Chương 6
TÔI bắt đầu tới dạy cho hai đứa bé gái nơi ngôi biệt thự đường Công-lý. Đứa lớn tên là Chi, đứa nhỏ tên Tần. Hoài-Chi và Phương-Tần. Cả hai cô bé đều xinh. Bé Chi hơi quá quắt, trái lại bé Tần dịu dàng, trầm buồn, chắc bởi bé sớm mất bàn tay săn sóc của mẹ. Tôi chú ý bé Tần ngay từ buổi dạy đầu tiên. Tuy nhỏ hơn, nhưng, nó có vẻ thông minh và thẳng thắn hơn Chi, thân hình nó mảnh mai buồn thảm. Tôi nghĩ hồi nhỏ chắc tôi cũng gầy gò, tội nghiệp và cô đơn như bé Tần vậy. Có lẽ vì thế, tình cảm của tôi thiên về bé Tần hơn là Chi.
Dạy hai đứa trẻ cùng học một lớp thì cũng nhàn, nhưng tôi ít gặp ông Hào lắm. Hình như ông ta đi vắng suốt ngày đêm, công việc nhà giao hết cho một bà quản gia thân tín và ngưới tớ gái.
Lui tới dạy bé Tần và Chi được vài tuần thì tôi hiểu thêm một ít về đời sống ông Hào. Tần là đứa con gái duy nhất của ông, còn Chi chỉ là cháu, con của một bà chị gái gặp chuyện sóng gió sao đó nhờ ông nuôi giùm. Hèn gì hai đứa tính tình khác hẳn nhau.
Ông Hào hiện sống độc thân, nhưng lại có rất nhiều nhân tình. Đêm nào ít nhất cũng hai ba giờ sáng ông mới về đến nhà, và thỉnh thoảng vẫn đem theo những ả tình nhân về. Những điều trên tôi biết được là do sự bẻm mép của bé Chi, cộng thêm sự giải thích của Phương, con bạn đã giới thiệu tôi lại ông Hào. Bé Tần thì không bao giờ nói gì về cha nó, hình như nó còn không thích nhắc nhở tới là khác. Nhưng bé Chi thì ngược lại, tôi không muốn nghe nó cũng cứ nói, nó nói huyên thuyên, nhưng được cái chúng đều dễ dạy. Tôi quên chưa nói đến Phương cô bạn gái hiền lành. Trong lớp tôi có những hai Phương, và hai Phương này là mặt trời và mặt trăng đối chọi. Phương mà tôi giới thiệu đầu tiên là một nhân vật nổi, còn Phương chỉ cho tôi chỗ dạy ở nhà ông Hào là nhân vật chìm. Những lần tới đây dạy hai đứa nhỏ, thỉnh thoảng tôi vẫn gặp Phương, nhân vật chìm này, mà tôi tạm bắt chước bọn cùng lớp đặt thêm một chữ đàng trước cho dễ gọi: « Liz Đông-Phương ».
Nhà ông Hào rộng và có nhiều phòng lắm, tôi chỉ biết có một phòng khách vừa làm chỗ dạy học cho hai đứa nhỏ, nếu không do một sự tình cờ thì tôi không biết ngôi nhà bên trong như thế nào. Một buổi tối tới dạy và ra cho chúng mấy bài toán, Chi bảo nó quên cuốn tập trong phòng ba (nó bắt chước Tần gọi ông Hào bằng ba). Buổi chiều con bé lén vào phòng ông Hào nằm, mang theo cuốn tập. Nó thích được lăn tròn trên chiếc giường rộng, nệm êm để tưởng tượng nó đang đi trên tàu thủy hay ngồi trong máy bay vút lên trời cao vậy. Bất ngờ ông Hào về, nghe tiếng còi xe, nó hoảng sợ bỏ chạy ra và để quên cuốn vở lại. Tôi bảo nó vào tìm, Chi kêu sợ ma và nói ở trong đó tối lắm, ba treo những bức tranh hình các con ma. Tôi phì cười, dẫn cả bé Tần đi theo, bên trong có một hai phòng rộng, ngang qua phòng khách, phòng đọc sách rồi tới phòng ngủ. Tôi đứng với bé Tần ở cửa cho Chi vào lấy, Chi đẩy cánh cửa ra. Tách một tiếng. Tôi giật mình hoảng hốt. Chi vừa bật ngọn đèn xanh lớn trong phòng và cả gian phòng ngủ của ông Hào hiện ra đập vào mắt tôi. Dưới ánh sáng xanh dịu, căn phòng của ông Hào với giường nệm trắng toát, với hai chiếc gối đỏ chói đặt cạnh nhau. Và đặc biệt hơn với một bức họa khỏa thân hình như bức vẽ thiếu nữ tắm của Renoir trên tường, tạo cho căn phòng một vẻ quyến rũ dễ sợ, và làm chìm đi những bức họa sơn dầu theo lối lập thể rải rác ở cuối phòng.
Chính sự quyến rũ đó làm tôi hoảng sợ.
Tôi giục bé Chi ra mau, cuốn sách còn mở, nằm sát chân giường. Chi cúi xuống lượm lên rồi đi ra, tắt ngọn điện, tất cả chìm đi như một cảnh trên màn ảnh, nhưng nó đã ăn sâu vào đầu tôi, đến độ tôi hoảng hốt. Cả buổi tối hôm đó, tuy dạy cho bé Chi và Tần nhưng tâm hồn tôi để mãi tận đâu đâu. Gian phòng ngủ của ông Hào với không khí u uất của nó đã ám ảnh tôi, tôi có mặc cảm như vừa nhìn trộm một cảnh tội lỗi. Tôi tự hứa nhất định là sẽ không bao giờ còn trông thấy quang cảnh đó thêm một lần thứ hai nữa.
Có một hai lần tôi gặp ông Hào, nhưng ông rất nghiêm trang, vẻ nghiêm trang của ông ta đôi khi làm tôi chột dạ ; ông chào tôi với nét mặt nhìn thẳng, gọi tôi bằng cô giáo. Ông hỏi thăm về việc học hành của hai trẻ rồi thôi. Câu chuyện không ai đi tới đâu hết. Vẻ chững chạc của ông Hào đôi lúc làm tôi có mặc cảm hèn kém, nhưng cũng giúp tôi yên tâm. Cuối tháng tôi lãnh được một món tiền trong bao thư với một mảnh giấy mỏng viết lời cám ơn hết sức lịch sự. Món tiền không phải ngàn rưởi như tôi vẫn tưởng mà là hai ngàn đồng.
Cầm món tiền trong tay tôi có ý định mua cho bé Măng Cụt một món quà nhỏ, nhưng sợ anh chị Thân tôi nghi ngờ. Tôi mang hết món tiền kiếm được đi mua sơn cọ và ít vải bố. Tôi bắt đầu vẽ. Bước đầu hết sức khó khăn, pha sơn một cách vụng về và thường thường làm hỏng hết. Nhưng rồi tôi cũng pha được sơn, căng được bố lên khung thật thẳng. Tuy vậy, khi căng bố lên rồi và pha sẵn sơn, tôi lại không biết mình sẽ vẽ gì và bắt đầu như thế nào. Những thắc mắc đó làm tôi khổ sở. Tôi lại đi mua thêm sách, đi xem các phòng tranh. Và tôi đã hoàn thành được một bức sơn dầu đầu tiên tôi vẽ bé Măng Cụt. Bởi vẽ một khuôn mặt trẻ thơ, và vụng về khi pha sơn, tôi chỉ vẽ giống thằng bé chứ nhìn tổng quát bức tranh thì không ra gì hết. Bức thứ hai tôi cũng lại vẽ bé Măng Cụt nữa, nhưng lần này sự tưởng tượng về hài nhi khi còn ở nhà hộ sinh với Chị Hiền tôi đã hài lòng hơn. Bức tranh không còn là bé Măng Cụt nữa, mà là một cục thịt đỏ hỏn với nét mặt nhăn nhúm tội nghiệp của một sinh vật vào đời… Như vậy tôi không thể vẽ trái với những ý tưởng trong hồn tôi được, tôi phải thích, phải say mê mà phải thực hiện sự say mê đó. Nhưng lạ lùng khi tôi vẽ lên khung những nét thô bạo tôi lại xóa đi và lại thấy bàng hoàng như mình vừa làm một điều lầm lỗi. Tôi muốn được tự do vẽ, nhưng có ai cấm tôi vẽ đâu? Tôi cần phải vẽ, phải phát lộ những nét hung bạo của đời sống mà tôi nhìn thấy, những dữ dội giấu trong một bản thể hiền lành… Tôi đâm ra khổ sở, nghi ngờ và giận cả tôi. Sự băn khoăn càng ngày càng đè nén, cứng đặc, không tôi phải thú thật với anh chị tôi để nhờ anh chị tôi giúp đỡ. Tại sao tôi có người thương yêu, tâm sự, tôi lại chối bỏ?
Một lần nọ ngồi ăn cơm, tôi bỗng nhắc tới hội họa, nhưng tôi cũng không có can đảm nói cho tôi, mà nhắc nhở qua một cô bạn.
Anh Thân cười:
- Có phải cô bạn họa sĩ em đã nói không? Cô giới thiệu với Bằng đi, thằng đó nhiều tài lắm.
Chị Hiền vội nguýt anh:
- Giới thiệu cho hắn bày người ta vẽ, hay rồi hắn vẽ…
- Em lại xuyên tạc rồi, tội lỗi…
Anh Thân nói rồi cười, chị Hiền cũng cười. Còn tôi thì ngơ ngác.
Anh Thân lại nói:
- Ngày trước anh cũng thích vẽ, nhưng thấy mình dở ẹt nên bỏ luôn.
Tôi chợt nhớ đến hộp chì và than đã nhặt được, thì ra anh Thân cũng đã qua một thời gian tập tành. Tôi hỏi:
- Chắc anh Bằng vẽ đẹp lắm phải không anh?
- Nó được huy chương vàng cách đây bốn năm. Tranh của nó anh thật tình không hiểu, thằng đó tâm trạng phức tạp lắm, nhưng nó pha màu thì anh chịu thật.
Chị Hiền chen vào:
- Bộ em định làm mai cho con bạn thật sao?
Tôi mỉm cười cúi đầu không trả lời. Bữa cơm đó kéo dài đến gần một tiếng. Chị Hiền bỗng than vãn về vụ chị bị giựt hai ba cái hụi. Anh Thân lo lắng tài chính trong nhà sẽ thiếu hụt hơn. Còn tôi, tôi nói tôi sẽ rút bớt số tiền chi tiêu của anh chị cho hàng tháng, nhưng chị Hiền nói:
- Không được, với số tiền đó đã quá ít ỏi rồi. Không lo đủ cho em, chị khổ lắm.
Tôi nghĩ tới một bà cô giàu có ở ngay Sàigòn này, nhưng từ lâu chúng tôi không hề lui tới. Chị em tôi biết chắc sự lui tới của chúng tôi chỉ đem đến cho họ sự phiền lòng, bởi chúng tôi nghèo… và bà con xa gần đối với chị em tôi không còn liên hệ gì nữa hết… Tôi muốn giúp anh chị, muốn gánh một phần cực cho gia đình, đây không phải là một gia đình đẹp nhất hay sao? Nhưng có nên nói ra hay không? Nên hay không và cuối bữa ăn tôi vẫn không nói được. Rồi trong câu chuyện lan man sau đó, anh Thân bỗng nhắc tới Toản, tôi giật mình. Anh Thân hỏi lâu nay tôi có gặp Toản không. Tôi nói có trông thấy một lần nhưng hắn không dám nhìn.
Chị Hiền nói:
- Hạnh có tưởng ra được là Toản đã tìm anh Thân xin lỗi và đòi cưới em không?
Thật ra câu nói của chị Hiền vui như một lời đùa, nhưng tôi hoang mang hết sức. Anh Thân nói tiếp:
- Hắn còn tới nhà, còn phá Hạnh, anh sẽ không để hắn yên.
Như vậy là phải. Tôi bỗng nhiên thấy lòng mình rộng rãi một cách vô cớ, tôi thoáng nghĩ tới khuôn mặt của Toản. Nhưng cũng lúc đó, tôi bỗng thấy mình bé bỏng và cần sự nương tựa. Tôi đã có chỗ để nương tựa rồi… Tôi nhìn anh chị tôi đầy vẻ biết ơn. Tôi bỗng lo sợ liền sau đó, còn bao nhiêu những cạm bẫy xung quanh tôi, liệu tôi có tránh nổi?
Sau bữa ăn đó tôi bắt đầu viết nhật ký, tôi viết lan man, từ thầy tôi tới mẹ tôi, những người tôi chưa nhìn thấy mặt. Rồi chị Hiền, rồi anh Thân, còn chuyện tôi, tôi không thể nào viết nổi hết.
Dưới gậm giường của tôi càng ngày càng chồng cao những bức tranh đã vẽ rồi. Hình như có một vài vợ chồng chuột làm tổ ở trong đó, đêm đêm tôi nghe tiếng chúng kêu và tiếng lịch cà lịch kịch… Tiếng động đó ban đầu làm tôi sợ hãi và khó chịu, nhưng sau này, nó trở thành thân thuộc với tôi hết sức.