mấy hố bom to đào loang lờ bờ suối, cách đấy không đầy mười thước. Cây ngã chồng lên nhau. Và, phía trên nhiều cành bị bom tiện đứt, xười ra.

Tôi đưa mắt nhìn anh tài xế. Anh ta cũng liếc mắt nhìn tôi, thản nhiên:

– Năm ngoái, tôi bị ba chiếc khu trục nó mần chỗ này nè! Đó, mấy cái lỗ bom còn đó.

Tôi vụt đâm ra hồi hộp hỏi:

– Xe mình đang chạy ào ào thế này, phi cơ bay đến làm sao biết mà tránh được, anh?

– Coi vậy chớ khó lộ lắm, anh! Rừng sâu thế này, tàng cây kín mít nó khó phát hiện được mình lắm. Mà nó có tới, hai chư vị ngồi sau thùng xe sẽ gõ cabin hay bắn súng báo động cho mình hay. Mình ngừng xe lại, dông cho xa, nhằm gì! Có gì, bất quá nó mần cái xe thôi.

– Anh có chạy đêm không?

– Có chớ! Thường lắm!

– Đèn xe mấy anh làm sao?

– Tụi này gắn chụp giả. Che bớt pha để ánh sáng nó bớt chói lên trên. Hai chư vị ngồi phía sau thì ngó lên trời cảnh giới. Hễ phát hiện đèn phi cơ hay có tiếng phi cơ, báo động thì mình tắt đèn, ngừng liền.

– Vậy có lần nào chạy đêm anh gặp phi cơ không?

– Hoài! Mới tháng trước nè! Tụi này chạy một đoàn bốn chiếc, đèn pha rọi sáng rừng. Bữa đó, tụi này cũng ở trên này về sông Bé để đón hàng qua sông. Khi chạy tới cầu công binh có một chiếc phản lực trờ tới, phát hiện được. Nó quần theo.

– Mấy anh không hay sao?

– Nó đảo qua một vòng tụi này mới hay. Chiếc phản lực đó nó khôn lắm. Bay đêm mà nó không đốt đèn.

– Găng ha!

– Anh em bảo vệ bắn súng báo động là tụi này tắt hết đèn liền. Nhờ trời có trăng, xe tôi chạy đầu, nên tôi ráng chạy thầm thêm khúc nữa để thoát khỏi cái khu vực bị nó phát giác. Vậy mà rốt cuộc cũng hổng khỏi nó.

– Nó mần anh tơi bời?

– Ừ, nó quăng một hơi năm, sáu trái bom một lượt. Trái gần tôi nhứ chừng hai chục thước. Tụi này còn đang ở trên xe bỗng nổ «oành, oành, oành» tá hoả tam tinh. Đất văng tứ tung. Miểng phang trúng thùng xe nghe xèng xèng. May không đứa nào bị thương. Tụi này nhảy xuống đất nằm mẹp chịu trận. Mấy loạt bom sau nó bỏ lạc sâu vô rừng…

Anh ta chép miệng:

– Chà! Lần đó may thiệt! Chút xíu nữa «ông Cuốc» kêu, «qua phần» hết rồi. Kết quả, tụi này chỉ có một chư vị bị té trầy đầu gối thôi.

Nói xong anh ta cười tay nhịp nhịp vào vô-lăng lắc cái đầu có vẻ khoái trá lắm.

Ở chiến khu thế này, đi xe sướng thiệt nhưng kể cũng nguy hiểm quá. Tôi đang nghĩ lan man, bỗng anh tài xế cho xe chậm lại rồi ngưng hẳn. Hai anh thanh niên ngồi ở thùng sau nhảy xuống đất huỳnh huỵch. Tôi lấy làm lạ hỏi anh tài xế:

– Xe hư hả anh?

Anh tài xế thản nhiên, mở cửa xe bung ra:

– Không! Mình ngừng lại để ngụy trang. Trước mặt đây là «lộ ủi Trần Lệ Xuân». Bề ngang rộng lắm. Hai bên đường còn bị phi cơ rải chất độc hoá học khai quang, cây cối rụng lá trống trơn. Xe mình phải chạy trên lộ ủi một khoảng, chừng vài cây số nên phải ngụy trang đề phòng phi cơ phát hiện.

Anh ta nhảy xuống đất. Tôi nhảy xuống theo. Tất cả lo bẻ những cành cây tươi đầy lá xanh chất lên xe. Trên nóc ca-bin, quanh cản xe, thùng xe, vè xe, hông xe, chỗ nào cũng toàn cành lá, xanh rì, lởm chởm như một đống lá cây.

Xong tất cả lại leo lên xe. Anh tài xế gài số quay sang tôi:

– Lộ ủi này do Trần Lệ Xuân nó ra lệnh làm để chở cây súc đem về Sài Gòn kinh tài riêng cho tụi nó đó.

– Sao anh biết rõ vậy?

– Đảng cho biết. Đường này nó làm từ hồi 58 tới giờ. Phía trên đụng với Đồng Xoài ở lộ 16. Phía dưới chạy thẳng tới sông Đồng Nai. Bên kia sông Đồng Nai cũng có một con lộ chạy thẳng tới Tà Lài. Chỗ xe mình đâm ra đây, cách cầu sắt Mã Đà chừng bốn cây số. Trước kia, tại cầu sắt Mã Đà tụi nó đóng đồn đâu hơn một đại đội. Còn là trường huấn luyện biệt kích gì nữa đó. Tụi nó đang ủi đất làm sân bay chưa xong thì bị mình đánh, phải rút đi.

Anh ta rú ga cho xe vọt tới. Qua một khúc quanh, lộ ủi rộng thênh thang hiện ra trước đầu xe. Cách đường chừng năm thước, anh ta lại thắng cho xe ngừng lại lần nữa. Tôi chưa kịp hỏi lý do tại sao ngừng, anh ta khoá «công tắc», tắt máy, thò đầu ra cửa:

– Ê! Nghe cho kỹ nghe! Tai tao nãy giờ lùng bùng quá.

Ở phía sau, một người đáp lại:

– Êm ru. Chẳng có gì đâu. Trưa, giờ này mấy thằng phi công mắc đi ngủ hết rồi. Thôi, dông đi. Bảo đảm trăm đó!

Thì ra anh ta ngừng xe lại trước khi leo lên lộ để nghe ngóng tiếng phi cơ. Anh ta cười:

– Xong rồi anh! Ra đây mình xả hết ga, rút qua khoảng đường trống, chui vô rừng phía bên kia là khoẻ liền.

– Sao mình không mở con đường ngang đây, tiện biết mấy?

– Bên kia đường dốc lắm, lại có con suối chạy cặp theo lộ, bất tiện lắm. Bên trong toàn rừng tre gai dày đặc, làm sao mở đường cho nổi.

Anh tài xế lại mở công tắc, cho máy nổ. Chiếc xe bò ra lộ. Mặt lộ thật rộng, trải đá đỏ, bằng phẳng không khác gì xa lộ Biên Hoà. Chỗ xe chường ra đến mặt lộ là đỉnh một con dốc cao. Đường hai phía thoai thoải chạy tít mãi về hai phía Đông và Tây. Phía Đông là cầu sắt Mã Đà. Phía Tây chạy về Đồng Xoài.

Xe đổ dốc lao thật nhanh, gió lùa mát mặt. Và những cành lá khua chạm vào xe rào rào như trời đang đổ một trận mưa.

Rừng trước mặt thấp xuống. Chân trời rộng hiện ra. Mây đùn cao ngất giữa nền xanh thăm thẳm, nắng chói chang nổi sao trên mặt đường.

Lâu rồi, nhiều tháng nay tôi chưa hề nhìn thấy được chân trời. Chân trời hôm nay rộng quá. Gió trên đỉnh dốc cao làm tôi nghe lâng lâng, sảng khoái dị thường. Nó gợi cho tôi một cái gì bình dị, thanh thản như một con diều chao trên không trung đầy gió lộng, giữa khung trời tự do thênh thang.

Nó còn hiện lên trong đầu tôi cùng một lúc những kỷ niệm cũ, ở Đồng Tháp, ở U Minh, ở Sài Gòn và đường vào chiến khu ngày nay. Cái hôm tôi rời Vĩnh Kim, ngồi trên xe từ Mỹ Tho về Sài Gòn, khung cảnh hôm đó cũng tương tự như hôm nay. Chỉ khác cái là đây không có ruộng vườn, không có những ngôi nhà thoạt ẩn, thoạt hiện, khói quyện sau mấy khóm tre và những cánh đồng quang đãng, thẳng cánh cò bay.

Xe xuống đến cuối con đường dốc, chợt có tiếng gõ vào ca-bin gấp rút lần với tiếng la lạc giọng:

– Phản lực nghe! Phản lực. Ghé lại mau!

Anh tài xế mắt láo liêng, lách cho xe chạy sát vào bìa rừng và thắng lại một cách gấp rút. Đầu tôi chúi nhủi về phía trước, hoang mang. Tôi tất tả nhảy ra khỏi xe, rơi tòm vào giữa bụi rau mui cao đến ngực. Mắt hướng lên trời, dớn dác nhìn bốn phía. Hồi hộp lạ.

Hai chiếc phản lực bay cao, sóng đôi nhau bay chếch từ hướng Nam về hướng Tây. Tiếng rền rĩ của nó càng lúc càng lớn dần. Tôi quan sát chung quanh tìm vị trí để chạy đến núp. Anh tài xế, ngồi phía trước tôi, lên tiếng:

– Nó bay chỗ khác, không thấy mình đâu. Đừng lo anh! Mấy thằng Mỹ mắt đục, thấy cái cóc khô gì.

Hai chiếc phản lực càng ngày càng xa, rồi mất hút ở cuối chân trời. Tiếng động cơ cũng không còn nữa. Anh tài xế cười toét miệng, chửi thề một câu:

– Tổ cha mày, trưa không chịu ngủ. Sướng hổng chịu, cứ muốn cực, phá đám người ta. Tao mà về tới Sài Gòn, thế nào cũng tới kiếm mày.

Anh ta leo lên xe. Tôi lên theo. Anh ta lại cho xe nổ máy:

– Đường quẹo trước mặt kia kìa. Ba trăm thước nữa, mình lủi vô rừng là yên chí. Tha hồ hát bội tối ngày.

Anh ta quay sang tôi:

– Anh thử ngóc đầu ra ngoài phụ nhìn với tụi nó xem mấy chiếc phản lực có trở lại không? Đừng báo hại mới bò ra giữa lộ, nó trở lại thì phiền lắm.

Thế là yên ổn. Suốt trên quãng đường xe, không một tai hoạ phiền phức nào xảy ra. Qua khỏi lộ ủi, bàu Đồng Triêng, bàu Chân Ra, cầu Công Binh, giờ đây là khu vực «Mã Đà dưới». Đồng Nai Thượng xa rồi. Xa vời vợi, có lẽ lần đi này tôi từ biệt hẳn không bao giờ trở lại.

3 giờ 30 chiều, anh tài xế cho xe dừng lại kế bên một con đường mòn phía trái. Anh ta vội nói với tôi:

– Anh tới chỗ rồi đây! Theo con đường này, anh đi chừng 20 phút là tới phòng Thường Trực.

Tôi khoác bồng lên vai, đưa tay bắt tay anh ta, từ giã:

– Xin phép anh! Rất cám ơn anh. Có ngày mình sẽ gặp lại!

Anh ta cười:

– Ối, phép tắc gì anh! Ờ, chừng nào anh trở về đồi Bù Cháp? Coi có nhằm ngày xe lên, tôi chở cho. Cứ ba ngày lên một chuyến. Như bữa nay xuống ngày mai nghỉ, ngày mốt lên. Mốt anh về chưa?

Tôi cảm động trước lòng tốt và tình cảm của anh ta dành cho tôi. Tôi lắc tay anh ta mạnh hơn:

– Cảm ơn anh! Tôi được lệnh về trình diện tại B1 để nhận công tác mới. Chắc không bao giờ trở về Đồng Nai Thượng nữa rồi.

– Ừ, nếu vậy, về đây mình lại gặp nhau thường.

Tôi xuống xe, lững thững rẽ vào đường mòn. Chiếc xe hàng chạy đi. Tôi vụt nhớ ra rằng, cho đến bây giờ chưa biết anh tài xế và hai cậu kia tên là gì? Thuộc A nào, B nào…? Cả tên của tôi anh ta cũng không biết. Tệ thật. Vậy mà đã như quen nhau lâu lắm.

Gần hai mươi phút sau, tôi vào đến Phòng Thường Trực. Phòng Thường Trực có bốn nhà cất thành một chòm. Một nhà cho khách nghỉ chân. Một nhà kho chứa đồ đạc và căng-tin. Một nhà ăn nối liền với nhà bếp và một nhà làm văn phòng.

Bốn nhà cất theo kiểu «tứ trụ» ở bốn góc. Giữa là một khoảng sân trống và đám cỏ thấp. Qua cổng bảo vệ, tôi gặp một người khách, hỏi thăm văn phòng và tôi đến căn nhà nhỏ ở góc trong cùng.

Trên chiếc bàn vuông nhỏ một máy điện thoại màu trắng nằm tênh hênh. Một người đàn ông nằm trên võng phía sau bàn, đưa lúc lắc.

Chà! Lần đầu tiên kể từ ngày vào chiến khu, tôi được thấy một cái máy điện thoại. Giữa rừng hoang, cái máy điện thoại là hình ảnh của văn minh khoa học. Nó gây cảm giác cho mọi người một cái gì tiến bộ, hiện đại hoá, lớn mạnh vượt bực của cả một guồng máy chiến tranh ở đây.

Tôi bước vào nhà. Người đàn ông, à, anh thanh niên ngồi trên võng ngồi dậy, giương mắt nhìn tôi.

Tôi lên tiếng:

– Chào đồng chí! Tôi muốn gặp đồng chí Trưởng Phòng thường trực?

– Tôi đây! Tôi là Bọ – chịu trách nhiệm Phòng thường trực. Có chuyện gì đó đồng chí?

– Tôi vừa nhận được lệnh về trình diện B1 để nhận công tác mới. Nhờ đồng chí cho người đưa tôi đến B1 gặp anh Ba Vinh.

– Đồng chí có giấy tờ… xin lỗi. Đồng chí cho tôi xem quyết định của đoàn 30 hay giấy giới thiệu…

– Có đây.

Tôi để bồng xuống băng ngồi. Anh ta quan sát tôi từ đầu đến chân và ngừng hơi lâu trên bụng tôi. Tôi hiểu cái nhìn đó. Ở bụng tôi có sợi thắt lưng Mỹ, sau vạt áo bà ba đen phủ ngoài.

Cái bình ton nước, tấm nylon nóc, tấm nilon choàng lủng lẳng đeo quanh, đội áo phồng ra. Anh chàng Bọ, trưởng Phòng thường trực này muốn xem tôi có đeo súng ngắn hay không. Không có súng ngắn là loại «tép riêu», không cần quan tâm trong việc đối xử. Nếu có súng ngắn, tức là loại sĩ quan, loại «cán bộ mùa thu», việc đối xử nhất định phải khác… Nhưng tôi còn khuya mới được cấp súng ngắn. Tôi làm gì đủ tiêu chuẩn….

Trong lúc tôi thò tay vô túi móc bóp, anh ta lạnh lùng bỏ tôi.

– Đồng chí ở đâu tới đây?

– Ở A1, trạm đường dây A1.

– Tên gì?

– Vũ Hùng!

Anh ta gật gật đầu:

– Ừ, tôi có nghe tên đồng chí. Thôi, đồng chí khỏi lấy giấy tờ chi mất công.

Anh ta thò tay nắm lấy ống điện thoại:

– Đồng chí để đồ đó, ngồi chơi một chút, để tôi quay điện thoại báo cáo, xin chỉ thị anh Ba!

Tôi ngồi xuống ghế đẩu trước bàn. Bọ nắm cần quay quay điện thoại rè rè:

– Allo! Allo! Dạ, đây là Phòng Thường Trực xin nói chuyện với anh Ba B1… Dạ em là Bọ đây anh Ba! Báo cáo anh Ba, có đồng chí Vũ Hùng ở A1 vừa tới Phòng Thường Trực xin vô gặp anh Ba… Dạ… dạ… dạ. Vậy hả anh Ba?…

Bọ gác điện thoại xuống giá, nhoẻn miệng cười. Gương mặt «nước đá» khó, «đăm đăm» của anh ta ban nãy, tươi dần. Không biết Ba Vinh đã nói gì với anh ta nhỉ? Anh ta ngồi xuống bàn, vui vẻ:

– Anh chờ một chút nhá, anh Hùng! Mười lăm phút nữa, anh Ba Vinh sẽ đến đây làm việc với anh. Đi dọc đường, trưa anh đã ăn cơm chưa?

– Chưa anh. Nhưng ăn xoài mút no rồi. Để chiều ăn một thể!

– Ủa, làm sao anh có xoài ăn hay vậy? Ở quanh đây chưa có xoài chín.

– Gặp mấy anh em vận tải trên cầu dây Mã Đà. Họ đốn tôi ăn ké thôi! Tôi quá giang xe mấy anh em đó về ngang đây.

– À… à… hèn chi! Tưởng anh đi bộ, mới giờ này tới đây, tài thiệt!

Tôi mở bồng, lấy bảy tám trái xoài mút đưa cho Bọ

– Còn mấy trái… anh ăn chơi cho vui.

Mắt Bọ sáng rỡ. Môi anh ta nhúc nhích, nuốt ực nước miếng trước khi cười, ngượng nghịu:

– Dạ… cám ơn anh! Mời anh….

– Tôi ăn rồi! No nên ngán rồi.

Anh ta đưa một trái xoài lên miệng cắn, «phát biểu ý kiến» ngay:

– Ừ… Ừ… Ngọt! Ngọt thiệt. Ngon…

Tôi cười và biết lúc này là lúc thuận tiện nên hỏi dò những điều mà tôi đang khao khát muốn biết về tin tức của Hiền. Tôi vờ như không chú ý lắm:

– Tôi nghe mình ở đây thành lập Đoàn Văn công II Quân Giải Phóng. Vậy Đoàn đó chắc đã đi về Khu B rồi hả anh?

– Đi lâu rồi anh!

– Chà! Đi theo đường dây, ít ra chục bữa mới tới Khu B. Đường xa quá mà!

– Không lâu dữ vậy đâu. Họ đi tự lực. Đi tự lực thì lẹ hơn, vì họ đâu phải vòng vo tam quốc như đường dây. Nhưng tôi nghe anh em nói chuyện, trong đoàn có chuyện lôi thôi, báo cáo về Đảng uỷ.

Tôi hồi hộp, nhìn ngay mặt anh ta:

– Chắc có một cô nào đó bỏ đoàn trốn đi chứ gì? Phải không anh?

– Ừ! Ủa! Sao anh biết rõ vậy?

Tôi chợt thấy mình hớ hênh nhiều quá. Bối rối một thoáng, tôi trấn tĩnh ngay được:

– Không… mà… tôi nghe mấy anh em đường dây ở trạm A2 nói đó thôi. Có đúng vậy không anh?

Bỏ thêm một trái xoài mút khác vào miệng. Bọ lúng búng trong miệng:

– Đúng! Anh nghe đúng đó! Trong đoàn có con Hiền, con nhỏ được coi như hoa khôi, đẹp nhứt Đoàn. Nó trốn lại đường 13, khi đoàn Văn công qua lộ ban đêm, để về thành đầu giặc. Đúng là cái con học sinh phản động. Nó là gián điệp chắc?

Tôi mừng thật sự. Mừng đến mất bình tĩnh và nóng nảy hơn bao giờ hết. Tim tôi nhảy thình thình như đánh trống. Tôi nhìn sững Bọ:

– Hiền à? Cô Hiền à? Mình có bắt lại được không?

– Không! Bị trời tối. Qua lộ một lúc, kiểm điểm lại mới hay. Anh em Cảnh vệ vác súng trở lại kiếm, thấy thoáng đàng xa, rượt theo bắn hai loạt K.50. Nhưng không bắt được. Hình như nó bị thương thì phải! Theo báo cáo của đoàn báo về Đảng Uỷ, các đồng chí ấy cho biết có phát hiện được dấu máu.

Tôi nghe mình ngồi không vững. Mái nhà nghiêng đi càng lúc càng sâu. Tôi trân mình… Hiền bị trúng đạn ư? Máu Hiền đã chảy đó ư? Em có sao không Hiền? Em bị thương ở đâu? Em còn sống hay đã chết? Người ta bảo em là gián điệp, là về thành đầu giặc. Người ta nhục mạ em. Tự do là một cái gì vô cùng quý giá, mà em phải đánh đổi bằng máu, phải không em?

Thương em quá, Hiền ơi! Lạy trời, cầu mong em không hề gì… em về đến gia đình với vết tích của… tự do.

Hình ảnh của Hiền hiện ra rõ nét trước mặt tôi… Tôi thoáng nghe, hình như tiếng của Bọ văng vẳng:

– Anh Hùng! Anh làm sao vậy?

Và hình như tôi đã trả lời Bọ:

– Có lẽ tại tôi đi đường xa nên khó chịu, mệt chút thôi! Không sao đâu anh.

Tôi không hiểu Bọ đã nghĩ gì, phản ứng ra sao nhưng tôi thì tôi đứng dậy rời khỏi chiếc ghế đẩu, bước ra sân. Tôi hành động như một cái máy với sự điều khiển của tiềm thức. Chợt trong đầu tôi vang lên câu nói: «Hãy bình tĩnh, đừng để người đọc được ý nghĩ mình, cảm xúc của mình. Nguy hiểm đó, chứ chẳng phải chuyện bình thường đâu!»

Qua khoảng rừng thưa, nắng giọt xuống sân những mảng ánh sáng vàng. Và gió rừng đi qua, mát lạnh làm da tôi nổi gai ốc. Tôi hoàn toàn tỉnh hẳn.

Tôi quay vào nhà. Không biết nét mặt, da dẻ tôi lúc đó ra sao nhưng tôi cố nhăn nhó, nhíu mày, cùng với một nụ cười bất đắc dĩ, chép miệng:

– Lạ quá! Khi không, tôi đang nói chuyện với anh, có một luồng gió nhẹ qua vậy mà bỗng nhiên tôi nổi gai ốc, choáng váng tưởng đâu xỉu tại chỗ. Sức khoẻ tôi dạo này kém thiệt. Mấy ông thầy thuốc họ bảo anh em mình bị sốt rét mất máu nhiều quá nên hay có những cơn choáng thình lình. Anh có lần nào bị choáng thình lình giống như tôi vậy không anh Bọ?

Cái vẻ ngạc nhiên, nhăn nhíu trên gương mặt Bọ biến mất. Anh ta cười:

– Vậy mà tôi tưởng anh bị gì đó chớ! Ừ, anh! Cái gì chớ thiếu máu như anh em mình nó hay xây xẩm mặt mày lắm. Cái đó thì tôi bị hoài. Bây giờ anh đỡ chưa?

– Đỡ rồi! Tôi vừa dứt sốt thì tôi lên đường đến đây ngay!

Bọ chớp mắt, lộ vẻ thông cảm rõ rệt:

– Vậy anh nằm nghỉ chút đi. Anh nằm trên võng tôi nè. Chút xíu anh Ba Vinh ảnh ra tới.

Tôi theo lời Bọ, bước lại võng nằm xuống. Anh ta quên mất chuyện Hiền. Và tôi thở dài, nhẹ nhõm trong nỗi buồn vô hạn. Tôi nắm mắt và nghe nóng ở bờ mi.

– Anh nằm cho khỏe đi, Bọ nói. Để tôi xuống bếp kiếm một bình ton nước sôi đem về pha trà uống chơi. Đi đường xa, mệt, uống mấy hớp cái tỉnh liền hè.

Bọ nói xong, bước đi ngay. Thế là thoát. Tôi nhủ thầm như vậy. Tôi đã đánh lạc hướng kịp thời. Bọ chắc không phát giác ra sự liên hệ giữa tôi và Hiền, cùng phản ứng đột ngột của tôi qua tin Hiền bị thương khi trốn ở đường 13.

Đến chừng Bọ trở lại, tôi đã ngồi dậy với nét mặt bình thường. Cùng đi với Bọ còn có một người đàn ông đứng tuổi, quảng 40. Người gầy, cao với khuôn mặt xương. Chân đi cà nhắc, chống chiếc gậy đen bóng thật đẹp. Anh ta mặc bộ quân phục đen. Thắt lưng Mỹ với khẩu súng ngắn xệ xuống, lủng lẳng bên hông. Đôi mắt to và đôi chân mày thật đậm, to bản, xếch lên.

Vừa trông thấy tôi, anh ta nhoẻn miệng cười. Mấy chiếc răng vàng ở hàm trên của anh ta đập vào mắt tôi. Anh ta lớn tiếng:

– A! Anh Hùng! Chào anh!

Tôi cũng đứng dậy, nghiêng đầu:

– Dạ, chào anh!

Anh ta cà thọt, bước vọt tới, mạnh bạo, nhanh nhẹn chìa tay ra bắt lấy tay tôi, bóp thật mạnh. Bàn tay xương xẩu của anh ta làm tay tôi đau điếng. Giữa lúc đó, Bọ lên tiếng giới thiệu:

– Xin giới thiệu với anh, anh Ba Vinh, thủ trưởng B1, Tham mưu trưởng Khu A.

Ba Vinh ngồi xuống ghế đẩu, tiếp theo với giọng nói rổn rảng của «con nhà võ».

– Chà! Từ ngày anh tới Khu A đến giờ, hai năm rồi, nghe tiếng anh thì nhiều, mãi bây giờ mới gặp mặt. Ờ, Bọ! Làm bậy nồi trà uống, chú!

– Dạ có đây anh Ba.

Tôi tiếp theo:

– Dạ, thưa anh! Anh xem cái nơi đèo heo hút gió của Đồng Nai Thượng, xa quá. Anh không có dịp đi công tác trên đó. Còn tôi, từ ngày đến Khu A, được mấy anh phân công tác ở lì một chỗ, thì làm sao trình diện anh được.

– Thế nào? Anh! Mạnh khỏe, vui vẻ chứ?

– Dạ, vẫn vui nhưng khỏe thì… vẫn sốt rét đều.

Ba Vinh móc túi, chìa ra mời tôi một điếu thuốc thơm ARA:

– Mời anh! Tôi đang bận họp với Bộ Chỉ huy Tiền Phương của R. Nghe điện thoại anh Bọ báo cáo, có anh đến, tôi xin vắng mặt đi ra gặp anh đây!

Tôi dạ một tiếng cho phải phép. Nhưng tôi cũng hiểu rằng nếu anh ta đang họp thật sự thì đời nào anh ta có thể bỏ đi ra đây đón tôi được. Nịnh nhau chi! Quan trọng hoá tôi chi cho thêm ngỡ ngàng. Cái trò động viên tình cảm, động viên chính trị kiểu đó với tôi hết hiệu nghiệm rồi. Dù vậy, tôi cũng nói một câu:

– Dạ… Ai chứ anh thì bận suốt ngày. Làm sao rảnh rỗi cho được.

– Ừ… bận thiệt anh. Bận túi bụi, không kịp thở. Bây giờ, mình làm việc với nhau chớp nhoáng một tí nhé?

– Dạ! Xin anh tự nhiên. Tôi xin nghe.

Ba Vinh bật lửa châm thuốc cho tôi:

– Thế này nhá! Anh thực khoẻ chưa? Tôi nghe chú Bọ nói, anh vừa bị choáng… Giờ thực khoẻ chưa?

– Dạ… Khoẻ!

– Mà anh thực khoẻ chưa chứ? Có thể bắt tay vào việc nổi không?

Tôi ngập ngừng:

– Dạ, ngay bây giờ…

– Ừ, bấy giờ.

– Được, anh! Xin anh cứ cho biết.

– Tôi xin báo tin anh rõ. Kể từ hôm nay, anh không còn thuộc quân số của Khu A nữa mà thuộc về R. Theo quyết định mới của Bộ Chỉ huy anh sẽ về công tác ở Bộ Chỉ huy Tiền Phương. Hiện tại Bộ Chỉ huy Tiền Phương vừa ở chiến dịch Bình Giả về đây, đang chuẩn bị cho một chiến dịch mới. Công tác rất bận. Đang cần nhiều cán bộ, nếu anh thấy không cần nghỉ ngơi, tôi xin đưa anh đến trình diện Bộ Chỉ huy Tiền Phương ngay bây giờ. Đồng ý chứ?

– Dạ, đồng ý, anh Ba!

– Thế thì mình đi. Ủa! Làm nước lẹ lên chớ Bọ. Chú mày chậm quá.

Bọ mang bình trà và mấy cái cốc thuỷ tinh đến. Ba Vinh nóng nảy rót ra ngay, vừa thổi vừa uống:

– Uống anh! Uống rồi mình đi.

Uống xong cốc nước thứ hai. Ba Vinh đứng dậy. Tôi đứng dậy theo.

Khoác bồng lên vai bước theo Ba Vinh với một nỗi buồn xót xa, da diết. Tôi nhớ Hiền. Tôi thương Hiền. Tôi tưởng tượng đến nòng K.50 bốc khói, hai loạt đạn khốn nạn đã xuyên vào da thịt người tôi yêu, người đã san sẻ cho tôi một phần đời, mang đến cho tôi những ngày vui và đưa tôi vào một cuộc đời mới, trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa của con người.

Trong đêm tối, nàng loạng choạng, quằn quại ngã chúi về phía trước. Máu nàng nhuộm đỏ áo, nhỏ giọt trên đường 13. Với một người con gái chân yếu tay mềm, Hiền có thể làm được gì và sao người ta… lòng dạ nào, ngón tay nào đành đoạn siết hai lần cò khẩu K.50. Hiền ơi…

– Phải không anh? Ba Vinh đứng dừng lại hỏi tôi, nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.

Tôi bối rối:

– Dạ… anh hỏi chi anh Ba?

– Ủa? Nói vậy nãy giờ anh không nghe tôi nói gì hết sao?

– Dạ…

– Anh sao vậy? Làm gì như người mất hồn vậy?

Ba Vinh cười. Mắt Ba Vinh cũng long lanh cười, cái cười xoi mói, chế giễu.

– Hình như tư tưởng anh đang dao động? Anh không an tâm? Hay anh có vấn đề gì.. anh có thể tâm sự với tôi, xem tôi có thể giúp đỡ gì được anh không?

Tôi giật mình. Thì ra tôi đi theo Ba Vinh ra khỏi phòng Thường Trực như kẻ không hồn, Ba Vinh đi trước, tôi theo sau. Ba Vinh nói chuyện với tôi mà tôi không nghe gì hết. Ba Vinh nói gì nhỉ? Và bây giờ tôi phải trả lời sao cho xuôi? Phải giải quyết ngay bằng cách nào, chống chế như thế nào cho có lý để Ba Vinh không phải ngờ vực. Ngờ vực về sự liên hệ giữa tôi và Hiền.

Nhất là sự ngờ vực tôi bất mãn, ngờ vực tôi đang dự tính một điều gì và trong việc thuyên chuyển đưa tôi về công tác ở Bộ Chỉ huy Tiền Phương là nguyên cớ của sự đột biến tư tưởng. Tôi phải trả lời ngay. Phải đánh tan cái dấu hỏi to tướng trong đầu Ba Vinh. Nếu không… Không được…

Ừ, phải rồi, lúc nãy tôi đã «khai bệnh» với Bọ bị «choáng» vì mệt. Bọ đã nói cho Ba Vinh nghe rồi. Chỉ còn mỗi lối thoát đó là hợp lý, an toàn.

Với dáng điều mệt nhọc, đứng xiêu không vững, tôi gắng gượng nói:

– Tôi mệt quá, anh Ba. Tai tôi nãy giờ lùng bùng… ù lên. Chắc tại tôi mới hết sốt rét, lại đi xa.

Mắt Ba Vinh chớp lên:

– Trời đất ơi! Vậy mà hồi nãy tôi hỏi anh khỏe chưa, anh bảo là bình thường, khỏi rồi. Anh nói khoẻ, tôi mới dẫn anh đi. Ai dè… Cái điệu này anh hại tôi rồi. Dọc đường anh ngã lăn đùng ra, làm sao tôi cõng anh cho nổi. May chưa lội qua suối, nếu qua suối anh ngã xuống nước nó cuốn anh đi còn khổ cho tôi nữa.

Đến phiên Ba Vinh bối rối thật sự. Anh ta chỏi gậy, xán đến bên tôi, dìu tôi ngồi xuống đống lá khô bên đường:

– Thôi, ông! Ông ngồi xuống đây nghỉ một chút đi ông. Chờ tôi một chút.

Nói xong, Ba Vinh vội vã cà nhắc quay trở lại Phòng Thường Trực. Tôi thở phào một cái nhẹ nhõm. Nhưng trót đã leo lên lưng cọp, «đã diễn kịch» rồi phải đóng cho trọn vai trò. Không dừng lại được nữa. Tôi cỡi bồng ra, gối đầu lên, nằm nhắm mắt, chờ đợi…

Chừng năm phút, Ba Vinh trở lại với Bọ và một chị phụ nữ.

Ba Vinh hỏi ngay:

– Anh Hùng, bây giờ trong người anh ra sao?

Tôi vẫn nhắm mắt:

– Chóng mặt và mệt thôi…anh.

Chị phụ nữ lên tiếng:

– Đó là triệu chứng trung thành của bệnh sốt rét đó anh Ba! Anh Hùng! Anh có nhức đầu không? Có buồn nôn không? Có nghe sốt không?

– Dạ… không chị. Chỉ chóng mặt với mệt. Tôi vừa hết sốt hai hôm nay.

– Ờ! Như vậy là thiếu máu rồi. Sức khoẻ chưa phục hồi. Không đáng lo lắm anh Ba! Tại anh ấy đi đường xa, mệt nó làm choáng.

Ba Vinh nói:

– Chị là cứu thương, chị có học chuyên môn chị biết, chớ tôi «bù trất» cái chuyện này.

Chị phụ nữ ngồi xuống nắm lấy cổ tay tôi nghe mạch. Tôi nghĩ thầm trong bụng, y tá còn chưa đến đâu huống hồ chỉ là cứu thương thì có đến Tết Congo cũng chưa đoán được tình trạng cơ thể tôi như thế nào.

Bắt mạch một lúc chị ta buông ra:

– Mạch 80. Tám chục không hề gì, khoẻ? Để tôi chích cho một ống Sô ly căm là hết chóng mặt liền.

Ba Vinh cười:

– Vậy, khỏi phải khiêng ảnh đi hén?

– Dạ khỏi anh Ba!

Chị ta loay hoay, leng keng một lúc, đoạn lật đít tôi ra đâm một phát đau điếng, giữa đường, giữa lộ. Tưởng chơi hoá thiệt, khi khổng khi không bị chích một mũi vào đít đau quá là đau. Cũng may nó chỉ là một ống Solucamphre vô thưởng vô phạt. Lãng nhách!

Rút kim ra, chị ta nói:

– So-lu-căm hay lắm. Năm ba phút là hết mệt, hết chóng mặt liền.

Chừng vài phút sau, tôi mở mắt với vẻ uể oải, ngồi dậy. Chị ta reo lên:

– Đó tôi nói đúng như ghi mà! Bây giờ đỡ mệt, đỡ chóng mặt rồi chớ, anh Hùng?

– Dạ đỡ nhiều rồi chị!

Ba Vinh nhướng mắt với tôi:

– Ông hại tôi quá. Thôi ngồi nghỉ thêm một chút rồi chú Bọ hộ tống ông đi với tôi cho chắc.

Chị cứu thương nhắc thêm:

– Anh nhớ nghe! Nhớ tới nhà rồi đừng có tắm nghe! Anh mà tắm nó nhiễm lạnh dám chết lắm đó.