Kẻ Lang Thang Trên Đường Cổ
Người ta nói tuyết sẽ rơi nhiều hơn,” một người đàn bà to béo đang cầm cái túi lưới nói với người soát vé xe buýt.
Người soát vé xe buýt, một anh chàng gốc Tây Ấn, lắc đầu và thở dài rầu rĩ: “Đúng là thời tiết thổ tả,” anh nói. “Chỉ thêm một mùa đông như thế này thôi là tôi sẽ về Cảng Tây Ban Nha ngay.”
“Vui lên nào, anh bạn,” bà béo nói. “Anh sẽ chẳng thấy mùa đông nào như thế này nữa đâu. Tôi đã sống ở thung lũng sông Thames này sáu mươi sáu năm rồi mà chưa bao giờ thấy tuyết rơi như thế này cả, nhất là trước Giáng sinh. Chưa bao giờ.”
“Năm 1947,” người đàn ông ngồi cạnh bà, một người gầy guộc với chiếc mũi nhọn dài, nói. “Đó là năm dành cho tuyết. Tôi thề đấy. Dày ngập đầu, rơi khắp đường Thung Lũng Thợ Săn, đường Đầm Lầy và vùng Quảng Trường. Thậm chí trong suốt hai tuần không thể đi qua được vùng Quảng Trường. Người ta phải ủi tuyết đi. Trời, đúng là một năm dành cho tuyết.”
“Nhưng không phải trước Giáng sinh,” bà béo nói.
“Đúng vậy, đó là vào tháng Giêng.” Người đàn ông rầu rĩ gật đầu. “Không phải trước Giáng sinh, không phải…”
Họ có lẽ sẽ tiếp tục nói chuyện như thế này suốt cả quãng đường tới Maidenhead, và có thể đúng là họ làm như vậy thật, nhưng Will bất chợt nhận thấy bến cần xuống đang hiện ra giữa khung cảnh trắng toát một màu. Cậu đứng bật dậy, cầm lấy các loại túi và hộp đồ lỉnh kỉnh. Người soát vé giật chuông cho cậu.
“Đi mua quà Giáng sinh hả,” anh quan sát.
“Ừmmm. Ba… bốn… năm…” Will ôm chặt các túi quà vào ngực và với tay bám lấy thanh sắt ngang trên chiếc xe lắc lư. “Giờ thì em mua xong rồi,” cậu nói. “Lẽ ra phải xong từ trước cơ.”
“Giá mà anh cũng thế,” người soát vé nói. “Đêm mai đã là Giáng sinh rồi. Vấn đề là máu anh đã đông lại hết cả… thời tiết ấm lên mới làm anh tỉnh ra được.”
Xe buýt dừng lại và anh đỡ Will xuống xe. “Chúc mừng Giáng sinh, chàng trai,” anh nói. Họ biết nhau vì Will thường đi xe buýt đến trường.
“Chúc mừng Giáng sinh,” Will nói. Đột nhiên cậu gọi với theo khi chiếc xe đang chuyển bánh: “Anh sẽ thấy thời tiết ấm lên vào ngày Giáng sinh đấy!”
Người soát vé toét miệng cười để lộ hàm răng trắng bóng. “Em sẽ làm cho thời tiết ấm lên hả?” Anh đáp lại.
Có thể mình làm được, Will nhủ thầm, khi cậu đi dọc con đường cái dẫn đến đường Thung Lũng Thợ Săn. Có thể mình làm được. Tuyết thậm chí phủ dày cả trên vỉa hè; trong hai ngày vừa rồi, chẳng có mấy người ra khỏi nhà và bước lên lớp tuyết ấy. Đối với Will, đó là những ngày yên bình, bất chấp ký ức về những gì xảy ra trước đó. Cậu đã có một bữa tiệc sinh nhật vui vẻ cùng gia đình, tưng bừng đến mức vừa đặt lưng lên giường cậu đã ngủ một mạch, gần như không hề nghĩ đến Bóng Tối. Sau đó, cả một ngày cậu chỉ chơi ném tuyết và trượt tuyết ngẫu hứng với các anh ở bãi dốc phía sau nhà. Đó là những ngày u ám, tuyết lơ lửng trên không trung nhiều hơn nhưng không hiểu sao vẫn chưa rơi xuống. Đó là những ngày vắng lặng; hầu như chẳng có chiếc xe nào chạy qua con đường này trừ xe tải của người đưa sữa và bánh mì. Lũ quạ cũng yên ắng, chỉ có một vài con thỉnh thoảng chậm rãi bay qua bay lại trên khu rừng của chúng.
Will nhận thấy các con vật không còn sợ cậu nữa. Thực ra, chúng dường như còn thân thiện hơn trước là đằng khác. Chỉ có Raq, con lớn hơn trong số hai con chó, thường vẫn thích ngồi tựa cằm lên đầu gối Will, thì vẫn thỉnh thoảng nhảy bật ra khỏi lòng cậu không rõ vì lý do gì, như bị điện giật. Rồi nó bồn chồn đi loanh quanh trong phòng một lúc, sau đó quay lại nhìn đăm đăm vào mặt Will như dò xét, và rồi lại thoải mái như trước. Will không hiểu điều gì đã khiến nó thành ra như thế. Cậu biết ông Merriman sẽ hiểu được lý do; nhưng ông Merriman lại không có ở đây.
Từ khi cậu trở về nhà vào buổi sáng cách đây hai ngày, cái vòng tròn chia tư trên thắt lưng vẫn ấm áp khi cậu sờ vào. Giờ đây, vừa bước đi, cậu vừa luồn tay vào dưới áo khoác để kiểm tra, chiếc vòng có vẻ lạnh; nhưng cậu nghĩ chắc hẳn đó chỉ đơn giản là vì cậu đang ở ngoài trời, nơi mọi thứ đều lạnh cả. Cậu đã tiêu tốn gần như cả buổi chiều đi mua quà Giáng sinh ở Slough, thị trấn lớn gần nhà cậu nhất; nó đã thành thói quen hàng năm, ngày trước Giáng sinh là ngày cậu chắc chắn có được tiền mừng sinh nhật từ các cô dì chú bác để mua sắm. Tuy nhiên, đây là năm đầu tiên cậu đi mua sắm một mình. Nó mang lại niềm vui cho cậu; thường thì đi một mình sẽ nghĩ ra được nhiều thứ hơn. Món quà quan trọng nhất dành cho anh Stephen - một cuốn sách về sông Thames - đã được mua từ cách đây khá lâu, và được gửi theo đường bưu điện tới Kingston, Jamaica, nơi con tàu của anh đang thả neo tại một vị trí có tên là Ga Caribe. Will thấy cái tên ấy nghe giống ga tàu hỏa hơn. Cậu đã quyết định phải hỏi anh bạn soát vé xe buýt xem Kingston như thế nào; mặc dù anh chàng soát vé là người Trinidad nên có thể sẽ có chút thành kiến về những hòn đảo khác.
Cảm giác rầu rĩ trong hai ngày trước lại trở về, vì theo cậu nhớ, đây là năm đầu tiên cậu không nhận được quà sinh nhật của anh Stephen. Đã hàng trăm lần cậu cố gắng xua đuổi sự thất vọng với lời biện minh là bưu điện đã nhầm hoặc con tàu đột nhiên phải giương buồm lướt sóng giữa những hòn đảo xanh tươi vì nhiệm vụ khẩn cấp nào đó. Năm nào anh Stephen cũng nhớ; nếu không có chuyện gì đột xuất thì lần này anh ấy cũng nhớ. Anh Stephen không thể nào quên được.
Mặt trời đang lặn ở phía trước, vầng mặt trời ló ra lần đầu tiên kể từ sinh nhật cậu. Nó tỏa ánh vàng da cam rực rỡ qua khe hở giữa các đám mây, và cả thế giới phủ tuyết trắng bạc ấy lấp lánh vô số tia sáng vàng mỏng mảnh. Sau những con phố xám xịt lầy lội trên thị trấn, mọi thứ lại trở nên tươi đẹp. Will bước đi, qua những bức tường bao quanh vườn, những hàng cây, rồi đến đoạn đầu một lối đi nhỏ không lát đá, khó có thể gọi là đường, được gọi là Hẻm Lang Thang, cắt từ đường cái và cuối cùng lượn vòng nhập vào đường Thung Lũng Thợ Săn gần nhà Stanton. Bọn trẻ đôi khi đi tắt qua lối đó. Will liếc nhìn xuống và thấy chưa có ai qua đây kể từ lúc tuyết bắt đầu rơi; con đường vẫn nằm yên ắng, không một dấu chân người, phẳng mịn, trắng muốt và đầy lôi cuốn, chỉ có một vài dấu chân chim đẹp như tranh vẽ. Một vùng đất chưa được khám phá. Will thấy khung cảnh thật hấp dẫn.
Vậy là cậu rẽ vào Hẻm Lang Thang, thích thú dúi chân lạo xạo dưới những lớp tuyết sạch đã hơi cứng lại, làm các mảnh tuyết vỡ ra bám thành riềm trên ống quần nhét trong ủng. Gần như ngay lập tức, cậu không còn nhìn thấy mặt trời nữa, tầm mắt bị chắn bởi khoảnh rừng nằm giữa lối đi nhỏ này và một vài ngôi nhà trên đỉnh con đường Thung Lũng Thợ Săn. Vừa vất vả bước trên tuyết, cậu vừa ôm chặt những bọc quà vào ngực mình và đếm lại: con dao cho Robin, tấm da dê để lau ống sáo cho Paul; quyển nhật ký cho Mary, sữa tắm cho Gwennie; bộ bút dạ đặc biệt cho Max. Tất cả những món quà khác của cậu đã được mua và bọc lại từ trước. Khi bạn là một trong số chín anh chị em thì việc chuẩn bị cho lễ Giáng sinh quả là công phu.
Nhưng rồi chẳng mấy chốc, hành trình đi bộ qua con hẻm này bắt đầu tỏ ra chẳng mấy thú vị như cậu tưởng. Mắt cá chân Will bị đau do phải căng chân ra đá tuyết để lấy lối đi. Những bọc quà kềnh càng khó mang. Màu vàng đỏ ấm áp của mặt trời đã nhường chỗ cho màu xám ảm đạm. Cậu thấy đói và lạnh.
Trên cao, bên phải cậu là những tán cây rậm rì; hầu hết là cây đu, thỉnh thoảng có vài cây sồi. Phía bên kia lối đi nhỏ là một dải đất hoang, nhờ có tuyết đã biến từ một vùng mấp mô toàn cỏ và bụi cây dại rậm rì thành những con dốc trắng xóa trải dài mênh mông với những hốc tối sẫm đẹp như cung trăng. Xung quanh cậu, trên mặt đường phủ tuyết, rải rác những cành và nhánh cây nhỏ bị rơi từ trên cây xuống do tuyết phủ quá nặng; ngay phía trước, Will thấy một cành cây to đang nằm chắn ngang đường. Cậu lo lắng nhìn lên, tự hỏi không biết có bao nhiêu cành cây khô trên những cây đu khổng lồ kia đang chờ gió và sức nặng của tuyết bẻ gãy. Bây giờ mà kiếm củi thì rất tốt đây, cậu nghĩ, và đột nhiên nhớ lại hình ảnh như trêu ngươi của ngọn lửa sáng bừng nhảy nhót trong lò sưởi ở tòa đại sảnh: ngọn lửa đã làm thay đổi thế giới của cậu, biến mất khi cậu ra lệnh và rồi lại tuân lệnh sáng bừng lên.
Trong lúc cậu đang bước đi một cách khó khăn trong tuyết lạnh, một ý tưởng ngông cuồng thú vị chợt nảy ra trong óc cậu bắt nguồn từ suy nghĩ về ngọn lửa đó, và cậu dừng lại, toét miệng cười một mình. Em sẽ làm cho thời tiết ấm lên hả? Không, anh bạn ạ, có lẽ em không thể giúp anh có được một ngày Giáng sinh ấm áp nhưng ở đây, ngay lúc này, thì em có thể làm mọi thứ ấm hơn một chút. Cậu tự tin nhìn vào cành cây khô nằm trước mặt, và dùng cái quyền năng mà cậu biết là mình có, và giờ đây đã điều khiển được một cách dễ dàng, Will khẽ nói với nó một cách tinh nghịch: “Cháy lên!”
Và trên nền tuyết, cành cây rơi bùng cháy. Mọi chỗ trên cành cây, từ phần thân chính đã mục ruỗng cho đến cái nhánh nhỏ nhất đều sáng bừng lên một ngọn lửa vàng đang liếm cao dần. Có tiếng xèo xèo, và một tia sáng rực rỡ bốc lên từ đống lửa, cao như một chiếc cột. Không có chút khói nào tỏa ra, ngọn lửa cháy đều đều; những nhánh cây đáng lẽ phải cháy rất nhanh, rơi xuống và biến thành than thì lại vẫn tiếp tục cháy, như thể được tiếp thêm nhiên liệu từ bên trong. Đứng đó một mình, Will đột nhiên cảm thấy thật bé nhỏ và hoảng hốt; đây không phải là một ngọn lửa bình thường và không bị kiểm soát bởi những cách thông thường. Nó cháy khác hẳn ngọn lửa trong lò sưởi. Cậu không biết phải làm gì. Lo lắng, cậu lại tập trung tâm trí vào ngọn lửa và ra lệnh cho nó tắt đi, nhưng nó vẫn cháy, bền bỉ như trước. Cậu biết rằng cậu đã làm một điều ngu xuẩn, sai trái và có lẽ là nguy hiểm nữa. Nhìn qua cột lửa đang nhảy nhót, cậu thấy trên bầu trời xám xịt bốn con quạ đang vỗ cánh bay chậm rãi thành một vòng tròn.
Ôi, ông Merriman, cậu rầu rĩ nhủ thầm, ông đang ở đâu?
Rồi cậu thở hổn hển khi có ai đó chộp lấy cậu từ phía sau, chặn đôi chân cậu trong lớp tuyết không cho đá lên và vặn ngoéo tay cậu ra sau lưng. Những bọc quà vung vãi trên tuyết. Will thét lên vì đau. Lập tức bàn tay đang nắm chặt lấy cổ tay cậu nới lỏng ra, như thể kẻ tấn công này bất đắc dĩ mới phải làm tổn thương cậu, nhưng hắn ta vẫn giữ chặt lấy cậu.
“Dập lửa đi!” Giọng nói khàn đục vang lên bên tai cậu, khẩn thiết.
“Tôi không thể!” Will trả lời. “Tôi nói thật. Tôi đã thử, nhưng tôi không thể.”
Người đàn ông chửi thề rồi làu bàu những tiếng rất lạ, và ngay lập tức Will biết đó là ai. Nỗi sợ hãi của cậu biến mất, hệt như trút bỏ được một gánh nặng. “Kẻ Lang Thang,” cậu nói, “để tôi đi. Ông không cần phải giữ tôi như thế.”
Ngay lập tức, bàn tay lại siết chặt. “Ồ, không đâu, ngươi không thể đi được, nhóc con. Ta biết ngươi muốn lừa ta. Ngươi chính là người đó, giờ thì ta đã biết, ngươi là một Cổ Nhân, nhưng ta cũng không tin các ngươi hơn ta tin bọn Bóng Tối đâu. Ngươi mới thức dậy, ngươi là người mới, và để ta nói cho ngươi một điều mà ngươi chưa biết nhé… khi mới tỉnh dậy, ngươi không thể làm được bất cứ điều gì với bất cứ ai trừ phi ngươi có thể nhìn vào mắt người đó. Ta biết vậy, vì thế ta sẽ không để ngươi nhìn ta đâu.”
Will trả lời: “Tôi chẳng định làm gì ông cả. Thực ra có một số người chúng ta có thể tin tưởng được mà, ông biết đấy.”
“Hiếm hoi lắm,” Kẻ Lang Thang cay đắng nói.
“Tôi có thể nhắm mắt lại nếu ông thả tôi ra,”
“Hừ!” lão già nói.
Will nói tiếp: “Ông mang theo Dấu Hiệu thứ hai. Hãy đưa nó cho tôi.”
Không có tiếng trả lời. Cậu cảm thấy tay người đàn ông buông khỏi tay cậu, nhưng cậu vẫn đứng nguyên tại chỗ và không quay lại. “Tôi đã có Dấu Hiệu thứ nhất rồi, Kẻ Lang Thang,” cậu nói. “Ông biết là tôi có. Nhìn này, tôi sẽ mở khóa chiếc áo khoác, rồi tôi sẽ kéo nó ra phía sau để ông có thể nhìn thấy cái vòng đầu tiên trên thắt lưng của tôi.”
Cậu kéo áo khoác sang một bên, vẫn không quay đầu lại và cảm nhận được cái dáng lom khom của Kẻ Lang Thang đang nghiêng sang bên sườn của cậu. Người đàn ông thở một hơi dài não nề qua kẽ răng, rồi ngẩng đầu lên nhìn Will không chút đề phòng. Trong ánh lửa vàng của cành cây đang cháy đều đều, Will nhìn thấy một khuôn mặt nhăn nhó với nhiều cảm xúc giằng xé: hy vọng, sợ hãi và cảm giác được giải thoát quyện vào nhau trong vẻ bất an đầy đau khổ.
Khi người đàn ông cất tiếng, giọng lão vỡ ra, giản dị như một đứa trẻ đang buồn rầu.
“Nó nặng lắm,” lão rầu rĩ nói. “Và ta đã phải mang nó rất lâu rồi. Ta thậm chí còn không thể nhớ được tại sao nữa. Luôn luôn sợ hãi, luôn luôn phải chạy trốn. Giá mà ta có thể loại bỏ nó, giá mà ta được nghỉ ngơi. Ôi, giá mà nó biến đi. Nhưng ta không dám đưa sai người, ta không dám. Những chuyện sẽ xảy ra với ta nếu ta làm vậy, chúng vô cùng kinh khủng, chúng không thể được diễn tả bằng lời. Những Cổ Nhân có thể tàn nhẫn, tàn nhẫn… Ta nghĩ ngươi đúng là người ta tìm kiếm, cậu bé ạ. Ta đã tìm kiếm ngươi rất lâu, rất lâu rồi, để trao Dấu Hiệu cho ngươi. Nhưng làm thế nào để ta có thể thật sự chắc chắn? Làm thế nào để ta có thể chắc chắn là ngươi không phải là một trò lừa gạt của Bóng Tối?”
Lão ta khiếp sợ quá lâu, Will nghĩ, đến mức lão đã quên mất cách để kết thúc nỗi sợ. Thật kinh khủng làm sao, khi phải chịu đựng nỗi cô đơn tột cùng như vậy. Lão không biết tin mình bằng cách nào; đã quá lâu rồi lão không còn tin ai nữa, lão đã quên mất phải làm thế nào… “Xem này,” cậu nhẹ nhàng nói. “Ông phải biết là tôi không thuộc về Bóng Tối. Hãy suy nghĩ đi. Ông đã chứng kiến tên Kỵ Sĩ cố gắng quật ngã tôi mà.”
Nhưng lão già đau khổ lắc đầu, và Will nhớ lại lão đã la hét và bỏ chạy thế nào ngay khi thấy tên Kỵ Sĩ xuất hiện.
“Được rồi, nếu điều đó không ích lợi gì,” cậu nói, “thì liệu ngọn lửa có nói lên điều gì không?”
“Ngọn lửa thì gần như là có thể,” Kẻ Lang Thang nói. Lão nhìn ngọn lửa đầy hy vọng; rồi khuôn mặt méo đi khi nỗi hoảng loạn lại kéo về. “Nhưng ngọn lửa này, nó sẽ mang bọn chúng đến, cậu bé ạ, cậu biết điều đó mà. Lũ quạ sẽ dẫn đường cho chúng. Làm thế nào để ta biết được liệu có phải cậu là một Cổ Nhân mới tỉnh dậy đang đùa nghịch hay đây là Dấu Hiệu để dẫn chúng đuổi theo ta?” Lão rên rỉ một mình đầy đau khổ, hai tay ôm chặt lấy hai vai. Đúng là một kẻ khốn khổ, Will thương hại nghĩ thầm. Nhưng bằng cách nào đó cậu phải làm cho lão ta hiểu.
Will nhìn lên. Trên đầu cậu giờ đây đàn quạ đang lười nhác lượn vòng đã đông hơn và cậu có thể nghe thấy tiếng chúng gọi nhau ầm ĩ. Có phải lão già đã đúng, có phải những con chim đen sì kia là sứ giả của Bóng Tối? “Kẻ Lang Thang, vì Chúa,” cậu sốt ruột nói. “Ông phải tin tôi - nếu ông không tin ai, dù chỉ một lần thôi, đủ để trao cho người đó Dấu Hiệu thì ông sẽ phải mang nó suốt đời. Có phải đó là điều ông muốn không?”
Lão già lang thang rền rĩ và lầm bầm, nhìn cậu trân trân bằng đôi mắt nhỏ tí điên dại; dường như hàng thế kỷ nay lão đã bị mắc kẹt trong sự ngờ vực giống như một con ruồi bị mắc vào mạng nhện. Nhưng con ruồi vẫn còn có cánh để có thể giúp chúng thoát ra khỏi mạng nhện; hãy trao cho lão sức mạnh để vỗ đôi cánh đó, chỉ một lần thôi… Thôi thúc bởi một phần nào đó rất lạ trong thâm tâm, và cũng không biết rõ lắm việc mình đang làm, Will nắm lấy vòng tròn trên thắt lưng và vươn thẳng người, cao hết sức có thể được và chỉ tay vào Kẻ Lang Thang, nói dõng dạc: “Cổ Nhân cuối cùng đã xuất hiện, hỡi Kẻ Lang Thang, thời khắc đã điểm. Bây giờ là thời điểm để trao lại Dấu Hiệu, bây giờ hoặc không bao giờ. Hãy chỉ nghĩ về điều đó - sẽ không còn cơ hội nào khác nữa. Ngay bây giờ, Kẻ Lang Thang. Trừ phi ngươi muốn phải mang nó suốt đời, ngay bây giờ hãy tuân lệnh Cổ Nhân. Ngay lập tức!”
Như thể những lời ấy đã làm một cái lò xo bật ra. Ngay lập tức, mọi nỗi sợ hãi và nghi ngờ trên khuôn mặt già nua nhăn nhó giãn ra thành vẻ ngoan ngoãn nghe lời của một đứa trẻ. Với nụ cười thích thú gần như ngớ ngẩn, Kẻ Lang Thang dò dẫm sờ cái dây da to bản mà lão đang đeo chéo ngang ngực, rút ra một vòng tròn được chia tư bởi hình một dấu chữ thập giống hệt như cái Will đang đeo ở thắt lưng, nhưng nó phát ra ánh sáng màu vàng nâu đùng đục của đồng. Lão đặt nó vào tay Will, và bật ra một tiếng cười khúc khích trong niềm vui sướng đầy kinh ngạc.
Trước mặt họ, ngọn lửa vàng từ cành cây trên tuyết đột ngột sáng bùng lên rồi tắt ngấm.
Cành cây trở lại y nguyên như khi Will mới bước vào con hẻm: xám, không chút muội than, lạnh ngắt, như thể chưa đốm lửa nào chạm được vào nó. Nắm chặt chiếc vòng bằng đồng, Will nhìn chằm chằm xuống cành cây xù xì vẫn đang nằm trên lớp tuyết phẳng lì. Giờ đây khi ánh lửa đã tắt, không gian dường như đột nhiên mờ mịt hơn, tràn ngập bóng tối và cậu giật mình nhận ra chiều sắp tàn. Muộn rồi. Cậu phải đi thôi. Và rồi một giọng nói trong trẻo vang lên từ khoảng tối trước mặt: “Chào cậu, Will Stanton.”
Kẻ Lang Thang kêu ré lên, một tiếng kêu sợ hãi, the thé khó nghe. Will vội bỏ vòng tròn bằng đồng vào túi và khó nhọc bước về phía trước. Rồi cậu gần như ngồi hẳn xuống tuyết vì nhẹ nhõm khi cậu nhận ra người vừa đến chỉ là Maggie Barnes, cô gái vắt sữa làm việc ở Trại Dawson. Maggie, người hâm mộ có đôi má đỏ như hai trái táo của Max này chẳng có gì đáng sợ cả. Thân hình béo tròn của chị ta quấn kỹ trong áo khoác, ủng và khăn; chị ta đang xách một cái giỏ đậy kín, đi xuôi về hướng con đường chính. Chị ta cười với Will rồi nhìn Kẻ Lang Thang vẻ cáo buộc.
“Ơ kìa,” chị nói bằng chất giọng vùng Buckingham sang sảng, “lão già lang thang này đã quanh quẩn ở đây nửa tháng rồi. Ông chủ trang trại nói ông ấy muốn lão biến đi cho khuất mắt đấy, lão già kia. Lão ta đã quấy rầy cậu phải không, Will? Tôi dám cá là thế.” Chị ta trừng mắt nhìn Kẻ Lang Thang đang ủ rũ thu mình vào chiếc áo khoác dơ dáy giống hệt cái áo choàng không tay.
“Ồ, không,” Will đáp. “Lúc đấy em lao trên chiếc xe buýt khởi hành từ Slough xuống, và em… đâm sầm vào ông ấy. Đúng là đâm sầm vào. Rơi hết cả đồ Giáng sinh,” cậu vội vàng nói thêm và cúi xuống nhặt các loại hộp, túi vẫn đang nằm vung vãi trên tuyết.
Kẻ Lang Thang khịt khịt mũi, thu mình sâu hơn vào trong áo khoác và lê bước vượt qua Maggie để trở lại lối đi. Nhưng khi đi ngang qua Maggie, lão đột ngột dừng lại, giật nảy người về phía sau như thể vừa chạm phải một thanh chắn vô hình. Lão há hốc mồm, nhưng không kêu được tiếng nào. Will chậm chạp đứng thẳng dậy, quan sát, đống đồ chất đống trên tay. Một cảm giác lo sợ bắt đầu bò khắp người cậu, giống như cái ớn lạnh của một cơn gió lạnh lẽo.
Maggie Barnes nói với vẻ hòa nhã: “Chuyến xe Slough trước đã qua đây lâu lắm rồi, cậu Will nhỉ. Thực ra, tôi đang đi bắt chuyến tiếp theo đây. Lần nào từ trạm dừng xe buýt đi về, cậu cũng mất nửa giờ cho đoạn đường chỉ cần năm phút à, Will Stanton?”
“Em nghĩ việc em làm gì mất bao lâu thì liên quan gì đến chị,” Will trả lời. Cậu đang quan sát Kẻ Lang Thang lạnh cóng, và một vài hình ảnh rối bời hiện ra trong đầu cậu.
“Cư xử thế đấy, cư xử thế đấy,” Maggie nói. “Mà cậu lại là một cậu bé được dạy dỗ tử tế chứ.” Đôi mắt chị ta sáng rực lên, nhìn xoáy vào Will qua tấm khăn choàng đầu.
“Được rồi, tạm biệt, Maggie,” Will nói. “Em phải về nhà đây. Đã quá giờ uống trà rồi.”
“Vấn đề với bọn lang thang bẩn thỉu ghê tởm này, giống như lão già mà cậu đã đâm sầm vào nhưng hắn vẫn chưa kịp làm phiền cậu,” Maggie Barnes vẫn không nhúc nhích mà nhẹ nhàng nói, “vấn đề với bọn họ là bọn họ ăn cắp mọi thứ. Chính tên này hôm nọ đã ăn cắp một thứ ở trang trại, cậu Will ạ, một thứ thuộc về tôi. Một món đồ trang sức. Một món đồ trang sức hình tròn khá lớn có màu nâu vàng mà tôi vẫn thường đeo trên cổ. Và tôi muốn lấy lại nó. Ngay bây giờ!.” Những từ cuối cùng bật ra với giọng hiểm độc, nhưng sau đó chị ta lại vô cùng ngọt ngào như thể giọng nói dịu dàng của chị ta chưa bao giờ thay đổi. “Tôi muốn lấy lại nó, tôi muốn vậy. Và tôi cho là có thể lão đã tuồn nó vào túi cậu nhân lúc cậu không để ý, khi cậu đâm vào lão. Nếu lão thấy tôi đang đến thì lão sẽ làm thế đấy, mà lão thì có thể thấy rõ lắm chứ, nhờ ánh sáng từ cái đống lửa nhỏ kỳ quặc mà tôi vừa nhìn thấy đang cháy ở chỗ này. Cậu nghĩ gì về tất cả những chuyện đó hả Will Stanton?”
Will nuốt nước bọt. Tóc gáy cậu dựng ngược lên khi nghe những lời lẽ đó. Chị ta đang đứng, trông vẫn hệt như thường ngày, một cô gái có đôi má đỏ hồng, chất phác, phụ trách chiếc máy vắt sữa của nhà Dawson và chăm sóc lũ bê con; nhưng những lời chị ta đang nói ra không thể xuất phát từ một tâm địa nào ngoài tâm địa của Bóng Tối. Có phải chúng đã nhập vào Maggie? Hay từ trước đến giờ chị ta vẫn là người của bọn chúng? Nếu đúng như vậy thì chị ta còn có thể làm gì nữa?
Cậu đứng đối diện với chị ta, một tay ôm chặt đống quà, một tay thận trọng thò vào trong túi. Dấu Hiệu Đồng lạnh toát dưới ngón tay cậu. Cậu triệu tập toàn bộ sức mạnh của ý nghĩ mà cậu có để đuổi chị ta đi nhưng chị ta vẫn đứng đó, lạnh lùng mỉm cười với cậu. Cậu gọi tất cả tên các quyền năng ông Merriman từng gọi mà cậu có thể nhớ được để thực hiện pháp thuật đuổi chị ta đi: Quý Bà, Vòng Tròn, và những Dấu Hiệu. Nhưng cậu biết cậu vẫn chưa gọi được đúng quyền năng. Và Maggie phá lên cười, thong thả tiến lên, nhìn vào mặt cậu, và Will nhận ra mình không thể nhúc nhích được.
Cậu đã bị bắt, chết cứng như Kẻ Lang Thang; đứng bất động một chỗ và không thể di chuyển được lấy một phân. Cậu giận dữ nhìn chằm chằm vào Maggie Barnes trong chiếc khăn quàng đỏ mịn và chiếc áo khoác đen kín đáo, trong lúc chị ta thò tay vào túi áo khoác của cậu và lôi Dấu Hiệu Đồng ra. Chị ta giơ nó trước mặt cậu, rồi nhanh chóng mở cúc áo khoác của cậu, tháo thắt lưng ra và luồn cái vòng tròn bằng đồng vào cạnh vòng tròn sắt.
“Kéo quần lên đi, Will Stanton,” chị ta châm chọc. “Ôi trời ơi, nhưng bây giờ thì cậu không thể làm thế được, phải không… Nhưng thật ra cậu đâu có đeo cái thắt lưng này để giữ quần phải không? Cậu đeo nó để giữ những… vật trang sức… bé xinh này an toàn…” Will để ý thấy chị ta cố hết sức chỉ cầm hờ hai Dấu Hiệu, và nhăn mặt lại khi phải chạm mạnh vào chúng; cái lạnh từ những vòng tròn này chắc hẳn đã thấu đến tận xương tủy chị ta.
Cậu nhìn trong nỗi tuyệt vọng vô bờ. Cậu không thể làm gì. Mọi nỗ lực và công sức tìm kiếm đang bị đổ xuống sông xuống bể khi mà thậm chí cậu còn chưa làm được việc gì ra trò, và cậu không thể làm gì. Cậu vừa muốn hét lên giận dữ, vừa muốn òa khóc. Nhưng rồi, một cái gì đó lay động trong thẳm sâu tâm trí cậu. Một chi tiết nào đó thoảng qua trong ký ức, nhưng cậu không tài nào nắm bắt được. Cậu chỉ nhớ ra điều đó đúng vào giây phút Maggie Barnes má đỏ giơ chiếc thắt lưng ra trước mặt cậu, với vòng tròn thứ nhất và vòng tròn thứ hai để cạnh nhau, chiếc bằng sắt xám đục và chiếc bằng đồng sáng bóng. Hau háu nhìn hai chiếc vòng, Maggie cất tiếng cười ngạo nghễ, tiếng cười dường như càng có vẻ độc địa hơn khi được phát ra từ bộ mặt hồng hào cởi mở của chị ta. Và Will đã nhớ ra.
…khi vòng tròn cửa hắn đặt trên thắt lưng của cậu, bên cạnh Dấu Hiệu đầu tiên, thì ta sẽ đến…
Đúng lúc đó, ngọn lửa bùng lên từ cành cây đu rơi trên mặt đất mà Will đã đốt lúc trước, và ngọn lửa không biết từ đâu tạo thành một vòng sáng trắng lóa bao quanh Maggie Barnes, một vòng ánh sáng cao quá đầu chị ta. Chị ta đột nhiên sụp xuống tuyết, người co rúm lại, miệng méo xệch vì sợ hãi. Chiếc thắt lưng có hai Dấu Hiệu nối với nhau rơi khỏi bàn tay mềm rũ của chị ta.
Và ông Merriman đang đứng đó. Cao lớn trong chiếc áo khoác đen dài, khuôn mặt khuất trong bóng tối của chiếc mũ trùm đầu, ông đang đứng đó bên lề đường, ngay phía trên vòng tròn sáng rực và người con gái đang rúm ró.
“Mang cô ta ra khỏi con đường này,” ông hô to, dõng dạc, và vòng lửa sáng rực từ từ dịch sang một bên, đẩy cô nàng Maggie loạng choạng bước theo, cho đến khi nó là là trên mặt đất gồ ghề cạnh lối đi. Rồi với một tiếng nổ lách tách bất ngờ, vòng lửa biến mất, thay vào đó, Will thấy hai rào chắn khổng lồ bằng ánh sáng mọc lên từ hai bên đường tạo thành hai hàng rào những ngọn lửa cháy rực, trải dài về cả hai phía cho đến hút tầm mắt - dài hơn rất nhiều so với Hẻm Lang Thang Will từng biết. Cậu nhìn trân trân vào hàng rào ánh sáng ấy, cảm thấy hơi rờn rợn. Trong bóng tối bên ngoài, cậu có thể nhìn thấy Maggie Barnes đang bò lổm ngổm trên tuyết một cách thảm hại, hai cánh tay đưa lên mắt che ánh sáng. Còn cậu, ông Merriman và Kẻ Lang Thang đứng trong con đường hầm rộng lớn vô tận được dựng nên bởi những ngọn lửa trắng lạnh.
Will cúi xuống nhặt dây lưng lên, và với một cảm giác chào mừng nhẹ nhõm, cậu nắm chặt hai Dấu Hiệu, cái bằng sắt ở bên tay trái và cái bằng đồng ở bên tay phải. Ông Merriman bước đến cạnh cậu, đưa cánh tay phải lên khiến chiếc áo choàng rủ xuống như cánh một con chim khổng lồ, và giơ một ngón tay dài chỉ về phía cô gái. Ông kêu to một cái tên dài lạ lùng mà Will chưa từng nghe thấy và cũng không thể nhớ được, và Maggie kêu ré lên.
Ông Merriman nói, giọng khinh bỉ lạnh như băng: “Hãy quay lại và nói với chúng rằng chúng không thể chạm vào các Dấu Hiệu. Và nếu ngươi vẫn chưa bị hao tâm tổn sức, thì cũng đừng có mà thử thực hiện lần nữa mưu đồ của mình khi đang đứng trên những Con Đường của chúng ta. Vì những con đường cổ đã được đánh thức và quyền năng của chúng đã sống lại. Và lần này thì chúng sẽ không còn thương hại hay xót xa nữa đâu.” Ông lại kêu to cái tên kỳ lạ đó và ngọn lửa bên lề đường bùng lên cao hơn, người con gái rú lên run rẩy, như thể đang vô cùng đau đớn. Rồi chị ta lủi khỏi bãi tuyết, lưng còng xuống như một con vật ti tiện.
Ông Merriman nhìn Will. “Hãy nhớ có hai thứ đã cứu cậu,” ông nói, ánh sáng lấp lánh trên chiếc mũi khoằm và trong đôi mắt sâu thẳm khuất dưới mũ trùm đầu. “Thứ nhất, ta biết tên thật của cô ta. Cách duy nhất để tước bỏ sức mạnh của một kẻ thuộc thế lực Bóng Tối là gọi kẻ đó bằng tên thật của hắn: cái tên mà bọn chúng thường giữ rất kín. Thứ hai, ngoài cái tên ra, còn có con đường. Cậu có biết tên của con đường này không?”
“Hẻm Lang Thang ạ,” Will trả lời ngay.
“Đó không phải là tên thật,” Merriman nói với vẻ không hài lòng.
“Không phải ạ. Mẹ cháu chẳng bao giờ dùng tên đó cả, và cũng không muôn chúng cháu gọi thế. Mẹ nói, tên đó xấu lắm. Nhưng cháu chẳng thấy ai gọi nó bằng cái tên nào khác cả. Cháu cảm thấy thật ngốc nếu gọi nó là Ngõ…” Will đột ngột dừng lại, lần đầu tiên trong đời cậu thật sự được nghe và thốt ra cái tên ấy. Cậu nói chậm rãi: “Nếu cháu gọi nó bằng tên thật, Ngõ Đường Cổ.”
“Cậu sẽ cảm thấy mình ngớ ngẩn,” Merriman nghiêm nghị nói, “Nhưng chính cái tên khiến cậu cảm thấy ngớ ngẩn đó đã góp phần cứu sống cậu đấy. Ngõ Đường Cổ. Đúng vậy. Và nó không được đặt theo tên một ông Đường Cổ xa lắc xa lơ nào đó đâu. Cái tên đó chỉ đơn thuần cho biết con đường là gì, cũng giống như ý nghĩa của tên các con đường và địa danh trong những vùng đất cổ vậy, giá mà con người quan tâm đến chúng hơn nữa. Thật may là khi cậu đùa giỡn với ngọn lửa ấy thì cậu đang đứng trên một trong những Đường Cổ, nơi các Cổ Nhân đã đặt chân lên suốt ba nghìn năm qua, Will Stanton ạ. Nếu cậu đang ở bất kỳ nơi nào khác, với cái quyền năng còn chưa được rèn luyện đó của cậu, thì cậu đã tự đặt mình vào một tình huống dễ bị tấn công đến mức mọi thế lực Bóng Tối trên vùng đất này đều sẽ bị hút về chỗ cậu. Giống như cô nàng phù thủy kia đã bị lũ chim thu hút. Hãy nhìn kỹ con đường này, cậu bé, và đừng gọi nó bằng những tên thông tục nữa.”
Will nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm con đường có hai hàng rào bằng lửa trải dài tít tắp như một đường mặt trời huy hoàng nào đó, và đột nhiên có gì đó thôi thúc khiến cậu lóng ngóng cúi chào, gập lưng lại thấp hết mức đống quà cho phép. Những ngọn lửa lại bùng lên và uốn cong vào trong như thể chúng cũng cúi chào đáp lễ. Rồi chúng tắt lịm đi.
“Khá lắm,” ông Merriman nói với vẻ ngạc nhiên và có phần thích thú.
Will nói: “Cháu sẽ không bao giờ, không bao giờ làm bất kỳ chuyện gì bằng… bằng quyền năng nữa, trừ khi có lý do chính đáng. Cháu hứa. Có sự chứng giám của Quý Bà và thế giới cổ. Nhưng,” cậu không thể kiềm chế được “ông Merriman, chính ngọn lửa đó đã dẫn Kẻ Lang Thang đến với cháu, phải không ạ, và Kẻ Lang Thang mang theo Dấu Hiệu.”
“Kẻ Lang Thang đang đợi cậu, cậu ngốc ạ,” Merriman tức giận trả lời. “Ta đã nói là hắn sẽ tìm thấy cậu, và cậu thì lại không nhớ ra. Bây giờ thì hãy ghi nhớ. Trong thế giới pháp thuật, mọi lời nói dù nhỏ nhất cũng đều có ý nghĩa và trọng lượng. Mọi lời mà ta nói với cậu - hay mọi lời mà bất kỳ Cổ Nhân nào khác có thể nói. Kẻ Lang Thang ư? Từ rất lâu rồi, lâu đến mức cậu không thể tưởng tượng nổi, hắn đã đợi cậu được sinh ra, đợi cậu đứng một mình với hắn và yêu càu hắn đưa Dấu Hiệu. Ta phải nói rằng cậu đã làm rất tốt - vấn đề khó khăn nhất là khiến cho hắn từ bỏ Dấu Hiệu khi thời điểm đã đến. Kẻ khốn khổ. Hắn đã có lần phản bội các Cổ Nhân, cách đây rất lâu rồi, và đây là số phận của hắn.” Giọng ông hơi dịu xuống. “Quả là một thời kỳ vất vả cho hắn, phải mang theo Dấu Hiệu thứ hai. Nếu hắn muốn, hắn còn có thể đảm nhiệm một việc khác trong sứ mệnh của chúng ta, trước khi hắn có thể nghỉ ngơi. Nhưng chưa phải bây giờ.”
Cả hai cùng nhìn thân hình bất động của Kẻ Lang Thang, lão vẫn đang đứng im lìm bên đường từ lúc bị Maggie Barnes yểm bùa.
“Đúng là một tư thế chẳng dễ chịu tí nào,” Will nói.
“Hắn chẳng cảm thấy gì đâu,” ông Merriman nói. “Thậm chí sẽ chẳng bị tê chân tê tay gì cả. Các Cổ Nhân và những kẻ thuộc Bóng Tối có chung một vài pháp thuật nho nhỏ, và một trong số đó là đưa con người ra khỏi Thời Gian trong một khoảng cần thiết. Hay đối với thế lực Bóng Tối thì chúng sẽ đưa người ta đi bao lâu tùy ý thích của chúng.”
Ông chỉ tay vào cái dáng bất động, không rõ hình thù rồi khẽ đọc nhanh một vài lời thần chú mà Will không nghe được, và Kẻ Lang Thang tỉnh dậy, giống như hình ảnh trong một đoạn phim đang tạm ngừng được bật trở lại. Lão mở to mắt nhìn ông Merriman và há hốc mồm, kêu lên một âm thanh khô khốc kỳ quặc không thành tiếng.
“Đi đi,” ông Merriman nói. Lão già co rúm lại, siết chặt cái áo đang bay lật phật quanh người rồi lóng ngóng nửa chạy nửa đi xuôi theo con đường hẹp. Đang dõi theo lão, Will chợt chớp mắt, rồi nhìn thật kỹ, rồi lại dụi mắt; dường như Kẻ Lang Thang đang mờ dần, mỏng đi một cách lạ thường, đến mức cậu có thể nhìn xuyên qua người lão ta thấy những cái cây phía bên kia. Rồi lão đột nhiên biến mất, giống như một ngôi sao bị mây che khuất.
Ông Merriman nói: “Ta làm đấy, không phải tự hắn đâu. Ta nghĩ, hắn xứng đáng có được một khoảng thời gian yên bình tại một nơi nào đó khác. Đó là quyền năng của Đường Cổ, Will ạ. Cậu đã có thể dùng mẹo này để thoát khỏi cô ả phù thủy kia, một cách vô cùng dễ dàng, nếu cậu biết cách. Trong thời gian tới, cậu sẽ được học điều đó, cùng với những tên thật và nhiều điều khác nữa.”
Will tò mò hỏi: “Thế tên thật của ông là gì?”
Đôi mắt đen lấp lánh chiếu vào cậu từ bên trong chiếc mũ trùm đầu. “Merriman Lyon. Ta đã nói với cậu khi chúng ta mới gặp nhau rồi.”
“Nhưng cháu nghĩ nếu đó đúng là tên thật của ông, của một Cổ Nhân, thì ông đã không nói cho cháu biết.” Will nói, “Hay ít ra là cũng không nói to lên.”
“Cậu đang vỡ ra rồi đấy,” ông Merriman vui vẻ nói. “Đi thôi, trời tối rồi.”
Họ cùng đi xuôi theo lối đi nhỏ. Tay ôm đống túi và hộp, Will lóc cóc chạy bên cạnh dáng người khoác áo choàng đang sải bước đó. Họ nói chuyện rất ít nhưng ông Merriman luôn đưa tay giữ lấy cậu khi cậu hẫng chân xuống hố hay vấp vào đống gì đó. Khi họ đã đi được một đoạn xa, đến khúc ngoặt rẽ vào con đường rộng hơn, đường Thung Lũng Thợ Săn, Will nhìn thấy Max, anh trai cậu, đang rảo bước về phía họ.
“Nhìn kìa, anh Max đấy!”
“Phải rồi,” ông Merriman đáp.
Max gọi, vẫy tay vui vẻ, rồi tiến đến gần. “Anh đang đến trạm xe buýt đón em đây,” anh nói. “Mẹ lo cuống lên vì cục cưng của mẹ về muộn đấy.”
“Thôi đi, vì Chúa,” Will đáp.
“Tại sao em lại đi đường kia?” Max vẫy tay về hướng Hẻm Lang Thang.
“Chúng em vừa…” Will bắt đầu, và khi quay đầu để chỉ sang phía ông Merriman thì cậu không nói tiếp được nữa, đột ngột đến mức cậu cắn cả vào lưỡi.
Ông Merriman đã biến mất. Trên nền tuyết nơi ông vừa đứng chỉ một giây trước đó không sót lại bất kỳ dấu vết gì. Và khi Will nhìn lại con đường họ vừa đi qua để tới đường Thung Lũng Thợ Săn, hướng tới tận khúc quanh xa nhất của lối đi nhỏ hơn, cậu chỉ có thể nhìn thấy một hàng dấu chân duy nhất - dấu chân của chính cậu.
Cậu tưởng như vừa nghe thấy trong không gian một tiếng nhạc mơ hồ trong như tiếng bạc, nhưng ngay khi cậu ngẩng đầu lên lắng nghe thì tiếng nhạc ấy cũng biến mất.