Quyển Sách Pháp Thuật
Họ lại lọt vào một căn phòng chan hòa ánh sáng, một căn phòng không giống bất kỳ nơi nào Will từng thấy. Trên trần nhà cao tít vẽ rất nhiều tranh cây cối, rừng núi; tường được ghép từ một loại gỗ màu vàng bóng láng, rải rác những quả cầu trắng tỏa sáng rực rỡ. Căn phòng tràn ngập tiếng nhạc, và bài hát Giáng sinh của họ được hòa giọng bởi một nhóm người ăn mặc như trong một quang cảnh tráng lệ trích từ sách lịch sử. Phụ nữ để vai trần, váy dài xòe rộng xếp ly cầu kỳ; đàn ông mặc complê chẳng khác gì trang phục của ông Merriman, với phần đuôi tôm cắt vuông, quần dài ống đứng, cổ đeo nơ trắng hoặc cà vạt lụa đen. Quả thật, đến giờ khi nhìn lại ông Merriman, Will mới nhận ra bộ quần áo của ông không hề giống trang phục của bất kỳ quản gia nào, mà nó hoàn toàn thuộc vè cái thế kỷ khác này, cho dù đây là thế kỷ nào đi nữa.
Một tiểu thư mặc váy trắng lướt tới gần họ, mọi người xung quanh đều kính cẩn lùi lại nhường đường, và khi bài hát kết thúc, cô kêu lên: “Tuyệt vời! Tuyệt vời! Vào đi, vào đi thôi!” Giọng nói này giống hệt giọng bà Greythorne khi bà chào đón họ ở cửa Trang Viên cách đây chưa lâu, và khi Will ngẩng đầu lên thì cậu nhận thấy khuôn mặt của vị tiểu thư này dường như chính là khuôn mặt bà Greythorne. Cũng vẫn đôi mắt và khuôn mặt hơi xương xương ấy, vẫn cử chỉ thân thiện nhưng đầy vẻ uy nghi ấy - chỉ có điều cô Greythorne này trẻ hơn và đẹp hơn nhiều, giống như một bông hoa vừa hé nở chưa bị tàn phai bởi nắng, gió và thời gian.
“Đi nào, Will,” cô nói, cầm tay cậu và cúi xuống mỉm cười, vậy là cậu đi theo cô không chút lưỡng lự; rõ ràng cô biết cậu, và những người đang mỉm cười rạng rỡ xung quanh cô, cả phụ nữ và đàn ông, cả già và trẻ, cũng đều biết cậu. Bây giờ hầu hết đám đông sang trọng ấy đang rời khỏi căn phòng, từng đôi hoặc từng nhóm một, chuyện trò ríu rít, đi về hướng mùi thức ăn ngào ngạt báo hiệu bữa tối đã sẵn sàng ở đâu đó trong căn nhà. Nhưng một nhóm khoảng hai mươi người vẫn còn nán lại.
“Chúng tôi đang đợi cậu,” cô Greythorne nói và kéo cậu đến cuối phòng nơi một ngọn lửa ấm áp và thân mật đang bập bùng trong chiếc lò sưởi được trang trí công phu. Cô cũng nhìn ông Merriman như muốn nói rằng những lời vừa rồi ám chỉ cả ông nữa. “Tất cả chúng ta đã sẵn sàng, không còn… trở ngại gì nữa.”
“Cô chắc chứ?” Giọng ông Merriman nhanh và trầm như một tiếng búa khiến Will phải tò mò liếc nhìn. Nhưng khuôn mặt mũi diều hâu ấy vẫn bí ẩn như mọi lần.
“Chắc chắn,” vị tiểu thư nói. Cô đột nhiên quỳ xuống cạnh Will, chiếc váy bồng lên xung quanh như bông hồng bạch khổng lồ; giờ cô đang ở ngang tầm mắt của Will, và cô nắm cả hai tay cậu, nhìn thẳng vào mắt cậu rồi nói nhẹ nhàng nhưng khẩn thiết. “Will à, đó là Dấu Hiệu thứ ba. Dấu Hiệu Gỗ. Đôi khi chúng ta gọi nó là Dấu Hiệu Kiến thức. Giờ đã đến lúc phục hồi Dấu Hiệu này. Kể từ khi nó ra đời, sau mỗi thế kỷ, Will ạ, tức là cứ sau một trăm năm, thì Dấu Hiệu Gỗ cần phải được phục hồi, bởi vì nó là Dấu Hiệu duy nhất trong số sáu Dấu Hiệu không thể tồn tại mãi mãi ở trạng thái tự nhiên. Cứ sau một trăm năm, chúng ta lại làm lại nó, theo cách mà chúng ta đã được dạy ngay từ đầu. Và bây giờ sẽ là lần cuối cùng, vì khi đến thời của cậu, cậu sẽ mang Dấu Hiệu Gỗ đến để kết hợp lại, và sau đó sẽ không cần phục hồi nữa.”
Cô đứng dậy, nói rành mạch: “Chúng ta rất vui khi gặp được cậu, Will Stanton, Người Tìm Dấu Hiệu. Rất, rất vui.” Có tiếng rì rầm nổi lên, cả giọng nhỏ lẫn giọng to, cả trầm lẫn thanh, tất cả đều tỏ ý tán thành; nó như một bức tường vậy, Will thầm nghĩ, mình có thể dựa vào nó và cảm nhận được sự hỗ trợ. Cậu có thể cảm thấy rất rõ sức mạnh đoàn kết tỏa ra từ nhóm người sang trọng không quen biết kia; cậu tự hỏi liệu có phải tất cả bọn họ đều là Cổ Nhân. Cậu ngước nhìn ông Merriman đang đứng cạnh mình, toét miệng cười sung sướng, và ông cúi xuống mỉm cười đáp lại, trên khuôn mặt nghiêm nghị có phần khắc nghiệt bừng lên vẻ dễ chịu, thoải mái và cởi mở mà Will chưa thấy bao giờ.
“Sắp đến lúc rồi,” cô Greythorne nói.
“Có lẽ trước hết nên mang chút gì đó cho người mới đến ăn đã,” một người đàn ông đứng cạnh họ lên tiếng: đó là một người nhỏ thó, chẳng cao hơn Will là mấy. Y đưa cho Will một cái ly. Will cầm lấy, liếc nhìn lên và thấy trước mặt mình là một khuôn mặt gần như hình tam giác, gầy guộc nhưng linh lợi, đầy nếp nhăn nhưng chưa hẳn đã già, hai con mắt sáng rực một cách kỳ lạ đang nhìn như muốn xuyên thấu cậu. Một khuôn mặt khiến người ta thấy bất an, với quá nhiều điều còn ẩn chứa phía sau. Nhưng người đàn ông đã quay đi, chỉ để lại trước mắt Will cái lưng áo nhung xanh lá cây được may rất gọn, và đưa một chiếc ly khác cho ông Merriman.
“Mời ông chủ,” y vừa đưa vừa cúi người nói với vẻ cung kính.
Ông Merriman nhìn y, trễ miệng xuống một cách khôi hài, không nói gì mà chỉ nhìn chằm chằm đầy nhạo báng và chờ đợi. Will còn chưa kịp cảm thấy ngạc nhiên vì cung cách cư xử kỳ lạ đó thì người đàn ông nhỏ thó đã hấp háy mắt và dường như đột nhiên trấn tĩnh lại, giống như một người mơ ngủ đột nhiên bừng tỉnh. Y cười phá lên.
“À không,” y lắp bắp. “Thôi thôi. Dù sao thì cũng là một thói quen lâu năm rồi.” Merriman bật cười trìu mến, nâng chiếc ly về phía y rồi uống cạn; và vì chẳng hiểu gì về những câu đối thoại kỳ quặc vừa rồi nên Will cũng nâng ly lên uống, và ngay lập tức vô cùng sửng sốt khi cảm thấy một hương vị kỳ lạ mà cậu không thể nhận ra, một cái gì đó không hẳn là hương vị mà là sự rực rỡ của ánh sáng, sự vỡ òa của âm nhạc, một cái gì đó mãnh liệt và diệu kỳ ngay lâp tức tràn ngập tất cả các giác quan của cậu.
“Đó là cái gì vậy?”
Người đàn ông nhỏ thó quay phắt lại và cười lớn, những nếp nhăn trên khuôn mặt nhàu nhò đâm xiên lên phía trên. “Metheglyn là cách gọi gần đúng nhất,” y nói, cầm lấy chiếc ly đã cạn. Y thổi vào trong chiếc ly và bất ngờ nói, “Đôi mắt của một Cổ Nhân có thể nhìn thấy đấy,” rồi lại giơ nó ra; và khi chằm chằm nhìn vào đáy cốc trống không, Will bất chợt cảm nhận cậu có thể nhìn thấy một nhóm người mặc áo choàng nâu đang chế biến thứ nước cậu vừa uống. Cậu ngước mắt lên, thấy người đàn ông khoác áo xanh lá cây ấy đang chăm chú quan sát cậu, với một thái độ khó chịu giống như một sự pha trộn giữa ghen tỵ và hài lòng. Rồi y bật cười, nhanh nhẹn thu lại chiếc ly, và cô Greythorne gọi họ đến gần; những quả cầu ánh sáng màu trắng trong phòng mờ dần, tiếng nói cười lắng xuống. Will tưởng như cậu vẫn có thể nghe thấy tiếng nhạc ở đâu đó trong ngôi nhà này, nhưng cũng không chắn chắn lắm.
Cô Greythorne đang đứng cạnh lò sưởi. Cô thoáng nhìn xuống Will rồi lại ngước lên ông Merriman. Sau đó cô quay đi và nhìn lên tường. Cô nhìn chằm chằm một lúc lâu. Ván tường, lò sưởi và đồ trang trí đặt trên bệ lò sưởi như một khối đồng nhất, tất cả đều sử dụng cùng một loại gỗ sắc vàng: rất nhẵn, không nét uốn lượn hay chạm trổ, mà chỉ điểm xuyết hình bông hồng bốn cánh giản dị. Cô Greythorne đặt tay lên một trong những bông hồng được chạm trổ ở góc trái trên cùng của lò sưởi rồi ấn vào giữa bông hoa. Có một tiếng “cách” khẽ, và phía dưới bông hồng, ở ngang tầm thắt lưng cô, xuất hiện một lỗ hổng tối đen hình vuông. Will không thấy bất kỳ tấm gỗ nào dịch chuyển; lỗ hổng chỉ đơn giản xuất hiện ở đó, một cách đột ngột. Cô Greythorne thò tay vào trong, lôi ra một vật có hình dạng giống như hình tròn nhỏ. Nó giống hệt hai cái Will đã có, và cũng như lần trước, cậu nhận ra tay mình đã tự động siết chặt lấy hai Dấu Hiệu một cách vô thức như để bảo vê. Căn phòng hoàn toàn tĩnh lặng. Giờ đây, Will có thể nghe rõ tiếng nhạc vọng từ ngoài cửa vào, nhưng không tài nào biết được chúng xuất phát từ đâu.
Vòng tròn biểu trưng đó rất mỏng và sẫm màu, một cánh của chữ thập phía trong gãy ra trong lúc cậu ngắm nhìn. Cô Greythorne đưa nó cho ông Merriman, và thêm một mẩu nữa rơi lả tả thành bụi. Giờ thì Will có thể nhìn ra nó được làm bằng gỗ, xù xì và tơi tả nhưng vẫn nhìn thấy một vân gỗ chạy dọc theo biểu tượng.
“Nó đã một trăm năm tuổi rồi ư?” Cậu hỏi.
“Cứ sau một trăm năm, sự phục hồi,” cô Greythorne đáp. “Đúng thế.”
Will hấp tấp lên tiếng trong bầu không khí lặng lẽ của căn phòng, “Nhưng gỗ có tuổi thọ dài hơn thế nhiều. Cháu đã nhìn thấy trong Bảo tàng Quốc gia Anh mà. Những mẩu gỗ của những chiếc thuyền cổ người ta trục vớt từ sông Thames lên ấy. Tận thời tiền sử kia. Hàng nghìn năm tuổi ấy.”
“Quercus Britannicus,” Merriman đột nhiên nói gay gắt, nghe như một ông thầy cáu kỉnh. “Gỗ sồi. Những chiếc xuồng cậu nhắc đến được làm từ gỗ sồi. Xa hơn về phía Nam, đám cọc gỗ sồi xây dựng nhà thờ Winchester đã được đóng xuống từ khoảng chín trăm năm trước, và đến nay chúng vẫn vững chắc như ngày đó. Ồ, đúng vậy, gỗ sồi có tuổi thọ rất dài, cậu Will Stanton ạ, và sẽ có ngày, một chiếc rễ sồi sẽ trở thành một phần vô cùng quan trọng trong cuộc đời non trẻ của cậu. Nhưng sồi không phải loại gỗ dành cho Dấu Hiệu. Loại gỗ chúng ta dùng là loại mà thế lực Bóng Tối không thích thú gì. Thanh lương trà[12], cậu Will ạ, đó là loại cây của chúng ta. Thanh lương trà. Đây là loài cây duy nhất trên thế giới có những đặc tính chúng ta cần. Nhưng Dấu Hiệu được làm từ gỗ thanh lương trà cũng có những hạn chế, nó không thể tồn tại lâu như sồi, hay như sắt và đồng. Vì thế Dấu Hiệu phải được tái sinh,” ông giơ nó lên cao, kẹp giữa ngón tay giữa và ngón cái cong hẳn về phía sau “cứ trăm năm một lần.”
Will gật đầu. Cậu không nói gì. Cậu nhận ra mình biết rõ những người trong căn phòng này. Dường như tất cả đều đang tập trung hết tâm trí vào một điều gì đó, và người ta có thể nghe thấy cả sự tập trung ấy. Rồi đột nhiên họ như được nhân lên, nhân mãi lên thành một đám đông bất tận, vượt ra ngoài ranh giới của ngôi nhà, vượt ra ngoài ranh giới của thế kỷ này hay bất kỳ thế kỷ nào khác.
Cậu không hoàn toàn hiểu được những gì xảy ra sau đó. Ông Merriman bất thình lình đẩy mạnh tay về phía trước, dễ dàng bẻ Dấu Hiệu Gỗ làm đôi rồi tung nó vào trong ngọn lửa, nơi một khúc gỗ đơn độc to như khúc gỗ Giáng sinh của nhà cậu đã cháy hết một nửa. Ngọn lửa bùng lên. Rồi cô Greythorne đưa tay về phía người đàn ông nhỏ thó mặc áo vét nhung màu xanh cầm lấy chiếc bình bạc mà y vừa rót đồ uống cho mọi người, và hất những gì còn lại trong bình vào ngọn lửa. Có tiếng xèo xèo rất to, khói bốc lên và ngọn lửa tắt lịm. Trong bộ váy trắng tinh, cô nghiêng người về phía trước, thò tay vào đám khói và đống tro đang âm ỉ, lấy một mẩu cháy dở từ khúc gỗ lớn. Nó giống một cái đĩa to, méo mó.
Cô giơ mẩu gỗ lên cao để mọi người đều nhìn thấy rồi bắt đầu bẻ những phần cháy đen như thể đang bóc một trái cam; ngón tay cô chuyển động thoăn thoắt, những đường diềm bị cháy rơi xuống, chỉ còn lại khung hình bằng gỗ: một vòng tròn hoàn hảo, nhẵn mịn, bên trong là một hình chữ thập.
Hình thù ấy không có bất kỳ sai lệch nào, như thể ngay từ đầu nó đã mang hình dáng như vậy, còn trên đôi tay trắng trẻo của cô Greythorne, không hề có dù chỉ là một vết nhọ hay dấu tro.
“Will Stanton,” cô nói, quay lại phía cậu, “đây là Dấu Hiệu thứ ba của cậu. Ta không thể trao cho cậu trong thế kỷ này. Toàn bộ sứ mệnh của cậu phải được hoàn thành trong chính thời đại của cậu. Nhưng gỗ là Dấu Hiệu Kiến thức, và khi thực hiện sứ mệnh với sự hiểu biết của chính mình, cậu sẽ tìm ra nó. Ta có thể lưu lại trong tâm trí cậu con đường sẽ dẫn cậu đến với Dấu Hiệu này.” Cô chăm chú nhìn Will, rồi giơ tay lên, thả vòng tròn gỗ kỳ lạ kia vào trong lỗ hổng tối om trên tấm ván tường. Tay kia của cô nhấn vào bông hồng khắc phía trên lỗ hổng và cũng với tốc độ nhanh như chớp khiến không ai có thể kịp nhận ra như khi nó xuất hiện, lỗ hổng đột nhiên biến mất. Bức tường ghép từ các tấm ván gỗ lại nhẵn thín và liền khít như thể chưa tùng có bất kỳ thay đổi nào.
Will nhìn chằm chằm. Hãy nhớ nó được thực hiện như thế nào, hãy nhớ… Cô ấy đã bấm vào bông hồng đầu tiên khắc ở góc trái trên cùng. Nhưng bây giờ ở góc đó lại có một đóa ba bông hồng; là bông nào trong số đó đây? Khi cậu đến gần hơn, cậu giật mình sửng sốt nhận ra giờ đây cả bức tường kín đặc những hình vuông chạm trổ, trong mỗi hình đều có một bông hồng bốn cánh. Chẳng lẽ chúng đã mọc lên chỉ trong tích tắc vừa rồi, ngay trước mắt cậu sao? Hay chúng đã có ở đó từ trước nhưng không bị phát hiện vì ánh sáng đã đánh lừa thị giác? Cậu hoảng hốt lắc đầu, đảo mắt ra xung quanh tìm ông Merriman. Nhưng đã quá muộn. Chẳng còn một ai đứng bên cậu nữa. Bầu không khí trang trọng đã tan biến; ánh đèn lại rực sáng và mọi người đang cười nói vui vẻ. Ông Merriman đang thì thầm gì đó với cô Greythorne, gần như đang gập người làm đôi để nói sát vào tai cô. Will cảm thấy có người chạm vào tay mình, bèn quay phắt lại.
Đó chính là người đàn ông nhỏ thó mặc áo khoác xanh, đang gật đầu ra hiệu với cậu. Bên khung cửa cuối phòng, ban nhạc đã đệm bài hát mừng Giáng sinh giờ lại bắt đầu chơi: những âm thanh nhẹ nhàng êm ái của ống tiêu, viôlông, và một nhạc cụ mà Will đoán là đàn clavia[13]. Ban nhạc đang chơi một bản chúc mừng Giáng sinh khác, một bản nhạc cổ, cổ hơn nhiều so với thế kỷ của căn phòng này. Will muốn nghe nhưng người đàn ông áo xanh đã tóm lấy cánh tay cậu và kiên quyết lôi cậu đến một cái cửa hông.
Will bám chặt chân xuống nền nhà, cổ cưỡng lại và quay đầu tìm ông Merriman. Đứng lúc đó, thân hình cao lớn của ông cũng bật dậy, quay xung quanh tìm kiếm cậu; nhưng khi thấy chuyện gì đang xảy ra thì ông Merriman thoải mái hẳn, chỉ giơ tay lên tỏ ỷ tán thành. Will thấy trong đầu vang lên tiếng nói động viên: đi đi, không sao đâu. Ta sẽ đi theo.
Người đàn ông nhỏ thó cầm một ngọn đèn, hờ hững liếc nhìn xung quanh rồi bất chợt mở hé cánh cửa hông chỉ đủ để hai người lèn qua. “Cậu không tin tôi phải không?” Y gằn từng tiếng, giọng sắc lẻm. “Tốt. Đừng tin bất kỳ ai trừ phi cậu buộc phải làm thế, cậu bé ạ. Như thế cậu sẽ sống sót để hoàn thành nhiệm vụ của cậu ở đây.”
“Hình như bây giờ tôi đã biết gần hết mọi người ở đây rồi,” Will nói. “Ý tôi là, bằng cách nào đó, tôi có thể biết được mình có thể tin ai. Thường là vậy. Nhưng ông thì…” Cậu dừng lại.
“Thì sao?” Người đàn ông hỏi.
Will nói: “Ông không thích hợp lắm.”
Người đàn ông cười phá lên, đôi mắt biến mất dưới những nếp nhăn trên mặt, rồi đột nhiên y im bặt và giơ cao cây đèn. Trong quầng ánh sáng nhảy nhót, Will nhìn thấy hình như trước mắt mình là một căn phòng nhỏ, tường ốp gỗ, không có đồ đạc gì ngoài một chiếc ghế tựa, một cái bàn, một cái thang nhỏ và một tủ sách cửa kính đặt chính giữa mỗi bức tường. Cậu nghe thấy tiếng tích tắc trầm trầm, nhịp nhàng, và khi nhìn xuyên qua bóng tối lờ mờ, cậu thấy một chiếc đồng hồ quả lắc to tướng dựng trong góc. Nếu căn phòng này chỉ dùng để đọc sách như vẻ bên ngoài của nó cho thấy, thì không hiểu sao người ta lại đặt một chiếc đồng hồ lúc nào cũng kêu tướng lên như để báo cho người đọc biết họ đã đọc quá lâu rồi.
Người đàn ông nhỏ thó dúi chiếc đèn vào tay Will. “Tôi cho là ở đây có một cái đèn… à.” Có tiếng huýt gió mơ hồ mà Will đã nghe thấy một hay hai lần khi cậu đang ở căn phòng bên cạnh; sau đó là tiếng xoẹt đánh lửa của một que diêm và một tiếng nổ “Bốp!” rất to, rồi một điểm sáng xuất hiện trên bức tường, đầu tiên nó chỉ là một ánh đỏ lòe, sau đó lan ra thành một hình cầu trắng to tướng đang lớn dần.
“Đèn măngsông,” y nói. “Vẫn còn là đồ tân tiến trong các tư gia, và hợp mốt nhất. Cô Greythorne là người đặc biệt sành điệu, so với thời đại này.”
Will không chú ý đến câu chuyện của y. “Ông là ai?”
“Tên tôi là Hawkin,” người đàn ông vui vẻ trả lời. “Không hơn. Chỉ Hawkin thôi.”
“Được rồi, xem này, ông Hawkin,” Will nói. Cậu đang cố hiểu chuyện gì đang xảy ra và điều đó khiến cậu cảm thấy vô cùng khó chịu. “Có vẻ như ông biết rõ chuyện gì đang xảy ra. Hãy nói với tôi điều gì đó. Ở đây, tôi đã bị đưa về quá khứ, về một thế kỷ khi mọi chuyện thời đó đã xảy ra rồi, thế kỷ đó là một phần trong những cuốn sách lịch sử. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu tôi làm gì đó khiến nó bị thay đổi? Có lẽ tôi sẽ làm thế, có thể lắm chứ. Bất kỳ điều vụn vặt nào đó. Tôi sẽ làm cho một cái gì đó trong lịch sử trở nên khác đi, cứ như thể tôi đã thật sự có mặt ở đó vậy.”
“Nhưng đúng là cậu đã có mặt,” Hawkin nói. Y châm đóm nhờ ngọn đèn Will đang cầm.
Will tuyệt vọng hỏi: “Cái gì ạ?”
“Cậu đã - đang - sống trong thế kỷ này khi mọi chuyện thời này xảy ra. Nếu có bất kỳ ai ghi chép lại lịch sử và đề cập đến buổi dạ tiệc đã diễn ra ở đây tới nay, thì cậu và ông chủ Merriman của tôi cũng sẽ có mặt trong đó, cũng được miêu tả. Tuy nhiên, chưa chắc đã có chuyện này. Một Cổ Nhân sẽ không bao giờ để lại dấu tích tên tuổi ở bất kỳ đâu. Nói chung những người như cậu thường cố gắng tác động đến lịch sử bằng cách nào đó mà không để cho loài người biết được…”
Y cầm que đóm châm lửa cho một giá nến ba cây đặt trên bàn cạnh một chiếc ghế tựa; lưng ghế da bóng lên dưới ánh sáng vàng. Will nói: “Nhưng tôi không thể… Tôi không thấy…”
“Đi nào,” Hawkin nói ngay. “Tất nhiên là cậu không thể. Đó là một bí ẩn. Các Cổ Nhân có thể di chuyển tùy ý trong Thời Gian; các vị không bị ràng buộc bởi các quy luật Vũ Trụ mà con người biết đến.”
“Thế ông không phải Cổ Nhân sao?” Will hỏi. “Tôi tưởng ông chắc phải là một người trong số đó.”
Hawkin mỉm cười lắc đầu. “Không,” y nói. “Một kẻ tầm thường tội lỗi.” Y nhìn xuống và vuốt nhẹ ống tay áo màu xanh. “Nhưng là kẻ được hưởng nhiều đặc ân nhất. Vì giống như cậu, tôi không phải là người thế kỷ này, Will Stanton ạ. Tôi được đưa đến đây chỉ để thực hiện một công việc rồi Ông chủ Merriman sẽ lại đưa tôi quay trở về thời đại của tôi.”
“Thời đại đó,” giọng nói trầm trầm của ông Merriman vang lên cùng với tiếng sập cửa khe khẽ, “người ta không có những thứ như áo nhung, vì vậy anh ta mới sung sướng đến thế khi được khoác chiếc áo đẹp nhường kia. Phải nói là chiếc áo trông ra dáng công tử bột đúng tiêu chuẩn thời nay đấy, Hawkin ạ.”
Người đàn ông nhỏ thó ngẩng đầu, toét miệng cười vội vã, và ông Merriman thân mật đặt tay lên vai y. “Hawkin là một đứa con của thế kỷ mười ba, Will à,” ông nói. “Bảy trăm năm trước khi cậu ra đời. Anh ta thuộc thời đó. Nhờ pháp thuật của ta, anh ta được đưa đến thời đại này chỉ riêng trong ngày hôm nay thôi, sau đó anh ta sẽ quay về. Giống như một số rất ít người bình thường từng làm.”
Will thọc mạnh tay vào lớp tóc; cậu cảm thấy như thể mình đang lần mò đọc một tấm bảng giờ tàu nhằng nhịt. Hawkin khẽ cười. “Tôi đã bảo cậu mà, Cổ Nhân. Đó là một bí ẩn.”
“Ông Merriman?” Will hỏi. “Ông thuộc thời đại nào ạ?”
Khuôn mặt sạm đen với cái mũi diều hâu của ông Merriman hướng vào cậu không biểu lộ chút cảm xúc nào, giống hệt một bức phù điêu cổ kính. “Cậu sẽ hiểu ngay thôi,” ông nói. “Cả ba chúng ta có mặt ở đây còn vì một mục đích khác ngoài việc tái sinh Dấu Hiệu Gỗ. Ta không thuộc về nơi nào và cũng thuộc về khắp mọi nơi, Will ạ. Ta là Cổ Nhân đầu tiên, và ta tồn tại trong mọi thời đại. Ta đã tồn tại - đang tồn tại - trong thời đại của Hawkin. Ở đó, Hawkin là tâm phúc của ta. Ta là ông chủ của anh ta, thậm chí còn hơn cả ông chủ nữa, vì anh ta đã sống cả đời bên cạnh ta, được ta nuôi nấng dạy dỗ như con trai, vì ta đã cưu mang anh ta sau khi bố mẹ anh ta qua đời.”
“Không người con nào được quan tâm chu đáo hơn,” Hawkin nói, giọng hơi khàn; y nhìn xuống chân, kéo thẳng chiếc áo khoác, và Will nhận ra bất chấp tất cả những nếp nhăn trên khuôn mặt kia, Hawkin cũng chẳng lớn tuổi hơn anh Stephen của cậu là mấy.
Ông Merriman nói: “Anh ta là bạn, người phục vụ và cũng là người ta vô cùng yêu mến. Và đặt vào anh ta sự tin tưởng lớn lao. Lớn đến mức ta đã cho anh ta giữ một vai trò trọng yếu trong cuộc tìm kiếm mà chúng ta phải hoàn tất trong thế kỷ này - cuộc tìm kiếm kiến thức của cậu, Will ạ.”
“Ồ,” Will ỉu xìu nói.
Hawkin toét miệng cười với cậu; rồi nhảy tới trước, cúi gập người trước cậu, cố ý phá vỡ bầu không khí trang nghiêm. “Tôi phải cảm ơn cậu vì đã được sinh ra trên đời, thưa Cổ Nhân,” y nói, “và trao cho tôi cơ hội chạy như một chú chuột sang thời đại khác.”
Ông Merriman mỉm cười, thư thái. “Cậu có nhận ra anh ta thích thú thế nào với việc châm những ngọn đèn khí đốt kia không, Will? Ở thời của anh ta, người ta dùng những cây nến hôi hám, khói mù mịt, mà thực ra cũng chẳng phải là nến nữa, chỉ là bấc nhúng trong mỡ động vật thôi.”
“Đèn khí đốt ạ?” Will ngước nhìn quả cầu trắng trên tường. “Đó là đèn khí đốt ạ?”
“Tất nhiên rồi. Làm gì đã có điện.”
“Nhưng mà,” Will chống chế, “rút cuộc thì cháu thậm chí còn chưa biết đây là năm nào nữa.”
“Năm 1875 sau công nguyên,” ông Merriman đáp. “Một năm không đến nỗi nào. Ở London, ngài Disraeli đang nỗ lực hết mình để mua kênh đào Suez. Hơn một nửa số tàu buôn của Anh sẽ đi qua kênh đào này là tàu chạy bằng buồm. Nữ hoàng Victoria đã ngồi trên ngai vàng nước Anh ba mươi tám năm. Ở Mỹ, ngài tổng thống đương nhiệm mang một cái tên rất mỹ miều là Ulysses S. Grant và Nebraska là tiểu bang mới nhất trong số ba mươi tư bang của Hợp Chủng Quốc. Và trong một trang viên xa xăm ở vùng Buckinghamshire, vốn chỉ khét tiếng hoặc nổi tiếng trong xã hội thượng lưu nhờ một bộ sưu tập nhỏ những cuốn sách về thuật gọi hồn quý giá nhất thế giới, một quý cô tên là Mary Greythorne đang mở tiệc mừng Giáng sinh, một bữa tiệc đầy nhạc và những bài hát mừng, để chiêu đãi bạn bè.”
Will đi đến giá sách gần nhất. Tất cả sách đều được bọc da, phần lớn màu nâu. Có những quyển mới cứng, gáy dát vàng lấp lánh; lại có những cuốn sách nhỏ dày cũ kỹ đến mức da bọc ngoài đã rách tươm, để lộ lớp vải dày xù xì. Cậu nhìn kỹ một sổ tên sách: Thờ ma cúng quỷ, Liber Poenitalis, Những khám phá về phép phù thủy, Malleus Maleficarum - và những cuốn tương tự bằng tiếng Pháp, tiếng Đức và những ngôn ngữ khác thậm chí cậu còn không nhận ra được mẫu tự. Ông Merriman khoát tay về phía đống sách và những giá sách khắp xung quanh.
“Đáng giá bằng một gia tài nho nhỏ đấy,” ông nói, “nhưng không phải đối với chúng ta. Đây là chuyện của mấy kẻ rỗi hơi, người thì mơ mơ màng màng, kẻ thì điên điên dại dại. Những câu chuyện về phép phù thủy và về những điều khủng khiếp mà con người từng làm đối với những linh hồn chất phác tội nghiệp bị họ gọi là phù thủy. Hầu hết những người này đều là người bình thường, vô hại, chỉ có một hai người trong số đó quả thực có liên hệ với Bóng Tối… Tất nhiên không một ai trong số đó liên quan đến các Cổ Nhân, vì gần như mọi câu chuyện người bình thường kể về phù thủy, pháp thuật và những thứ tương tự đều là sản phẩm của sự ngu dốt, thiếu hiểu biết hay tâm thần bệnh hoạn - hoặc là cách để người ta giải thích những điều họ không hiểu. Một trong những điều họ, hoặc phần lớn trong số họ, không biết chút gì, chính là về chúng ta. Và điều này chỉ được chứa đựng, Will ạ, duy nhất trong một cuốn sách lưu giữ tại căn phòng này. Những cuốn sách còn lại thỉnh thoảng cũng có tác dụng như lời nhắc nhở về những gì Bóng Tối có thể làm được và về những cách thức mờ ám có thể thỉnh thoảng được sử dụng. Nhưng có một cuốn sách đưa ra lời lý giải vì sao cậu quay về thế kỷ này. Đó là cuốn sách sẽ dạy cho cậu biết vị trí của cậu trong giới Cổ Nhân, và không lời nào có thể diễn tả được giá trị của nó. Cuốn sách về những điều được che giấu, về pháp thuật đích thực. Từ xa xưa, khi pháp thuật là kiến thức duy nhất được ghi chép lại, những gì chúng ta làm được gọi đơn giản là Kiến thức. Nhưng trong thời đại của cậu có quá nhiều điều phải biết, về đủ mọi vấn đề trên trái đất này. Vì vậy chúng ta dùng một từ gần như đã bị lãng quên, cũng như chính giới Cổ Nhân chúng ta cũng gần như đã bị lãng quên. Chúng ta gọi nó là ‘pháp thuật’.”
Ông đi ngang qua phòng tiến đến chiếc đồng hồ, vẫy tay ra hiệu cho hai người theo sau. Will liếc nhìn Hawkin và thấy khuôn mặt gầy guộc, tự tin của y rúm lại sợ hãi. Hai người đi theo. Ông Merriman đứng lại trước chiếc đồng hồ cổ to tướng đặt ở góc phòng, cao quá đầu ông đến nửa mét, rồi rút từ trong túi ra một cái chìa khóa, mở ô cửa phía trước chiếc đồng hồ. Will có thể nhìn thấy quả lắc ở bên trong đang chậm rãi đung đưa như thôi miên, tới… rồi lui, tới… rồi lui.
“Hawkin,” ông Merriman gọi. Giọng ông rất nhẹ nhàng, thậm chí còn có vẻ âu yếm, nhưng đó là một mệnh lệnh. Người đàn ông áo xanh lặng lẽ quỳ xuống bên trái ông và giữ nguyên tư thế đó không hề nhúc nhích. Y khẽ nói với giọng cầu khẩn gần như thì thào: “Ông chủ…” Nhưng ông Merriman không hề để ý. Ông đặt tay trái lên vai Hawkin, còn tay kia vươn về phía chiếc đồng hồ. Ông cẩn thận luồn những ngón tay dài dọc một bên thành chiếc hộp đồng hồ, vòng ra phía sau, giữ ngón tay thẳng hết mức để chúng không chạm vào quả lắc, rồi rất nhanh, ông kéo ra một cuốn sách nhỏ bìa đen. Hawkin ngồi sụp xuống sàn, thở khò khè, gấp gáp như vừa trải qua một sự kiện kinh khủng, đến nỗi Will phải trố mắt nhìn y kinh ngạc. Nhưng ông Merriman đã kéo cậu quay ra chỗ khác. Ông bắt Will ngồi xuống một chiếc ghế trong phòng rồi đặt cuốn sách vào tay cậu. Trên bìa sách không có tiêu đề.
“Đây là cuốn sách cổ nhất thế giới,” ông nói ngắn gọn. “Khi cậu đọc xong, nó sẽ bị hủy đi. Đây là Cuốn Sách Pháp Thuật, được viết bằng Cổ Ngữ. Không ai có thể hiểu được nó ngoại trừ các Cổ Nhân, và ngay cả khi một người hay một sinh linh nào đó có thể hiểu được bất kỳ câu thần chú quyền năng nào ở trong này thì kẻ đó cũng không thể nào sử dụng được chúng trừ phi chính kẻ đó cũng thuộc giới Cổ Nhân. Vì thế thực ra sự hiện diện của cuốn sách này trong suốt hàng ngàn năm nay không phải điều quá nguy hiểm. Nhưng giữ một vật như thế này tồn tại quá lâu, vượt ra khỏi số phận của chính nó cũng không tốt chút nào, vì nó luôn luôn bị Bóng Tối đe dọa, và chúng sẽ không ngừng tìm mọi cách để khám phá ra cách sử dụng cuốn sách này nếu có được nó trong tay. Vì vậy, bây giờ, trong căn phòng này, cuốn sách sẽ hoàn thành mục đích của nó là ban tặng cho cậu, Cổ Nhân cuối cùng, món quà Pháp thuật - và sau đó nó sẽ bị hủy. Khi cậu đã có kiến thức rồi, Will Stanton ạ, thì chẳng còn lý do gì để giữ nó lại nữa, vì với sự góp mặt của cậu, vòng tròn đã hoàn chỉnh.”
Will ngồi bất động, nhìn những mảng tối di chuyển trên khuôn mặt rắn rỏi và nghiêm nghị trước mặt; rồi cậu lắc đầu như để đánh thức mình, và mở cuốn sách ra. Cậu nói: “Nhưng nó viết bằng tiếng Anh! Ông nói là…”
Merriman phá lên cười. “Không phải tiếng Anh, Will à. Và khi chúng ta nói chuyện với nhau, cậu và ta, chúng ta không dùng tiếng Anh. Chúng ta dùng Cổ Ngữ. Khi sinh ra chúng ta đã biết ngôn ngữ này rồi. Cậu nghĩ là lúc này cậu đang nói tiếng Anh vì lý trí thông thường bảo cậu rằng đó là ngôn ngữ duy nhất cậu hiểu, nhưng nếu mọi người trong gia đình nghe được cậu nói thì họ sẽ chỉ thấy những tiếng lắp bắp vô nghĩa mà thôi. Cuốn sách kia cũng vậy.”
Hawkin đã đứng dậy được, mặc dù mặt y tái dại không chút thần sắc. Y hổn hển dựa vào tường, khiến Will nhìn y lo lắng.
Nhưng ông Merriman không để ý gì đến y mà vẫn tiếp tục nói: “Từ khoảnh khắc quyền năng của cậu thức dậy vào ngày sinh nhật cậu, cậu đã có thể nói chuyện như một Cổ Nhân. Và cậu đã dùng ngôn ngữ của Cổ Nhân, dù không hề biết mình đang làm thế. Đó cũng chính là lý do Kỵ Sĩ nhận ra cậu khi hắn gặp cậu trên đường - cậu đã chào John Smith bằng Cổ Ngữ, vì thế ông ấy phải trả lời cậu bằng chính ngôn ngữ đó, và tự đặt mình vào mối hiểm nguy bị nghi ngờ là Cổ Nhân mặc dù nghề rèn chẳng có liên quan gì đến bổn phận chung của chúng ta ở đấy. Nhưng người bình thường cũng có thể nói được Cổ Ngữ - chẳng hạn như anh chàng Hawkin đây, và những người khác trong nhà này, vốn không thuộc Vòng Tròn. Cả những tên Chúa Tể Bóng Tối cũng biết Cổ Ngữ, mặc dù chúng không bao giờ che giấu nổi chất giọng riêng của chúng.”
“Cháu nhớ rồi,” Will chậm rãi nói. “Hình như tên Kỵ Sĩ có một giọng nói, một kiểu nói cháu không biết. Chỉ có điều dĩ nhiên lúc đó cháu tưởng hắn đang nói tiếng Anh và chắc hắn chỉ là người vùng khác mà thôi. Hèn gì hắn đuổi theo cháu nhanh thế.”
“Đơn giản vậy thôi,” ông Merriman nói. Bây giờ ông mới nhìn Hawkin và đặt một bàn tay lên vai y nhưng người đàn ông nhỏ bé không nhúc nhích. “Giờ thì nghe này, Will. Chúng ta sẽ để cậu lại đây cho đến khi cậu đọc xong cuốn sách. Sẽ không giống như đọc bất kỳ một cuốn sách bình thường nào khác đâu. Khi cậu đọc xong, ta sẽ quay lại. Dù ở bất kỳ nơi đâu, ta cũng luôn biết cuốn sách đang mở hay đang đóng. Hãy đọc ngay đi. Cậu là một Cổ Nhân vì thế cậu chỉ phải đọc nó một lần, và nó sẽ luôn ở trong cậu dù ở Thời Gian nào. Sau đó, chúng ta sẽ chấm dứt mọi chuyện.”
Will thốt lên: “Hawkin có làm sao không ạ? Ông ấy có vẻ ốm.”
Ông Merriman nhìn xuống hình người nhỏ thó rũ rượi trong chiếc áo xanh, sự đau đớn hằn trên khuôn mặt ông. “Hỏi quá nhiều rồi,” ông nói một cách khó hiểu, dựng Hawkin dậy. “Nhưng còn cuốn sách, Will. Đọc đi. Nó đã đợi cậu rất lâu rồi.”
Ông dìu Hawkin bước ra ngoài, quay trở về căn phòng kế bên tràn ngập âm nhạc và tiếng cười nói, bỏ lại Will với Cuốn Sách Pháp Thuật.