← Quay lại trang sách

Phần 2 - Kiến Thức Ngày trước Giáng sinh

Ngày trước Giáng sinh. Đó là ngày mà niềm vui Giáng sinh thật sự bùng cháy trong nhà Stanton. Những ngụ ý, những bóng gió và hứa hẹn về các món quà đặc biệt vốn đã được nhỏ to trong nhà hàng tuần trước bây giờ đột ngột bùng lên thành niềm mong ngóng khôn nguôi. Mùi bánh nướng thơm phức từ bếp tỏa khắp ngôi nhà, đến tận góc nhà nơi Gwen đang hoàn thành những nét trang trí cuối cùng trên lớp kem của chiếc bánh Giáng sinh. Mẹ đã làm chiếc bánh này từ ba tuần trước, còn chiếc bánh putđing[7] dành cho lễ Giáng sinh thì từ ba tháng trước cơ. Mỗi khi có ai đó bật đài lên, tiếng nhạc Giáng sinh quen thuộc nhưng không bao giờ cũ lại tràn ngập không gian. Không ai bật tivi vì vào thời gian này nó đã trở thành thứ đồ không thích hợp. Đối với Will, không khí của ngày hôm nay đã đến từ rất sớm. Ngay sau bữa sáng - một bữa sáng lộn xộn hơn hẳn ngày thường - là đến nghi lễ kép đốt củi Giáng sinh[8] và trồng cây Giáng sinh.

Ông Stanton đang ăn nốt lát bánh mì nướng cuối cùng. Will và James bồn chồn đứng hai bên, cạnh bàn ăn sáng. Người bố cầm trong tay miếng vỏ bánh ăn dở, dán mắt vào trang thể thao của tờ báo. Bình thường Will cũng rất say mê theo dõi số phận câu lạc bộ bóng đá Chelsea, nhưng trong buổi sáng trước Giáng sinh thì khác.

“Bố ơi, bố có muốn ăn thêm ít bánh nữa không ạ?” Cậu hỏi thật to.

“Ừm,” ông Stanton ậm ừ. “À à.”

James hỏi: “Bố uống trà thế đã đủ chưa ạ?”

Ông Stanton nhìn lên, quay cái đầu tròn với đôi mắt hiền hậu sang hai bên nhìn từng đứa một rồi bật cười. Ông đặt tờ báo xuống, uống cạn tách trà, rồi nhét nốt miếng bánh mì vào mồm. “Nào, đi thôi,” ông lúng búng trong miệng, xách tai từng đứa một. Cả hai đứa hò reo sung sướng rồi vội vàng chạy đi lấy ủng, áo khoác và khăn quàng.

Họ đẩy chiếc xe ba gác xuống đường, theo sau là Will, James, ông Stanton và anh chàng Max cao kều, còn to hơn cả bố, hơn tất cả mọi người, với mái tóc đen dài tua tủa thò ra ngoài chiếc mũ lưỡi trai càn quấy nom thật tức cười. Không biết Maggie Barnes sẽ nghĩ gì về cái bộ dạng này, Will vui vẻ nghĩ thầm, khi chị ta tinh nghịch nhìn trộm qua rèm cửa để liếc mắt đưa tình với Max như thường lệ đây; và ngay lập tức, cậu nhớ lại chuyện về Maggie Barnes, và cậu nhủ thầm trong một khoảnh khắc hoảng hốt: Trại chủ Dawson là một trong các Cổ Nhân, bác ấy cần phải được cảnh báo về chị ta - và cậu gần như phát điên vì trước kia đã không nghĩ tới chuyện này.

Họ dừng lại trong sân nhà Dawson, được cụ George Smith ra đón với một nụ cười rộng ngoác. Sáng hôm đó đường dễ đi hơn vì người ta đã cho máy xúc tuyết đi qua một lượt; nhưng khắp nơi, tuyết vẫn nằm bất động trong cái lạnh triền miên, xám xịt và không một chút gió.

“Tôi đã để dành cho ông một cây hết ý nhé!” Cụ George vui vẻ kêu lên. “Thẳng như cột buồm, giống hệt cây của Trại chủ. Cùng là hai cây Hoàng Gia thì phải.”

“Đúng là Hoàng Gia thật,” ông Dawson nói, vừa bước ra ngoài vừa khép chặt chiếc áo khoác quanh người. Will biết ông nói theo nghĩa đen; hàng năm, đồn điền Vương Miện bao quanh Cung điện Windsor[9] đều bán một số cây Giáng sinh và nhiều cây được chở về làng bằng xe tải của Trại Dawson.

“Chào Frank,” ông Stanton nói.

“Chào Roger,” Trại chủ Dawson đáp lại, và cười với các cậu bé. “Này, các chàng trai. Đẩy cái xe vòng ra phía sau đi.” Đôi mắt ông nhìn Will bâng quơ, không hề tỏ ra chú ý, nhưng Will đã cố tình mở hé áo khoác để cho thấy trên thắt lưng của cậu giờ đã có hai Dấu Hiệu vòng tròn chia tư, chứ không phải một.

“Nhìn cả nhà vui vẻ mà tôi cũng thấy vui lây,” ông Dawson hồ hởi nói với cả mấy bố con, trong lúc ba anh em hì hục kéo cái xe đẩy vòng sang phía sau chuồng ngựa; tay ông thoáng đặt lên vai Will, hơi ấn xuống để nhắn nhủ rằng Trại chủ Dawson đã biết về những chuyện xảy ra trong vài ngày qua. Cậu nghĩ tới Maggie Barnes và vội vàng tìm cách cảnh báo ông.

“Bạn gái anh đâu, Max?” Cậu cố tình hỏi thật to và dõng dạc.

“Bạn gái á?” Max tức giận nối. Vốn đang có mối quan hệ rất thân mật với một nàng sinh viên tóc vàng học cùng Trường Nghệ Thuật London, người vẫn ngày ngày gửi cho anh những phong bì thư màu xanh dày cộp, anh chẳng thèm mảy may quan tâm tới tất cả đám thiếu nữ trong vùng.

“Hô, hô, hô[10],” Will cố gắng hô to. “Anh biết mà.”

Thật may mắn, James cũng thích những trò kiểu này và hào hứng tham gia. “Maggie-maggie-maggie,” James khoái chí hát. “Ôi Maggie, nàng vắt sữa dễ thương yêu Maxie chàng nghệ sĩ vĩ đại, oooh… oooh…” Max thụi vào sườn James, và anh chàng này phá lên cười hinh hích.

“Cô Maggie buộc phải chia tay chúng tôi rồi,” ông Dawson lạnh lùng thông báo. “Chuyện ốm đau trong gia đình, cần có mặt ở nhà. Cô ấy đã khăn gói lên đường từ sáng sớm nay rồi. Rất tiếc vì đã làm cậu thất vọng, Max.”

“Cháu không thất vọng,” Max nói, mặt đỏ bừng lên. “Đó chỉ là mấy trò đùa lăng nhăng vớ vẩn…”

“Ô ô ô…” James lại vừa hát vừa nhảy nhót, cách xa tầm tay Max. “Ô ô Maxie tội tình thay, đã để mất nàng Maggie của mình…”

Will không nói gì. Cậu đã thỏa mãn.

Cây thông cao lớn với đám cành lá buộc gọn ghẽ bằng những dải dây màu trắng lù xù được chất lên xe đẩy, và cùng với nó là một đoạn rễ sồi sần sùi mà Trại chủ Dawson đã cưa ra và chẻ làm đôi ngay từ đầu năm để dành làm Khúc gỗ Noel cho cả nhà ông và nhà Stanton. Nó phải là rễ chứ không phải cành cây, Will biết vậy, mặc dù chưa từng có ai giải thích tại sao. Tối nay, họ sẽ đốt khúc gỗ ấy trong chiếc lò sưởi lớn xây bằng gạch trong phòng khách của gia đình, và nó sẽ cháy âm ỉ cả buổi tối cho đến khi họ đi ngủ. Mọi người còn cất một mẩu gỗ Noel năm ngoái ở đâu đó để dùng làm mồi châm lửa cho khúc gỗ năm nay.

“Đây,” cụ George nói, đột ngột xuất hiện cạnh Will khi cả mấy bố con đang đẩy chiếc xe ra khỏi cổng. “Nhà anh nên có thêm cả cái này nữa.” Cụ chìa ra một bó cây nhựa ruồi[11] nặng trĩu quả.

“Cụ tốt bụng quá, cụ George ạ,” ông Stanton nói. “Nhưng chúng tôi có cả một cây nhựa ruồi to tướng trồng ngay trước cửa rồi, cụ biết mà. Nếu cụ biết ai đó chưa có thì…”

“Không, không, cứ lấy đi,” ông cụ ngoắc ngón tay. “Cây nhà anh chẳng có được một nửa số quả so với chỗ này đâu. Đây là cây nhựa ruồi đặc biệt đấy.” Cụ cẩn thận đặt nó lên xe; rồi bẻ nhanh một nhánh cây con, kín đáo cài nó lên khuy áo khoác trên cùng của Will. “Và một sự bảo vệ hiệu quả chống lại Bóng Tối,” giọng nói già nua hạ thấp xuống bên tai Will, “nếu treo trên cửa sổ và cửa ra vào.” Rồi cụ toét miệng, phô ra hai hàng lợi hồng hồng, làm khuôn mặt nâu sạm nhăn nheo của cụ giãn ra trong một nụ cười xa xưa, và Cổ Nhân lại trở về là cụ George, vẫy chào tạm biệt họ. “Chúc mừng Giáng sinh!”

“Chúc mừng Giáng sinh, cụ George!”

Khi họ long trọng đưa cái cây vào nhà qua cửa trước thì hai đứa sinh đôi đã đón sẵn với một tấm ván hình chữ thập và tuốc nơ vít, để làm bệ cho nó. Ở cuối phòng, Mary và Barbara đang ngồi giữa một biển giấy màu sột soạt, cắt chúng thành những dải băng đủ màu, đỏ, vàng, xanh da trời, xanh lá cây, rồi dán thành dây xúc xích.

“Lẽ ra chị phải làm xong từ ngày hôm qua rồi chứ,” Will nói. “Còn phải để cho hồ dán khô đi nữa.”

“Lẽ ra em phải làm xong từ ngày hôm qua thì có,” Mary tức tối nói, hất mái tóc dài về phía sau. “Đây là việc của con út chứ.”

“Hôm trước em đã cắt bao nhiêu là dải rồi mà,” Will nói.

“Bọn chị dán hết từ lâu rồi.”

“Dù sao đi nữa thì em cũng đã cắt rồi.”

“Hơn nữa,” Barbara dàn hòa. “Hôm qua nó đã đi sắm đồ Giáng sinh. Nên tốt hơn hết là ngậm miệng lại, Mary ạ, không thì có khi nó giữ quà của em lại đấy.”

Mary vẫn còn càu nhàu nhưng đã dịu bớt, và Will miễn cưỡng dán một vài dây xúc xích lại với nhau. Nhưng mắt cậu vẫn dõi ra phía cửa, và khi thấy James cùng bố xuất hiện, tay ôm đầy những hộp cactông cũ thì cậu lặng lẽ lẻn ra theo sau hai người. Không gì có thể ngăn cậu trang hoàng cây Noel cả.

Bên trong những chiếc hộp là tất cả những vật trang trí quen thuộc để biến cuộc sống thường ngày của gia đình thành một lễ hội kéo dài mười hai ngày đêm; bức tượng thiên thần tóc vàng để đặt lên ngọn cây, những dây đèn màu nhấp nháy. Còn có cả những quả bóng thủy tinh mỏng mảnh để treo lên cây Noel, được giữ gìn rất cẩn thận nhiều năm nay. Những hình bán cầu xoắn trông như những con sò màu đỏ và màu vàng lục, những mũi tên bằng thủy tinh dài mảnh, những mạng nhện được làm từ sợi và hạt thủy tinh màu bạc; được treo trên những cành lá khuất trong bóng tối, chúng khẽ đung đưa và tỏa ánh sáng mờ ảo.

Ngoài ra, còn biết bao thứ quý giá khác. Những ngôi sao vàng nhỏ xinh và những vòng tròn bện bằng rơm; những chiếc chuông bằng giấy bạc nhẹ nhàng đung đưa. Rồi đến một loạt những sản phẩm trang trí của mấy đứa trẻ nhà Stanton, từ một chú tuần lộc nhỏ mà Will làm từ cái ống thông điếu cho đến hình chữ thập rỗng tuyệt đẹp mà Max uốn bằng dây đồng ngay trong năm đầu tiên ở trường nghệ thuật. Tiếp đó là chùm dây kim tuyến lóng lánh để phủ lên bất kỳ nơi nào, và thế là cái hộp hết sạch đồ.

Nhưng vẫn chưa hẳn đã hết. Trong khi cẩn thận đưa tay lục lọi trong mớ giấy vụn chất đầy trong một chiếc thùng cactông cũ cao gần bằng cậu, Will tìm thấy một chiếc hộp dẹt chỉ to bằng bàn tay của cậu. Nó kêu lóc xóc.

“Cái gì đây nhỉ?” cậu tò mò hỏi, cố gắng cậy cái nắp ra.

“Chúa ơi,” bà Stanton đang ngồi trong chiếc ghế bành giữa phòng bỗng kêu lên. “Mang đây cho mẹ xem chút nào, cưng. Đó có phải là…. ôi đúng rồi! Nó ở trong cái hộp lớn kia à? Mẹ cứ nghĩ là nhà mình đã đánh mất nó từ lâu lắm rồi cơ đấy. Anh Roger ơi, nhìn xem này. Xem cậu út của chúng ta đã tìm được gì đây này. Đây chính là cái hộp chữ cái của Frank Dawson mà.”

Bà ấn vào một cái chốt trên nắp hộp và nó kêu tách lên, bật ra. Will nhìn thấy bên trong có những miếng gỗ nhỏ chạm trổ tinh xảo, một loại gỗ nhẹ nào đó mà cậu không biết tên. Bà Stanton cầm một miếng lên: một chữ S uốn lượn, với cái đầu rắn được tỉa tót tỉ mỉ tuyệt đẹp và phần thân rắn có vảy uốn quanh một sợi dây gần như vô hình. Rồi đến một miếng khác: một chữ M cong cong, hai đỉnh nhô lên giống như hai ngọn tháp sinh đôi của một nhà thờ huyền ảo. Những nét chạm khắc tinh xảo đến mức gần như không thể nhận ra mấu nối giữa miếng gỗ với sợi dây mảnh dùng để treo chúng lên.

Ông Stanton leo xuống chiếc thang đứng đến gần nhẹ nhàng thò một ngón tay vào trong hộp. “Ái chà chà,” ông nói. “Giỏi lắm Will.”

“Con chưa bao giờ nhìn thấy cái hộp này,”

“Thật ra con đã nhìn thấy rồi,” mẹ cậu nói. “Nhưng từ lâu lắm rồi nên con không nhớ đấy thôi. Nó biến mất từ bao năm nay rồi. Hóa ra là nó nầm dưới đáy cái hộp cũ kia từ bấy đến giờ.”

“Nhưng chúng là gì vậy ạ?”

“Đồ để trang hoàng cây Noel chứ còn gì nữa,” Mary lên tiếng khi cô nhòm xuống qua vai mẹ.

“Trại chủ Dawson làm cho chúng ta đấy,” bà Stanton nói. “Các con thấy không, nó được chạm trổ thật đẹp. Và tuổi của nó đúng bằng của gia đình mình - vào lễ Giáng sinh đầu tiên của chúng ta trong ngôi nhà này, Frank đã làm một chữ R cho Roger,” bà nhặt nó lên, “và một chữ A cho mẹ.”

Ông Stanton kéo ra hai chữ cái gắn liền với nhau bằng một sợi dây mảnh. “Robin và Paul. Hai chữ này có muộn hơn bình thường một chút. Bố mẹ không nghĩ là sẽ sinh đôi… Quả thật, Frank đúng là cừ. Anh không biết liệu đến giờ cậu ta có còn thời gian cho những việc như thế này không nữa?”

Bà Stanton vẫn đang lật từng miếng gỗ trang trí nhỏ bằng những ngón tay thanh mảnh nhưng cứng cáp. “M cho Max, và M cho Mary… Frank đã cáu điên lên với vợ chồng mình vì tội lặp lại, em vẫn còn nhớ rất rõ… Ôi, anh Roger,” giọng bà đột nhiên thấp xuống. “Nhìn cái này xem.”

Will đứng nhìn bên cạnh bố. Đó là một chữ T được tạc theo hình một cái cây nhỏ tinh tế với hai nhánh cây chĩa sang hai bên. “Chữ T ư?” Cậu hỏi. “Nhưng trong chúng con có tên ai bắt đầu bằng chữ T đâu?”

“Đó là Tom,” mẹ cậu trả lời. “Mẹ cũng thật sự không hiểu tại sao mẹ lại không bao giờ nói chuyện với đám em út các con về Tom. Chuyện đó đã lâu lắm rồi… Tom là người anh đã mất từ khi còn rất nhỏ của các con. Anh ấy bị bệnh phổi, một loại bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh, và anh ấy chỉ sống được có ba ngày. Bác Frank đã khắc sẵn chữ cái này cho anh ấy vì đó là con đầu lòng của bố mẹ, và bố mẹ đã chuẩn bị sẵn hai cái tên để lựa chọn: nếu là con trai sẽ tên là Tom, còn con gái sẽ tên là Tess…”

Giọng bà nghe như đang thổn thức và Will đột nhiên cảm thấy hối tiếc vì đã tìm ra những con chữ kia. Cậu vụng về vỗ nhẹ lên vai bà. “Đừng suy nghĩ gì cả, mẹ ạ,” cậu nói.

“Ôi, trời ơi,” bà Stanton mạnh mẽ nói. “Mẹ không buồn đâu, con yêu. Chuyện đó đã lâu lắm rồi. Nếu còn sống thì giờ Tom đã là một chàng trai rồi, lớn hơn cả Stephen. Mà nói cho cùng,” bà đưa ánh mắt hài hước nhìn khắp căn phòng chật ních người và hộp, “thì một đàn chín đứa con cũng đã là quá đủ đối với bất kỳ một người phụ nữ nào rồi.”

“Đúng vậy,” ông Stanton đồng tình.

“Đó là vì các cụ tổ làm nghề nông của mẹ đấy, mẹ ạ,” Paul lên tiếng. “Họ mong muốn gia đình đông con nhiều cháu. Nhiều lao động miễn phí.”

“Lại nói đến lao động miễn phí,” bố cậu nói, “James và Max biến đi đâu rồi nhỉ?”

“Đang đi lấy thêm hộp rồi ạ.”

“Có thế chứ. Rất năng động!”

“Tinh thần Giáng sinh mà,” Robin nói vọng xuống từ trên chiếc thang đứng. “Những người Thiên chúa giáo ngoan đạo ăn mừng, và những thứ tương tự như vậy. Sao ai đó không bật nhạc lên nhỉ?”

Barbara, đang ngồi trên sàn cạnh mẹ, cầm miếng gỗ khắc hình chữ T từ tay bà để xếp vào hàng chữ cô đặt trên thảm theo thứ tự các anh chị em trong nhà. “Tom, Steve, Max, Gwen, Robin và Paul, con, Mary, James,” cô đọc lần lượt. “Nhưng chữ W của Will đâu?”

“Chữ cái của Will cũng ở đó cùng với những miếng khác. Trong hộp ấy.”

“Em còn nhớ không, đó thực ra không phải là chữ W đâu,” ông Stanton nói. “Đó là một biểu tượng gì đó. Anh dám chắc lúc đó Frank đã chán ngấy chẳng muốn khắc chữ nữa rồi.” Ông toét miệng cười với Will.

“Nhưng nó không có ở đây,” Barbara nói. Cô dốc ngược chiếc hộp xuống và lắc lắc. Rồi, cô nhìn cậu em út với vẻ mặt rất nghiêm trọng. “Will,” cô nói, “mày không tồn tại.”

Nhưng từ đâu đó trong sâu thẳm tâm trí cậu, Will cảm nhận được một nỗi lo lắng đang lớn dần. “Bố nói đó là một biểu tượng, không phải là chữ W,” cậu nói thật tự nhiên. “Thế đó là biểu tượng gì ạ?”

“Một mạn đà la, bố nhớ là vậy,” ông Stanton đáp.

“Một cái gì ạ?”

Bố cậu cười khúc khích. “Đừng để ý làm gì, bố chỉ định thể hiện một chút thôi mà. Bố cũng không nghĩ là bác Frank sẽ gọi nó như thế. Một mạn đà la là một loại biểu tượng rất cổ từ thời con người còn tôn sùng thần mặt trời hay những vật siêu nhiên tương tự như thế - bất cứ hình tròn nào có các tia hướng vào trong hoặc hướng ra ngoài. Vật trang trí cây thông Noel của con chỉ là một mạn đà la đơn giản - một vòng tròn bên trong có một ngôi sao hoặc là một hình chữ thập. Bố nghĩ là chữ thập thì đúng hơn.”

“Em không hiểu tại sao nó lại không có ở đây cùng những chữ cái khác,” bà Stanton băn khoăn.

Nhưng Will thì biết tại sao. Nếu biết được tên thật của những kẻ thuộc phe Bóng Tối kia có thể tiếp thêm cho ta sức mạnh thì về phần chúng, có lẽ bọn chúng cũng có thể dùng ma thuật yểm lên những Dấu Hiệu tượng trưng cho cái tên của người nào đó, chẳng hạn một vật chạm khắc chữ cái đầu tên… Có thể ai đó đã lấy biểu tượng của cậu đi để yểm bùa cậu bằng cách đó chăng. Và có lẽ đó chính là lý do tại sao Trại chủ Dawson đã không khắc chữ cái đầu tên của cậu mà lại chạm trổ một biểu tượng mà không kẻ nào thuộc Bóng Tối có thể sử dụng được. Nhưng dù thế nào thì bọn chúng vẫn lấy cắp nó, để thử…

Một lúc sau, Will lén rời khỏi chỗ trang hoàng cây Noel, đi lên gác và ghim một nhánh cây nhựa ruồi lên cửa ra vào và trên tất cả các cửa sổ trong phòng cậu. Cậu cũng nhét một nhánh vào chiếc chốt mới sửa trên cửa sổ ở mái nhà. Cậu cũng làm tương tự đối với tất cả cửa sổ trong phòng James, nơi hai anh em sẽ ở cùng nhau trong suốt lễ Giáng sinh, rồi cậu xuống dưới nhà, đính một bó nhỏ gọn gàng lên phía trên cửa trước và cửa sau của ngôi nhà. Lẽ ra cậu cũng sẽ làm như vậy với tất cả cửa sổ trong nhà nếu không bị Gwen bắt gặp khi cô đi ngang qua sảnh.

“Ôi, Will ơi,” cô kêu lên. “Đừng có để khắp mọi nơi như thế. Đặt hết lên bệ lò sưởi hoặc ở đâu đó có thể giữ được nó ấy. Nếu không thì lần nào kéo rèm ra chúng ta cũng giẫm phải quả nhựa ruồi mất.”

Đúng là thái độ của đám đàn bà con gái, Will chán chường nghĩ thầm; nhưng cậu không muốn phản đối gay gắt khiến mọi người chú ý đến những cành nhựa ruồi của cậu. Dù trong bất cứ tình huống nào, cậu nghĩ trong khi cố gắng bày đám cây nhựa ruồi sao cho thật nghệ thuật lên trên bệ lò sưởi, khi ở trên này nó sẽ bảo vệ cho lối vào nhà duy nhất mà cậu đã không tính đến. Cậu quên mất Ông Già Noel nên cũng bỏ qua luôn cái ống khói.

Cả ngôi nhà giờ đây sáng bừng ấm áp trong ánh đèn, màu sắc và sự phấn khích. Mọi thứ chuẩn bị cho đêm Giáng sinh đã gần xong. Chỉ còn việc cuối cùng là hát thánh ca.

Sau bữa trà ngày hôm đó, khi những ngọn đèn Giáng sinh đã được bật và khi tiếng giấy gói quà sột soạt vội vã đã hoàn toàn tắt ngấm, ông Stanton duỗi người dựa lưng vào chiếc ghế bành da đã mòn sờn, rút chiếc tẩu ra khỏi miệng rồi quay sang tươi cười nhìn bọn trẻ với một vẻ long trọng như giáo chủ ban phước lành.

“Nào,” ông nói, “năm nay ai sẽ đi hát mừng Giáng sinh đây?”

“Con ạ,” James nói.

“Con,” Will nói.

“Barbara và con ạ,” Mary cũng lên tiếng.

“Tất nhiên là cả Paul rồi,” Will nói. Chiếc hộp đựng cây sáo của anh trai cậu đã nằm chễm chệ trên chiếc bàn bếp rồi.

“Con không biết liệu con có nên đi không,” Robin cũng nói.

“Tất nhiên là có chứ,” Paul nói. “Thiếu giọng nam trung làm sao được.”

“Được thôi,” người anh em sinh đôi của cậu miễn cưỡng nói. Những câu như thế đã lặp đi lặp lại đến ba năm nay rồi. Vốn to con, suy nghĩ máy móc và là một cầu thủ bóng đá cừ khôi, Robin cảm thấy chẳng thích hợp tí nào nếu như mình cũng tỏ ra thích thú mấy trò của bọn con gái như việc hát thánh ca mừng Giáng sinh. Nhưng thật ra, cũng như những thành viên khác trong gia đình, lúc nào cậu cũng chân thành cống hiến hết mình cho âm nhạc và có chất giọng trầm khá dễ nghe.

“Con bận tối cả mắt,” Gwen nói. “Con xin lỗi.”

“Ý chị ấy là,” Mary lên tiếng từ một khoảng cách an toàn, “chị ấy còn bận gội đầu sạch sẽ, nhỡ đâu anh Johnnie Penn đến.”

“Em nói nhỡ đâu là có ý gì?” Max hỏi, cậu đang ngồi trên chiếc ghế bành gần bố.

Gwen nhăn mặt nhìn Max. “Vậy,” cô hỏi, “anh có tham gia dàn đồng ca không?”

“Còn bận hơn cả mày ấy chứ,” Max lười nhác đáp lại. “Xin lỗi nhé.”

“Còn ý anh ấy là,” Mary lại chêm vào, giờ cô đã lượn lờ gần cửa ra vào, “anh ấy phải ngồi lì trong phòng để viết một bức thư dài kinh khủng cho con chim tóc vàng ở Southampton của anh ấy.”

Max rút ngay một chiếc dép đi trong nhà ra ném nhưng cô bé đã lỉnh mất.

“Con chim?” Bố kêu lên. “Không biết tiếp theo là từ gì nữa đây?”

“Ơ kìa bố!” James nhìn ông sửng sốt. “Bố đúng là người thời kỳ Đồ Đá. Bọn con gái đã bị gọi là chim từ đời thuở nào rồi. Vì óc bọn chúng chỉ to bằng óc chim thôi.”

“Một số loài chim có bộ não rất lớn đấy chứ,” Will trầm ngâm nói. “Anh không nghĩ thế à?” Nhưng câu chuyện về lũ quạ đã hoàn toàn biến khỏi đầu James nên cậu chẳng còn để ý gì nữa; câu nói của Will rơi tõm vào không khí.

“Thôi các con đi đi,” bà Stanton nói. “Đi ủng, khoác áo thật dày vào, và trở về nhà lúc tám giờ ba mươi.”

“Tám giờ ba mươi ấy ạ?” Robin hỏi lại. “Nếu chúng con hát tặng Cô Bell ba bài và bà Greythorne lại mời chúng con vào uống rượu pân thì sao ạ?”

“Thôi được rồi, chín giờ ba mươi là tối đa rồi đấy nhé,” bà nói.

•§•

Khi bọn trẻ rời khỏi nhà thì trời đã tối; bầu trời không trong, không trăng, thậm chí không một vì sao nào le lói trên khắp bầu trời tối đen như mực ấy. Chiếc đèn lồng Robin buộc vào một đầu gậy mang theo tỏa xuống nền tuyết một quầng sáng tròn rực rỡ, nhưng đứa nào cũng cất một mẩu nến trong túi áo khoác như thường lệ. Khi chúng đến Trang Viên, bà cô già Greythorne sẽ mời bằng được cả đoàn vào nhà, và khi đứng hát trên tiền sảnh lát đá rộng mênh mông đã tắt hết đèn đóm, mỗi đứa sẽ giơ cao cây nến đã được thắp sáng của mình lên.

Không khí giá buốt và hơi thở của chúng tỏa ra như mây trắng thật dày. Thỉnh thoảng một bông tuyết lạc lõng từ trên trời trôi dạt xuống, và Will nghĩ đến bà béo trên xe buýt cùng với những lời tiên đoán của bà ta. Barbara và Mary đang chuyện trò thoải mái như thể chúng đang ngồi trong nhà vậy, nhưng đằng sau tiếng ríu ran ấy, tiếng bước chân của cả bọn vang lên lạnh lùng và nặng nề trên mặt đường phủ đầy tuyết cứng. Will cảm thấy thật hạnh phúc khi chìm trong những suy nghĩ vè đêm Noel và niềm vui thích được hát mừng Giáng sinh; cậu bước theo anh chị trong một trạng thái mơ màng thỏa mãn, tay ôm chặt chiếc hộp đựng tiền quyên góp to tướng mà chúng mang theo để quyên tiền hỗ trợ cho ngôi nhà thờ Saxon nhỏ, cổ kính, nổi tiếng nhưng đang xuống cấp nhanh chóng của Thung Lũng Thợ Săn. Thế rồi, trước mắt chúng đã là Trại Dawson với một bó nhựa ruồi to tướng trĩu trịt quả được đóng đinh trên cửa sau, và bài hát mừng Giáng sinh bắt đầu cất lên.

Chúng hát vang từ đầu làng đến cuối làng: bài “Nowell” tặng ông mục sư; “God rest ye merry gentlemen” tặng ông Hutton vui tính, một thương nhân to béo sống trong căn nhà bắt chước kiểu Tudor nằm ở cuối làng, người lúc nào trông cũng đúng là nghỉ ngơi đầy vui vẻ thật; “Once in royal David’s city” cho bà góa Pettigrew vốn là giám đốc sở bưu điện, người hay nhuộm tóc bằng lá chè và nuôi một con chó nhỏ bị thọt, lũn cũn như một cuộn len xám. Chúng hát “Adeste fideles” bằng tiếng Latin và “Les anges dans nos campagnes” bằng tiếng Pháp tặng Cô Bell bé nhỏ, bà giáo làng đã nghỉ hưu, người đã dạy tất cả mấy anh chị em biết đọc biết viết, biết cộng trừ, biết cách nói chuyện và suy nghĩ, trước khi chúng đi học tiếp ở những trường khác. Và Cô Bell bé nhỏ nói giọng khàn khàn: “Tuyệt vời, thật tuyệt vời,” thả vào chiếc hộp một vài đồng xu mà chúng biết bà phải vất vả lắm mới kiếm được rồi lần lượt ôm chặt từng đứa và “Chúc mừng Giáng sinh! Chúc mừng Giáng sinh!” rồi chúng đi đến nhà tiếp theo trong danh sách.

Còn khoảng bốn hay năm nhà nữa, một trong số đó là nhà của bà Homiman sầu thảm, người thường đến “làm” cho mẹ chúng mỗi tuần một lần, và cũng là người đã sinh ra và lớn lên ở khu East End London cho đến cách đây ba mươi năm khi một quả bom rơi xuống xé nát nhà bà ra làm trăm mảnh. Năm nào bà cũng cho mỗi đứa một đồng bạc sáu xu và năm nay cũng thế, chẳng thèm để ý đến sự thay đổi giá trị đồng tiền. “Không có đồng sáu xu thì còn gì là Giáng sinh nữa,” bà Homiman nói. “Bà đã dự trữ cả một kho trước khi người ta rút loại tiền này ra khỏi hệ thống thanh toán. Thế nên giờ Giáng sinh nào bà cũng có thể duy trì cách thức tặng tiền, giống hệt như trước, các cháu yêu quý ạ, và bà cho là kho tiền của bà sẽ chưa cạn cho đến tận lúc bà nằm sâu dưới đáy mồ còn các cháu thì hát tặng người nào đó khác ở trên bậc cửa này. Chúc Giáng sinh vui vẻ!”

Tiếp đó đến Trang Viên, điểm dừng cuối cùng trước khi chúng quay về nhà.

Chúng tôi đến đây chè chén mừng Giáng sinh, giữa một rừng lá rất xanh,

Chúng tôi đến đây hát mừng ngày Giáng sinh, vì thế xin đón tiếp thật nhanh…

Để hát tặng bà Greythorne, chúng luôn bắt đầu bằng bài The Wassail Song cũ rích đó, và năm nay, Will thấy cái hình ảnh rừng lá xanh ấy càng trở nên không thích hợp hơn bao giờ hết. Nhạc bài hát càng ngày càng lên cao và đến đoạn cuối cùng, Will và James cùng đồng thanh ngân lên bằng một giọng rất cao mà bình thường hai đứa không mấy khi sử dụng ở cuối bài vì cần phải tốn rất nhiều hơi.

Những ông chủ và bà chủ tốt bụng ơi, trong khi các vị ngồi bên lò sưởi,

Xin hãy nghĩ đến chúng tôi, những đứa trẻ nghèo lang thang trong chốn bùn lầy…

Robin giật mạnh dây quả chuông kim loại lớn, tiếng vang rền của nó bao giờ cũng gây cho Will một cảm giác sợ hãi mơ hồ, và khi cả mấy anh em lên giọng cao dần ở cuối bài hát thì cánh cửa đồ sộ bật mở, đứng ngay trên ngưỡng cửa là người quản gia của Miss Greythorne trong chiếc áo đuôi tôm luôn luôn được ông mặc vào đêm Giáng sinh. Đó không phải là một quản gia bệ vệ; ông tên là Bates, một người cao gầy, ủ ê. Người ta thường thấy ông giúp người làm vườn già nua trong vườn rau gần cổng sau Trang Viên hoặc trao đổi về chứng viêm khớp của ông với bà Pettigrew ở bưu điện.

Hạnh phúc và niềm vui sẽ đến với các người

Và kèm theo đó là những bữa tiệc thỏa thuê..,

Người quản gia mỉm cười, gật đầu lịch sự rồi mở rộng cánh cửa, và Will suýt nữa để hẫng mất nốt nhạc cao cuối cùng, vì đó không phải ông Bates; đó là ông Merriman.

Bài hát mừng kết thúc, tất cả mấy đứa trẻ thả lỏng người, nhấp nhổm trên tuyết “Hay tuyệt,” ông Merriman trang trọng nói, bâng quơ nhìn cả bọn, rồi chúng nghe thấy giọng nói oai quyền của bà Greythorne vang lên phía sau ông. “Đưa chúng vào! Đưa chúng vào đi! Đừng để chúng phải đợi ở bậc thềm.”

Bà ngồi đó trên chiếc ghế tựa đặt trong gian đại sảnh dài, hệt như chúng vẫn nhìn thấy mỗi đêm Giáng sinh. Bà đã không còn đi lại được sau một tai nạn từ thời trẻ - người làng kể lại rằng con ngựa của bà đã ngã đè lên người chủ - nhưng bà thẳng thừng từ chối phải ngồi xe lăn. Khuôn mặt mảnh dẻ, đôi mắt sáng, mái tóc muối tiêu lúc nào cũng được búi gọn gàng trên đỉnh đầu, bà là một nhân vật đầy huyền bí của vùng Thung Lũng Thợ Săn.

“Mẹ các cháu có khỏe không?” Bà Greythorne hỏi Paul. “Cả bố các cháu nữa?”

“Rất khỏe ạ, cảm ơn bà, bà Greythorne.”

“Giáng sinh vui chứ?”

“Tuyệt vời ạ, cảm ơn bà. Cháu chúc bà một Giáng sinh vui vẻ.” Paul, người luôn cảm thấy tội nghiệp cho bà Greythorne, bao giờ cũng gắng hết sức tỏ ra lịch sự và nồng nhiệt; giờ thì cậu cố gắng không đảo mắt quanh gian đại sảnh cao tít trong khi nói chuyện. Vì mặc dù chị giúp việc kiêm đầu bếp và cô hầu gái đang đứng cười rạng rỡ ở cuối sảnh, và mặc dù tất nhiên có cả người quản gia đã mở cửa cho chúng, nhưng mặt khác khắp tòa nhà rộng lớn này chẳng hề có bất kỳ dấu vết nào của khách khứa, của cây Noel, của vật trang trí hay bất kỳ dấu hiệu nào khác của lễ Giáng sinh ngoại trừ một cành nhựa ruồi khổng lồ trĩu quả treo trên bệ lò sưởi.

“Thật là một mùa Giáng sinh kỳ quặc,” bà Greythorne vừa nói vừa trầm ngâm nhìn Paul. “Bao nhiêu chuyện xảy ra, đúng như con bé con đáng ghét áy đã nói trong bài thơ.” Bà bất ngờ quay sang Will. “Chàng trai trẻ, năm nay cậu bận bịu lắm phải không?”

“Chắc chắn rồi ạ,” Will buột mồm nói thật.

“Lửa cho nến của các cậu đây,” ông Merriman lịch thiệp nói nhỏ, rồi bước đến với một hộp đầy những que diêm to tướng. Cả bọn vội vàng rút nến ra khỏi túi, và ông đánh lửa, cẩn thận đi một vòng, ánh sáng biến cặp lông mày của ông thành hai hàng rào dựng đứng dị thường, còn những nếp nhăn kéo từ mũi xuống miệng thành những đường rãnh sâu hoắm. Will tư lự nhìn chiếc áo đuôi tôm ông đang mặc, nó được khoét một đường ở eo và thay vì đeo cà vạt trắng, ông lại buộc một riềm đăng ten ở cổ. Cậu vẫn còn cảm thấy khó có thể nghĩ về ông Merriman với tư cách là một quản gia.

Ai đó ở cuối sảnh đã tắt hết đèn khiến cả căn phòng dài chỉ được chiếu sáng bằng những ánh nến lung linh trong tay bọn trẻ. Có tiếng dập chân nhè nhẹ; rồi chúng bắt đầu với một bài hát ru ngọt ngào, êm ái, “Ru hời, ru hời, em bé tí hon ơi…” và Paul kết thúc bài hát bằng một đoạn nhạc không lời. Âm thanh trong trẻo, khàn khàn của cây sáo xuyên qua không gian như những vệt ánh sáng, và trong lòng Will tràn ngập một cảm giác khao khát nhức nhối, cảm giác về một cái gì đó đang chờ đợi ở nơi nào xa xôi lắm mà cậu không sao hiểu được. Rồi, để thay đổi không khí, lũ trẻ hát bài “God rest ye merry gentlemen”; rồi “The holly and the ivy”. Cuối cùng chúng quay lại bài “Good king Wenceslas”, bài hát luôn là tặng phẩm cuối cùng dành cho bà Greythorne, và luôn khiến Will thấy tội nghiệp Paul, anh chàng từng có lần nhận xét rằng bài hát Giáng sinh này hoàn toàn không thích hợp với kiểu nhạc của cậu, đến mức chắc hẳn nó đã được sáng tác bởi một nhạc sĩ vốn coi thường cây sáo.

Nhưng hát đệm cũng rất thú vị khi phải cố gắng làm sao để hòa với giọng của James một cách nhuần nhuyễn đến mức cả hai cùng hát nhưng chỉ nghe như một.

Gã ta sống cách đây chừng bốn dặm…

…và Will thầm nghĩ: lần này bọn mình biểu diễn tốt thật, mình dám thề là anh James đang chẳng hát gì cả nếu…

Dưới chân núi này…

…nếu như không phải là anh ấy đang mấp máy môi…

Ngay cạnh bìa rừng…

…cậu vừa hát vừa đưa mắt liếc qua bóng tối lờ mờ, và nhìn thấy, với sự choáng váng như bị ai thụi mạnh vào bụng, rằng quả thật môi James không hề mấp máy, không một bộ phận nào trên cơ thể cậu chuyển động, giống như Robin, Mary, tất cả bọn trẻ nhà Stanton. Chúng đứng đó bất động, tất cả, bị mắc kẹt bên ngoài Thời Gian, như Kẻ Lang Thang đã đứng trên Ngõ Đường Cổ khi bị cô gái của phe Bóng Tối yểm bùa. Ánh nến trong tay chúng không còn lung linh nữa, mỗi cây nến sáng lên một cột trắng lạ lùng giống như ngọn lửa cháy trên cành cây hôm trước. Ngón tay Paul không di chuyển trên cây sáo nữa; cậu cũng đứng bất động, giữ cây sáo trên môi. Nhưng tiếng nhạc, một tiếng nhạc nghe rất giống tiếng sáo nhưng ngọt ngào hơn, vẫn đang vang lên, và cả Will nữa, không hiểu sao vẫn tiếp tục hát nốt đoạn nhạc…

Bên suối nguồn Saint Agnes…

…Và trong tiếng nhạc đệm êm ái lạ lùng như đang vang lên từ không trung, khi cậu bắt đầu băn khoăn không biết liệu đoạn tiếp theo sẽ được hát như thế nào, trừ phi giọng cao của một cậu bé có thể nghe giống như vua Wenceslas đáng kính cũng như bè hát đệm của ngài, thì một giọng trầm tuyệt hay ngân vang khắp căn phòng những câu hát quen thuộc, một giọng trầm tuyệt vời mặc dù Will chưa từng được nghe cất lên thành tiếng hát, nhưng cậu vẫn nhận ra ngay.

…Hãy mang rượu tới, hãy mang thịt tới

Hãy mang tới cho ta những khúc gỗ thông;

Mi và ta sẽ xem gã dùng bữa tối

Khi chúng ta đưa tới gã ta những thứ này…

Đầu Will hơi choáng váng, căn phòng dường như rộng ra rồi lại co lại; nhưng tiếng nhạc vẫn vang lên, cột ánh sáng vẫn bất động phía trên ánh nến, và khi đoạn nhạc tiếp theo bắt đầu, ông Merriman đưa tay ra cầm lấy cánh tay Will, họ cùng bước lên và hòa giọng hát:

Nhà vua và cậu tiểu đồng bước tới,

Họ sánh bước bên nhau tiến về phía trước,

Xuyên qua tiếng gió thét gào cuồng nộ

Và trong thời tiết khắc nghiệt biết bao.

Họ bước vào gian phòng ngoài kéo dài, tách khỏi lũ trẻ nhà Stanton bất động, vượt qua bà Greythorne đang ngồi trên ghế, qua người giúp việc kiêm đầu bếp và chị hầu gái, tất cả đều không nhúc nhích, vẫn sống nhưng đã bị tách ra khỏi cuộc sống. Will có cảm giác như cậu đang lướt đi trong không khí, chân không hề chạm đất, lướt xuống căn phòng tối đen, giờ đây trước mặt họ không còn một tia sáng nào, chỉ có ánh sáng lờ mờ hắt từ phía sau. Vào trong bóng tối…

Muôn tâu bệ hạ, giờ đây đêm đã về khuya,

Gió đã thổi mạnh hơn lúc trước

Trái tìm con yếu đuối và sợ hãi,

Con chẳng biết làm sao...

Will nghe thấy giọng mình run run, vì những lời đó cũng chính là những gì cậu đang nghĩ.

Hãy bước theo dấu chân ta, người tùy tùng yêu dấu;

Hãy can đảm xông vào đêm gió…

Ông Merriman hát; và đột nhiên trước mắt Will không chỉ toàn là bóng tối nữa.

Ở đó, trước mắt cậu, hiện lên hai cánh cửa đồ sộ, hai cánh cửa được chạm trổ công phu mà cậu nhìn thấy lần đầu tiên trên sườn đồi Chiltern tuyết phủ, và ông Merriman giơ cánh tay trái lên, xòe cả năm ngón tay chỉ thẳng vào cánh cửa. Hai cánh cửa từ từ mở ra và tiếng nhạc mơ màng trong trẻo của các Cổ Nhân vang lên càng lúc càng rõ, hòa vào tiếng nhạc đệm bài thánh ca mừng Giáng sinh, rồi lại tan biến đi. Cậu cùng ông Merriman bước vào trong ánh sáng, vào một thời đại khác, một Giáng sinh khác, cất tiếng hát như thể cậu có thể rót đầy mọi âm thanh của thế giới vào những nốt nhạc hiện tại này - và hát một cách tự tin đến nỗi ngay thầy chỉ huy dàn đồng ca của trường, vốn nổi tiếng khó tính về chuyện ngẩng cao đầu và đưa hàm thật chuẩn, cũng sẽ phải im bặt vì ngạc nhiên và tự hào.