Phản bội
Mãi sau này Will vẫn không thể biết chắc cậu đã tiêu tốn bao nhiêu thời gian với Cuốn Sách Pháp Thuật ấy. Có quá nhiều điều từ những trang sách ùa vào trí óc cậu, thay đổi con người cậu, khiến cậu tưởng như mình đã đọc cả năm trời, nhưng đồng thời cuốn sách lại cuốn hút cậu đến nỗi khi kết thúc rồi cậu lại có cảm giác như chỉ mới bắt đầu. Quả thật nó không giống bất kỳ cuốn sách nào khác. Tựa đề trên mỗi trang sách khá đơn giản như Bay; Đối đầu; Thần chú; Kháng cự; Thời gian xuyên cửa. Nhưng thay vì mang đến cho cậu một câu chuyện hay chỉ dẫn, quyển sách lại chỉ trích một đoạn thơ hay một hình vẽ màu sắc rực rỡ, và bằng cách nào đó, đoạn thơ hay hình vẽ ấy sẽ ngay lập tức khiến cậu tai nghe mắt thấy những gì mình đọc.
Có khi còn chưa đọc hết câu - Ta đã lang thang tựa đại bàng - thì cậu đã đột ngột thấy mình lao vút lên cao như vừa được chắp thêm đôi cánh, học hỏi nhờ cảm giác, cảm giác về cách cưỡi trên gió và nghiêng mình quanh những cột không khí thẳng đứng, về cách lướt nhanh và bay vút lên, về cách nhìn xuống những ngọn đồi xanh trên đỉnh dày đặc những thân cây sẫm màu và một dòng sông lấp lánh, uốn lượn giữa các quả đồi. Trong lúc bay liệng, cậu biết rằng đại bàng là một trong năm loài chim duy nhất có thể nhìn thấy Bóng Tối, và ngay lập tức cậu cũng biết được bốn loài còn lại, rồi lần lượt biến thành những loài đó….
Cậu đọc: …bạn đến nơi có loài sinh vật cổ xưa nhất trên thế giới, loài vật đã sinh sống ở nơi xa xôi nhất, Đại Bàng xứ Gwernabwy… và Will đã đứng trên một mỏm đá cheo leo trần trụi vượt hẳn lên trên thế giới, thư thái nghỉ ngơi trên thềm đá granit xám đen lấp lánh, sườn bên phải cậu tựa vào một bàn chân lông vàng mềm mại và chiếc cánh đang khép lại, tay cậu đặt cạnh một chiếc vuốt cong dữ tợn cứng như thếp, còn trong tai cậu vang lên một giọng nói khàn khàn thì thầm những lời có thể điều mây khiến gió, ra lệnh cho bầu trời và khí quyển, mây và mưa, tuyết và mưa đá - điều khiển được tất cả mọi thứ trên bầu trời ngoại trừ mặt trời và mặt trăng, các hành tinh và các vì sao.
Rồi cậu lại bay lên, sải cánh trên bầu trời xanh thầm, những vì sao vĩnh cửu rạng rỡ khắp xung quanh, hình dáng các vì sao đó khiến chúng trở nên quen thuộc với cậu, vừa giống vừa không giống những hình thù vù quyền năng mà con người bao đời nay đã gán cho chúng. Chàng Chăn Cừu đi ngang qua, gật đầu chào, dưới chân chàng là chòm sao sáng Arcturus[14]; chú Kim Ngưu rống lên bên cạnh, chở trên mình mặt trời Aldebaran[15] rực rỡ cùng chòm Thất Tinh nhỏ đang khe khẽ cất tiếng hát, giọng hát du dương cậu chưa từng nghe bao giờ. Cậu bay cao, bay xa mãi, xuyên qua khoảng không đen tối, nhìn thấy cả những ngôi sao đã chết lẫn những ngôi sao đang tỏa sáng, thấy sự sống rải rác tạo thành cư dân của một vùng trống vắng vô tận. Và khi đọc xong thì cậu đã biết được mọi vì sao trên bầu trời, biết cả tên và vị trí thiên văn của chúng, biết đến nhiều điều còn bí ẩn hơn thế nữa; cậu biết mọi câu thần chú của mặt trời và mặt trăng; cậu biết bí ẩn của sao Thiên Vương và nỗi tuyệt vọng của sao Thủy, và cậu đã cưỡi trên một ngôi sao chổi.
Cũng như vậy, Cuốn Sách đã đưa cậu rời khỏi thiên đường bằng một dòng:
… mặt biển lăn tăn dưới kia đang mời gọi…
Và cậu lao vút xuống mặt biển xanh lăn tăn chậm rãi, mặt biển đã chuyển thành lớp lớp những đợt sóng cuộn dâng sục sôi khi cậu đến gần hơn. Rồi cậu đã ở trong lòng biển, thoát xa sự náo động trên kia, xuyên qua làn nước xanh dịu để bước vào một thế giới trong trẻo, lạ lùng của vẻ đẹp, của sự tàn nhẫn và của những sinh linh tồn tại trong lạnh lẽo hoang vắng. Sinh vật này làm mồi cho sinh vật khác, chẳng loài nào được an toàn tuyệt đối. Ở nơi này, Cuốn Sách dạy Will cách chống lại những thế lực nham hiểm độc ác xung quanh để tồn tại và sống sót, những câu bùa chú của biển, của sông suối, vịnh và hồ, chỉ cho cậu thấy nước là nguyên tố duy nhất có thể phần nào chống lại mọi pháp thuật; vì dòng nước chảy không buông tha bất kỳ pháp thuật nào dù tốt hay xấu, nó có thể cuốn trôi mọi thứ đến mức tưởng như chúng chưa từng tồn tại trên đời.
Cuốn Sách đưa cậu bơi qua những dải san hô sắc cạnh chết người, giữa những lá dương xỉ kỳ lạ mềm mại màu xanh, đỏ và tía, giữa những chú cá sặc sỡ bảy sắc cầu vồng bơi đến bên cậu, nhìn cậu chằm chằm, khẽ vẫy đuôi hoặc vây rồi bơi đi mất. Lướt qua những cái lông gai chẳng mấy dễ chịu của đám nhím biển, qua những sinh vật mềm oặt uốn éo trông chẳng ra cây cũng chẳng ra cá; và rồi đặt chân lên nền cát trắng, lội qua những vũng cạn lốm đốm ánh vàng - vào trong rừng. Những thân cây trơ trụi như một đám rễ dày đặc chạy xuống biển theo khắp mọi hướng, tạo thành một rừng cây không lá, và chỉ trong giây lát Will đã thoát khỏi đám cây rối rắm và lại đang chớp mắt nhìn vào một trang Cuốn Sách Pháp Thuật.
…Tôi đùa với lửa và giỡn với gió…
Cậu lại thấy mình ở giữa rừng, cánh rừng mùa xuân dịu dàng lá xanh mơn mởn lốm đốm ánh mặt trời trong trẻo; cánh rừng mùa hạ với tán lá dày xào xạc; những cây linh sam mùa đông tối sẫm không sợ bị kẻ nào điều khiển và cũng không để ánh sáng làm thân cây bạc màu. Cậu học được đặc tính của mọi loài cây, những pháp thuật đặc biệt chỉ có trong sồi và tần bì. Rồi, một trang sách chỉ có một khổ thơ:
Thấy gió thổi khắp rừng cây hoang dã
Đàn chim te te lượn vòng trên mặt nước
Mơ thấy Kẻ Xa Lạ
Có lẽ vẫn còn bí ẩn trước chúng ta, than ôi!
Câu chuyện về những Cổ Nhân ùa vào tâm trí cậu, cuốn cậu quay cuồng trong cơn gió thổi xuyên qua Thời Gian, thổi quanh Thời Gian. Cậu nhìn thấy họ trong thời kỳ sơ khai, khi pháp thuật tự do hiển hiện khắp thế giới; pháp thuật nảy sinh từ quyền năng của đá và lửa, của nước và sinh vật, vì vậy con ta người thuở khai thiên lập địa đã sống trong pháp thuật, sống cùng pháp thuật như cá sống trong nước. Cậu nhìn thấy những Cổ Nhân, qua mỗi thời kỳ đồ đá, đồ đồng, rồi đồ sắt, mỗi thời kỳ lại sản sinh ra một trong số sáu Dấu Hiệu vĩ đại ấy. Cậu thấy hết chủng tộc này đến chủng tộc khác tấn công quốc đảo của cậu, lần nào cũng mang theo sự độc ác của Bóng Tối, hết đội tàu này đến đội tàu khác như những làn sóng tràn vào vò xé bờ biển quê hương cậu không chút thương tiếc. Rồi lớp lớp những con người lại lần lượt xây dựng nền hòa bình bởi họ thấu hiểu và yêu thương mảnh đất này, và vì thế Ánh Sáng vẫn ngày càng lớn mạnh. Nhưng Bóng Tối luôn luôn tồn tại, lúc thịnh lúc suy, luôn tìm được một Chúa Tể Bóng Tối mới mỗi khi con người chủ tâm tự biến mình thành thứ gì ghê tởm và quyền lực hơn so với các anh em bằng hữu. Giống như các Cổ Nhân, những con người ấy không phải sinh ra đã có số phận bất hạnh, mà chính họ đã chọn nó. Kể từ lúc sơ khai, lúc nào Will cũng thấy sự hiện diện của Kỵ Sĩ Bóng Tối.
Cậu chứng kiến thời điểm Ánh Sáng phải trải qua cuộc thử thách vĩ đại đầu tiên, và các Cổ Nhân đã phải mất ba thế kỷ ròng rã đấu tranh giành giật mảnh đất của mình thoát khỏi thế lực Bóng Tối, cuối cùng nhận được sự hỗ trợ của thủ lĩnh vĩ đại nhất của họ, cuộc giải cứu chỉ có thể thành công khi một ngày nào đó thủ lĩnh vĩ đại này có thể tỉnh dậy và quay lại.
Thoát khỏi thời kỳ đó, một sườn đồi xanh cỏ chan hòa ánh nắng hiện lên trước mắt Will, với hình vòng tròn bao quanh một chữ thập lớn khảm vào nền cỏ, sáng trắng màu đá phấn Chiltern. Câu thấy một nhóm người mặc quần áo xanh lá cây đứng quanh một nhánh của chữ thập trắng, cào cào vào đó bằng một công cụ kỳ lạ giống như chiếc rìu lưỡi dài; đó là những người nhỏ bé, càng nhỏ hơn khi dứng gần Dấu Hiệu vĩ đại ấy. Cậu thấy một người trong đám lảo đảo đi về phía cậu như mộng du: một người đàn ông mặc áo chùng màu xanh lá cây có dây buộc ngang lưng, áo choàng ngắn không tay màu xanh da trời sẫm và trùm mũ kín đầu. Người đàn ông vung rộng hai cánh tay, một tay cầm cây đoản kiếm lưỡi đồng, tay kia là một chiếc chén lấp lánh trông như chén Thánh; ông ta xoay tròn và ngay lập tức biến mất. Giở sang trang khác, Will thấy mình đang đi trên một lối mòn xuyên qua cánh rừng rậm, một loài thảo mộc xanh sẫm nào đó tỏa hương thơm ngát dưới chân cậu; lối mòn mở rộng và cứng lại với lớp đá mòn vẹt uốn lượn như đá vôi, dẫn cậu ra khỏi cánh rừng, đưa cậu lên đỉnh núi cao lộng gió, dưới bầu trời xám xịt, dưới chân là một thung lũng mù sương. Trong suốt khoảng thời gian cậu bước đi, mặc dù không có ai đi cùng nhưng những câu thần chú bí ẩn về Đường Cổ vẫn vững vàng len vào tâm trí cậu, kèm theo đó là cả những cảm xúc và dấu hiệu có thể cho cậu biết được, bất kể cậu đang ở nơi nào trên thế giới, Đường Cổ gần nhất nằm ở đâu, dù đó là đường thật hay con đường hư ảo…
Cứ tiếp tục như thế cho đến khi Will nhận thấy mình đã đọc gần hết Cuốn Sách. Một khổ thơ hiện ra trước mắt cậu:
Mọi bí ẩn vừa khám phá
Đã cho tôi phép nhiệm màu;
Dù Math con Mathonwy[16]
Cũng không thể so bì.
Ở trang cuối cùng, áp sát trong bìa, là hình vẽ sáu Dấu Hiệu hình tròn bao quanh chữ thập, tất cả liên kết thành một vòng tròn. Và chỉ có vậy thôi.
•§•
Will từ từ gấp cuốn sách lại, ngồi nhìn chăm chăm vào khoảng không vô định. Cậu có cảm giác như mình vừa sống qua hàng trăm năm. Giờ đây cậu biết rất nhiều điều, có khả năng làm được rất nhiều việc; lẽ ra cậu phải thấy vui mừng mới phải, nhưng cậu lại thấy lòng nặng trĩu, u sầu bởi những ý nghĩ về tất cả những gì đã và sẽ xảy ra.
Ông Merriman đi vào một mình, đứng nhìn cậu. “À phải,” ông dịu dàng nói. “Ta đã nói với cậu rồi, đó là nghĩa vụ, là gánh nặng. Nhưng nó vẫn ở đây, Will ạ. Chúng ta là Cổ Nhân, sinh ra để tạo nên một Vòng Tròn, và không có cách nào tránh khỏi điều đó cả.” Ông cầm cuốn sách và đặt tay lên vai Will. “Đi thôi.”
Will bước theo ông ngang qua căn phòng đến bên chiếc đồng hồ quả lắc cao ngất, quan sát ông lại rút chìa khóa ra khỏi túi và mở cánh cửa phía trước. Quả lắc vẫn treo ở đó, buông dài và chậm rãi, lắc lư như nhịp đập trái tim. Nhưng lần này ông Merriman không để tâm đến việc tránh không chạm vào nó nữa. Ông đút cuốn sách vào trong, nhưng người ông lại giật nảy lên một cách kỳ lạ, như một diễn viên đã quá cường điệu khi đóng vai kẻ vụng về; khi ông đua cuốn sách vào, một cạnh của nó chạm vào cái cân dài của quả lắc. Will thấy nhíp lắc hơi bị ngừng chỉ trong tích tắc. Rồi cậu loạng choạng lùi lại, vội giơ tay lên che mắt, cả căn phòng tràn ngập một thứ gì đó cậu không sao diễn tả được - một vụ nổ câm lặng, một luồng ánh sáng đen chói lòa, tiếng gào thét của thứ năng lượng không ai có thể nhìn thấy hay nghe thấy được và ngay lập tức khiến cậu có cảm giác cả thế giới vừa nổ tung. Khi cậu bỏ tay che mặt ra, chớp chớp mắt, cậu thấy mình đang dựa vào chiếc ghế tựa, cách nơi cậu vừa đứng đến mười bộ. Ông Merriman dang rộng hai tay dán người vào bức tường bên cạnh cậu. Góc phòng lúc trước đặt chiếc đồng hồ quả lắc giờ trống không. Không có gì hư hại, cũng không có dấu hiệu nào của bạo lực hay vụ nổ. Chỉ đơn giản là không có gì cả.
“Cậu thấy rồi đấy,” ông Merriman nói. “Ngay từ thuở ban đầu, đây đã là một cách bảo vệ Cuốn Sách Pháp Thuật. Nếu vật bảo vệ cuốn sách bị ai đó chạm vào thì cả nó, cả cuốn sách và người chạm vào nó sẽ trở thành… hư vô. Chỉ Cổ Nhân mới không bị nó hủy diệt, và cậu thấy đấy,” ông buồn bã xoa xoa cánh tay, “trong trường hợp đó, ngay chúng ta cũng có thể bị thâm tím mình mẩy. Tất nhiên có nhiều cách bảo vệ khác nhau, chiếc đồng hồ đó chỉ được sử dụng trong thế kỷ này thôi. Giờ thì chúng ta đã tiêu hủy Cuốn Sách rồi, bằng đúng cách chúng ta đã dùng để bảo vệ nó bao thế kỷ qua. Đó là cách duy nhất để sử dụng pháp thuật một cách đúng đắn, như cậu đã học được đấy.”
Will run rẩy hỏi: “Thế Hawkin đâu rồi ạ?”
“Giờ thì không còn cần đến anh ta nữa,” ông Merriman đáp.
“Ông ấy có sao không ạ? Trông ông ấy…”
“Nói chung là ổn.” Trong giọng nói của ông Merriman có một sự căng thẳng kỳ lạ, giống như nỗi buồn, nhưng ngay cả những phép màu Will vừa học được cũng không thể giúp cậu luận ra cảm xúc đích thực ẩn chứa trong đó.
Họ trở lại với đám đông trong căn phòng bên cạnh, bài thánh ca cất lên lúc họ rời khỏi đó đến tận bây giờ mới tới đoạn kết, và mọi người xử sự như thể họ mới chỉ ra ngoài trong một hai phút hay một khoảng thời gian không đáng kể nào đó vậy. Nhưng thật ra, Will nghĩ, chúng ta không sống trong thời gian thật; chúng ta đang ở quá khứ và dường như ngay cả quá khứ đó chúng ta cũng có thể kéo dài tùy thích, khiến nó đi nhanh hay chậm…
Đám đông dày đặc hơn, mọi người vẫn tiếp tục trở về từ phòng ăn. Bây giờ Will đã nhận ra gần như tất cả đều là người thường, chỉ một nhóm nhỏ ở lại trong phòng lúc nãy là Cổ Nhân. Tất nhiên rồi, Will tự nhủ, chỉ họ mới được phép chứng kiến sự phục hồi của Dấu Hiệu.
•§•
Thêm nhiều người bước vào, và khi Will đang quay xung quanh quan sát mọi người thì một nỗi kinh ngạc pha lẫn sợ hãi bất thần ùa đến choán hết tâm trí cậu. Mắt cậu bắt gặp một khuôn mặt ở cuối căn phòng, một cô gái, cô ta không nhìn cậu mà đang bận nói chuyện với ai đó cậu không thấy mặt. Cậu thấy cô ta hất đầu lên với một tiếng cười rạng rỡ e thẹn. Rồi cô ta lại nghiêng người lắng nghe, và biến mất khỏi tầm nhìn khi một đám khách khác chắn ngang phía trước. Nhưng thế cũng đã đủ thời gian để Will nhận ra cô gái đang cười đó chính là Maggie Barnes, cô Maggie của Trại Dawson trong thế kỷ tới. Cô ta không phải người thuộc kiếp trước, như cô Greythorne thời Victoria này là kiếp trước của bà cô Greythorne mà cậu biết. Đây chính là cô nàng Maggie cậu đã gặp trong thời của cậu.
Cậu kinh hãi quay phắt lại, nhưng ngay khi bắt gặp ánh mắt ông Merriman thì cậu hiểu rằng ông cũng đã biết. Trên khuôn mặt có chiếc mũi diều hâu ấy không biểu lộ chút ngạc nhiên nào mà chỉ thấy bắt đầu một nỗi đau. “Đúng vậy,” ông mệt mỏi nói. “Cô nàng phù thủy đang ở đây. Ta cho là từ giờ cậu nên ở lại cạnh ta, Will Stanton à, và cùng ta theo dõi, vì ta thực sự không muốn theo dõi một mình.”
Lòng đầy băn khoăn, Will đứng cạnh ông trong góc khuất. Cô nàng Maggie vẫn lẩn đâu đó trong đám đông. Họ chờ đợi; rồi thấy Hawkin, bảnh chọe trong chiếc áo khoác xanh lá cây, len qua đám đông đến chỗ cô Greythorne, cung kính đứng cạnh cô với điệu bộ của một kẻ đã quen với việc phải luôn sẵn sàng phục vụ người khác. Ông Merriman hơi cứng người lại, và Will liếc nhìn lên; những nếp nhăn đau khổ đã hằn sâu trên khuôn mặt cương nghị, như thể ông Merriman tiên đoán được một nỗi đau khủng khiếp nào đó sắp đến. Ông lại đưa mắt về phía Hawkin ở phía bên kia căn phòng, thấy y cười hớn hở khi nghe cô Greythorne nói gì đó; bây giờ không còn chút dấu vết nào của những gì đã hành hạ y trong thư viện, người đàn ông nhỏ thó ấy toát lên vẻ rạng rỡ như một viên đá quý, có thể làm bừng sáng bất kỳ không khí ảm đạm nào. Will có thể hiểu tại sao y lại được ông Merriman yêu quý đến thế. Nhưng cùng lúc đó cậu bất thần có cảm giác kinh hãi, cảm thấy chắc chắn một hiểm họa đang treo lơ lửng.
Cậu kêu lên, giọng khàn đi: “Ông Merriman! Chuyện gì thế?”
Ánh mắt ông Merriman lướt trên những mái đầu trong căn phòng, hướng vào khuôn mặt nhọn hoắt hớn hở ấy. Ông nói, không để lộ chút cảm xúc nào: “Nó là mối hiểm nguy, Will ạ, mối hiểm nguy sắp đến với chúng ta vì những hành động của ta. Mối hiểm họa kinh khủng, đã luôn rình rập trong suốt cuộc tìm kiếm này. Ta đã mắc phải sai lầm tồi tệ nhất mà một Cổ Nhân có thể phạm phải và hậu quả của nó sắp giáng xuống đầu ta. Đặt quá nhiều niềm tin vào một kẻ phàm tục không đủ sức mạnh để giữ niềm tin ấy - đó chính là điều từ hàng trăm nãm trước chúng ta đã được dạy để không bao giờ mắc phải. Từ rất lâu trước khi Cuốn Sách Pháp Thuật được trao cho ta. Vậy mà ta đã ngu ngốc mắc phải sai lầm này. Giờ thì chúng ta không thể làm gì để sửa lại điều đó được nữa, mà chỉ có thể nhìn và chờ đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra thôi.”
“Ông đang nói về Hawkin phải không ạ? Một điều gì đó liên quan đến lý do tại sao ông đưa ông ta đến đây phải không?”
“Bùa chú bảo vệ Cuốn Sách gồm hai phần, Will ạ,” ông Merriman đau đớn trả lời. “Cậu đã thấy phần thứ nhất, bảo vệ trước bàn tay người thường - đó là quả lắc đồng hồ, sẽ hủy diệt kẻ nào chạm vào nó, trừ ta hay bất kỳ Cổ Nhân nào. Nhưng ta đã kết nối nó với phần kia của bùa chú, phần bảo vệ Cuốn Sách trước Bóng Tối. Bùa chú đó cho phép ta lấy Cuốn Sách qua khỏi quả lắc chỉ trong trường hợp tay kia của ta chạm vào Hawkin. Bất cứ khi nào Cuốn Sách được lấy ra cho Cổ Nhân cuối cùng, dù trong thế kỷ nào chăng nữa, thì Hawkin cũng phải được đưa từ thời đại của y đến đó.”
Will hỏi: “Tại sao bùa chú không dùng một Cổ Nhân thay cho người thường, thế có an toàn hơn không?”
“Chao ôi, không được, mục đích của bùa chú đó là để có một người thường tham dự vào. Chúng ta tham gia vào một trận chiến tàn nhẫn, Will ạ, và đôi khi chúng ta cũng phải hành xử một cách lạnh lùng. Bùa chú này được dệt nên xung quanh ta, người bảo vệ Cuốn Sách. Thế lực Bóng Tối không thể tiêu diệt ta vì ta là Cổ Nhân, nhưng chúng có thể sử dụng pháp thuật để lừa ta lấy Cuốn Sách ra. Nếu điều đó xảy ra thì phải luôn có cách nào đó để các Cổ Nhân khác có thể ngăn ta lại trước khi quá muộn. Họ cũng không thể tiêu diệt ta để ngăn ta thực thi những mưu đồ của Bóng Tối. Nhưng một người thường thì có thể bị tiêu diệt. Giả sử khi tình hình đã trở nên tồi tệ nhất, và Bóng Tối đã dùng ma lực buộc được ta lấy Cuốn Sách ra cho chúng, thì trước khi ta tiến hành, thế lực Ánh Sáng sẽ giết Hawkin. Như vậy Cuốn Sách sẽ mãi mãi an toàn, vì khi đó ta không thể thực hiện được bùa chú giải thoát, bùa chú buộc ta phải chạm vào y trong khi lấy Cuốn Sách ra. Cả Bóng Tối hay bất kỳ ai cũng không thể.”
“Nghĩa là ông ta đã mạo hiểm cả tính mạng mình,” Will chậm rãi nói, dõi theo Hawkin đang phấn khởi tiến đến chỗ nhạc công.
“Đúng thế,” ông Merriman đáp. “Phục vụ cho chúng ta, y sẽ an toàn trước thế lực Bóng Tối nhưng dù gì thì tính mạng của y vẫn bị nguy hiểm. Y chấp nhận vì y là người tâm phúc của ta, và tự hào vì điều đó. Ước gì ta đã buộc mình phải chắc chắn rằng y thật sự hiểu mối nguy hiểm y phải gánh chịu. Một mối nguy hiểm kép, vì hôm nay nếu ta lỡ chạm vào quả lắc, y đã không còn trên đời này nữa. Cậu thấy chuyện gì xảy ra khi cuối cùng thì ta đã làm điều đó rồi đấy. Cậu và ta, những Cổ Nhân, chỉ thuần túy bị rung động thôi; nhưng nếu Hawkin có mặt ở đó thì chỉ trong nháy mắt y đã bị giết chét, hoàn toàn biến mất như chính Cuốn Sách.”
“Chắc hẳn ông ấy không chỉ cực kỳ dũng cảm, mà còn phải thật sự yêu thương ông như con đối với cha,” Will nói, “thì mới có thể làm những điều như thế cho ông và cho ánh sáng.”
“Nhưng y vẫn chỉ là một người bình thường,” ông Merriman nói, giọng ông bỗng trở nên cộc cằn và nỗi đau lại hằn sâu trên khuôn mặt. “Và y yêu thương theo cách của người thường, đòi hỏi bằng chứng cho thấy tình yêu đó được đáp lại. Sai lầm của ta là đã lờ đi những rủi ro chuyện này có thể gây ra. Và kết quả là chỉ một lát nữa thôi, trong chính căn phòng này, Hawkin sẽ phản bội ta, phản bội Ánh Sáng và định hình toàn bộ hành trình tìm kiếm của cậu, cậu Will trẻ tuổi ạ. Ngay lúc này, sự choáng váng khi thực sự phải mạo hiểm cả tính mạng mình vì ta và vì Cuốn Sách Pháp Thuật vẫn còn quá sức chịu đựng đổi với lòng trung thành của y. Chắc cậu đã nhìn thấy khuôn mặt của y trong khoảnh khắc khi ta đặt tay lên vai y và lấy Cuốn Sách ra khỏi nơi cất giấu đầy hiểm nguy của nó. Chỉ trong giây phút đó Hawkin mới hoàn toàn hiểu rằng ta sẵn sàng để y chết. Và giờ đây, khi đã hiểu ra, y sẽ không bao giờ tha thứ cho ta vì đã không yêu thương y - theo quan niệm của y - nhiều bằng y đã yêu ta, chủ nhân của y. Và y sẽ quay lưng lại với chúng ta.” Ông Merriman chỉ tay về phía bên kia phòng. “Hãy xem mọi việc bắt đầu từ đâu.”
Nhạc nổi lên rộn ràng, khách khứa bắt đầu kết thành từng cặp để khiêu vũ. Một người đàn ông mà Will nhận ra là một Cổ Nhân tiến đến gần cô Greythorne, cúi gập người rồi đưa tay mời; xung quanh họ các đôi đã xếp thành hình số tám sẵn sàng cho một điệu nhảy nào đó cậu không biết. Cậu thấy Hawkin đang đứng phân vân, đầu khẽ lắc lư theo điệu nhạc; rồi cậu thấy một cô gái váy đỏ xuất hiện bên cạnh y. Đó là nữ phù thủy Maggie Barnes.
Cô ta nói gì đó với Hawkin, cười to và khẽ nhún đầu gối chào y. Hawkin mỉm cười lịch sự, có phần e ngại, rồi lắc đầu. Cô nàng cười duyên dáng hơn, điệu đà lắc lắc mái tóc và lại nói gì đó, mắt dính chặt vào mắt gã đàn ông.
“Ôi,” Will thốt lên, “giá mà chúng ta có thể nghe được!”
Ông Merriman ủ rũ nhìn cậu một lúc, khuôn mặt thẫn thờ, rầu rĩ.
“À,” Will nói, thấy mình thật ngớ ngẩn. “Tất nhiên rồi. Rõ là cậu phải mất một thời gian nữa mới dần quen với việc sử dụng khả năng của chính mình. Cậu lại nhìn Hawkin và cô gái, ước thầm có thể nghe được cuộc đối thoại của họ, và nghe thấy ngay.
“Đúng vậy đấy, thưa tiểu thư,” Hawkin đáp, “tôi không muốn tỏ ra thô lỗ, nhưng tôi không khiêu vũ đâu.”
Maggie nắm tay y. “Vì anh không ở đúng thời đại của mình, phải vậy không? Ở đây họ khiêu vũ bằng chân, giống hệt cách của anh năm trăm trước thôi. Đi nào.”
Hawkin sửng sốt trố mắt nhìn cô ta trong khi cô ta dẫn y đến chỗ mấy đôi nhảy khác. “Cô là ai?” Y thì thào. “Cô là Cổ Nhân sao?”
“Không đời nào,” Maggie Barnes đáp lại bằng Cổ Ngữ khiến Hawkin đứng sững lại, mặt trắng bệch. Cô nàng phá lên cười ngọt ngào và nói bằng tiếng Anh: “Đừng nói đến chuyện đó nữa. Khiêu vũ thôi, nếu không mọi người sẽ để ý đấy. Điệu này dễ lắm. Khi nào nhạc nổi lên thì hãy nhìn người đàn ông kế bên nhé.”
Hawkin, nhợt nhạt và lo lắng, vấp chân suốt đoạn đầu bản nhạc; nhưng dần dần y cũng nắm được các bước nhảy. Ông Merriman khẽ nói vào tai Will: “Người ta đã nói với y rằng không người nào ở đây biết y là ai và dù có bị tra tấn đến chết thì y cũng không được dùng Cổ Ngữ với bất kỳ ai ngoài cậu.”
Cuộc nói chuyện dưới kia lại bắt đầu.
“Hawkin, trông anh không có vẻ của người vừa từ cõi chết trở về.”
“Sao cô lại biết những chuyện đó? Cô là ai?”
“Họ sẽ mặc cho anh chết, Hawkin ạ. Sao anh lại có thể ngu ngốc đến thế?”
“Ông chủ của tôi yêu tôi,” Hawkin trả lời, nhưng giọng nói có vẻ yếu ớt.
“Ông ta đã lợi dụng anh, Hawkin ạ. Anh chẳng là gì đối với ông ta cả. Anh nên theo những ông chủ tốt hơn, những người sẽ quan tâm đến sự sống của anh. Và sẽ kéo dài nó từ thế kỷ này sang thế kỷ khác chứ không giam hãm nó trong thời của anh.”
“Như cuộc sống của một Cổ Nhân sao?” Hawkin hỏi lại, lần đầu tiên sự háo hức thức dậy trong giọng nói của y. Will nhớ lại vẻ ghen tỵ khi Hawkin nói với cậu về các Cổ Nhân; giờ đây còn thoáng chút lòng tham nữa.
“Bóng Tối và Kỵ Sĩ là những ông chủ tốt hơn bọn Ánh Sáng nhiều,” Maggie Barnes nhỏ nhẹ rót vào tai hắn khi phần đầu bản nhạc kết thúc. Hawkin lại đứng sững nhìn cô ta trân trối cho đến khi cô ta liếc nhìn xung quanh và nói to: “Tôi cần uống một ly nước lạnh.” Hawkin giật nảy người và dẫn cô ta đi, vậy là giờ đây, khi đã thu hút được sự chú ý của y và có cơ hội nói chuyện riêng với y, cô ả phe Bóng Tối ấy đã có được một thính giả tự nguyện. Will đột nhiên cảm thấy kinh tởm sự phản bội thành hình, và không nghe thêm nữa. Cậu nhận ra bên cạnh mình, ông Merriman vẫn buồn rầu nhìn chằm chằm vào khoảng không.
“Vậy là xong,” ông Merriman lên tiếng. “Y sẽ bị quyến rũ bởi hình ảnh ngọt ngào của Bóng Tối, như loài người vẫn thường như vậy, và y sẽ đặt nó bên cạnh tất cả những đòi hỏi vốn luôn hết sức nặng nề của Ánh Sáng. Trong lúc đó y sẽ nuôi dưỡng sự oán giận trước việc có thể ta đã khiến y phải hy sinh cuộc sống của mình mà chẳng được chút lợi lộc gì. Cậu có thể tin chắc rằng thế lực Bóng Tối sẽ không đưa ra bất kỳ yêu cầu nào tương tự như vậy - vẫn chưa. Quả thực, chúa tể của bọn chúng sẽ không bao giờ mạo hiểm đòi hỏi phải hy sinh mạng sống, mà chỉ đề nghị một cuộc sống tối tăm… Hawkin ơi,” ông thất vọng nói khẽ, “người tâm phúc của ta ơi, sao ngươi có thể làm điều ngươi đang dự định đó?”
Bỗng nhiên Will thấy sợ hãi, và ông Merriman đã cảm nhận được. “Không nói chuyện này nữa,” ông nói. “Mọi chuyện sau đó ra sao thì đã rõ rồi. Giờ thì Hawkin sẽ thành một lỗ thủng trên mái nhà, một đường hầm dẫn đến kho của. Và cũng như Bóng Tối không thể chạm vào y khi y là tâm phúc của ta, giờ đây khi y là người của Bóng Tối thì ánh sáng cũng không thể hủy diệt y. Y sẽ là cái tai của Bóng Tối đặt giữa chúng ta, trong ngôi nhà vốn là thành trì của ánh sáng này.” Giọng ông lạnh lùng, chấp nhận sự thật không thể tránh; nỗi đau đã biến mất. “Mặc dù cô nàng phù thủy kia đã đột nhập được vào đây nhưng chỉ cần thực hiện một chút xíu pháp thuật nào thôi là cô ta sẽ bị Ánh Sáng tiêu diệt ngay. Nhưng giờ đây bất kỳ khi nào được Hawkin gọi đến, Bóng Tối đều có thể tấn công chúng ta ở đây như ở bất kỳ nơi nào khác. Và mối nguy hiểm sẽ càng ngày càng lớn lên.”
Ông đứng dậy, tay mân mê chiếc cà vạt trắng kết riềm đăng ten; khuôn mặt nhìn nghiêng dữ dằn toát lên vẻ lạnh lùng khủng khiếp, và trong một giây phút ngắn ngủi, ánh mắt sáng quắc dưới đôi lông mày đang cau lại làm máu trong người Will đông cứng. Đó là khuôn mặt sắt đá của một vị quan tòa đang kết tội.
“Nỗi bất hạnh Hawkin đã tự chuốc lấy bởi hành động này,” ông Merriman nói, không lộ chút cảm xúc nào, “là một điều khủng khiếp sẽ không chỉ một lần khiến y ước gì mình được chết đi.”
Will đứng sững sờ, lòng tràn ngập nỗi lo âu xen lẫn thương hại. Cậu không hỏi điều gì sẽ xảy ra với gã Hawkin bé nhỏ mắt sáng, người đã cười nhạo cậu, đã giúp đỡ cậu và trong một phút giây ngắn ngủi nào đó còn là bạn cậu; cậu không muốn biết. Trên sàn, phần hai bản nhạc khiêu vũ đã leng keng tiếng chuông kết thúc, những người khiêu vũ đang lịch sự chào nhau. Will đứng bất động và buồn bã. Ánh mắt băng giá của ông Merriman đã dịu lại, ông với tay về phía Will, nhẹ nhàng xoay người cậu hướng vào giữa căn phòng.
Will thấy giữa đám đông ngay trước ban nhạc có một khoảng trống. Khi cậu đứng đó, ban nhạc chơi lại bài “Good king Wenceslas” họ đã chơi khi cậu lần đầu tiên đi qua Cánh Cửa vào trong phòng. Đám đông vui vẻ hòa tiếng hát, rồi đến đoạn sau, giọng trầm trầm của ông Merriman ngân vang khắp phòng, và Will chớp mắt nhận ra cậu sẽ là người hát đoạn tiếp theo.
Cậu hít một hơi, ngẩng cao đầu.
Gã ta sống cách đây chừng bốn dặm…
Dưới chân núi này…
Và không một khoảnh khắc chia tay, không một khoảnh khắc để Will nhìn thấy thế kỷ mười chín ấy đã biến mất, mà bất thình lình, không hề nhận thức được sự thay đổi, ngay khi đang cất tiếng hát cậu đã biết rằng Thời Gian vừa chớp qua, và một giọng hát trẻ trung đang hòa cùng giọng cậu, nhịp nhàng đến nỗi nếu ai không nhìn thấy môi chúng đang mấp máy thì sẽ thề ngay rằng đó chỉ là giọng của một cậu bé thôi…
Ngay cạnh bìa rừng,
Bên suối nguồn Saint Agnes…
…và cậu biết mình đang đứng cạnh James, Mary cùng các anh chị khác, cậu và James đang song ca, và nhạc đệm chỉ có tiếng sáo của Paul. Cậu đứng đó trong tiền sảnh tối om, hai tay giơ cây nến đang cháy ra trước ngực, và cậu nhận ra cấy nến chưa cháy thêm một milimét nào kể từ lần cuối cùng cậu nhìn nó.
Bọn trẻ đã kết thúc bài thánh ca.
Bà Greythorne khen “Giỏi lắm, đúng là giỏi lắm. Không bài hát nào hay như ‘Good king Wenceslas,’ đó lúc nào cũng là bài hát ưa thích nhất của ta.”
Xuyên qua ánh nến, Will chăm chú nhìn thân hình bất động trên chiếc ghế bành lớn của bà; giọng bà nghe già hơn, đanh hơn, cứng rắn hơn vì tuổi tác, cả khuôn mặt bà cũng vậy, nhưng mặt khác bà vẫn giống hệt như - bà của bà, chắc hẳn cô Greythorne trẻ ấy chính là bà của bà cô Greythorne này? Hay là cụ của bà?
Bà Greythorne nói: “Các cháu biết không, những người hát thánh ca vùng Thung Lũng Thợ Săn đã hát bài ‘Good king Wenceslas’ trong ngôi nhà này từ lâu lắm rồi, lâu đến mức các cháu hay thậm chí cả ta cũng không thể nhớ nổi. Nào, Paul, Robin, cả các cháu kia nữa, làm một chút rượu pân Giáng sinh chứ?” Câu hỏi đã thành truyền thống, và câu trả lời cũng vậy.
“Vâng ạ,” Robin nghiêm trang đáp lại, “cám ơn bà Greythorne. Có lẽ chỉ một chút thôi ạ.”
“Năm nay cả nhóc Will cũng uống nữa ạ,” Paul nói. “Bây giờ nó mười một tuổi rồi đấy ạ, bà có biết không, bà Greythorne?”
Chị giúp việc đang bước tới với một khay đầy những chiếc ly sáng lấp lánh và một tô lớn rượu pân màu nâu đỏ, và gần như mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía ông Merriman khi ông bước lên rót rượu vào đầy các ly. Riêng Will lại nhìn chằm chằm vào đôi mắt mạnh mẽ và đột nhiên trở nên trẻ trung hơn của cái thân hình bất động trên chiếc ghế tựa cao. “Có chứ,” bà Greythorne nói khẽ, gần như lơ đễnh. “Ta nhớ chứ. Will Stanton vừa trải qua một ngày sinh nhật.” Bà quay sang ông Merriman lúc này đã ở ngay bên cạnh, cầm lấy hai chiếc ly trên tay ông. “Chúc mừng sinh nhật cháu, Will Stanton, con trai thứ bảy của một người con trai thứ bảy,” bà Greythorne nói. “Chúc cháu thành công trong mọi cuộc tìm kiếm.”
“Cháu cám ơn bà,” Will trả lời, lòng đầy thắc mắc. Họ trang trọng nâng ly chúc nhau rồi uống cạn, y như cách bọn trẻ nhà Stanton nâng ly mừng Giáng sinh vào ngày duy nhất trong năm chúng được phép uống rượu vang.
Ông Merriman đi một vòng cho đến khi tất cả mọi người đều đã có một ly rượu pân và đang sung sướng nhâm nhi. Rượu pân Giáng sinh ở Trang Viên bao giờ cũng rất ngon, tuy nhiên chưa từng có ai bỏ công ra tìm hiểu xem người ta đã bỏ những gì vào. Vốn là anh lớn trong nhà nên hai anh em sinh đôi tỏ ra đầy ý thức trách nhiệm, thong thả bước đến chuyện trò với bà cô Greythorne. Barbara kéo Mary tiến thẳng đến chỗ chị giúp việc Hampton và cô hầu gái Annie, hai thành viên bất đắc dĩ trong nhóm kịch của làng mà cô bé đang cố gắng xúc tiến hoạt động, ông Merriman nói với James: “Hai anh em cậu hát rất hay.”
James cười rạng rỡ. Mặc dù mập mạp hơn, nhưng chiều cao của cậu lại không nhỉnh hơn Will, và chẳng mấy khi cậu được tận hưởng cảm giác hài lòng vì có một người lạ nào đó nhận ra cậu là anh. “Bọn cháu tham gia đội hợp xướng của trường,” cậu khoe. “Và còn đơn ca trong nhiều hội diễn văn nghệ nữa. Thậm chí năm ngoái chúng cháu còn diễn ở London nữa cơ. Thầy dạy nhạc rất thích tham gia hội diễn văn nghệ.”
“Cháu thì không,” Will nói. “Tất cả các bà mẹ cứ nhìn trừng trừng.”
“Hôm ở London em là ngôi sao sáng nhất của lớp còn gì,” James bảo, “nên tất nhiên là họ không thích em rồi, vì em làm lu mờ những cục cưng bé nhỏ của họ mà. Còn cháu chỉ đứng thứ năm trong lớp cháu thôi,” cậu nói với ông Merriman bằng một giọng rất thực tế. “Will hát hay hơn cháu nhiều.”
“Ôi, anh thôi đi,” Will nói.
“Thật mà,” James là cậu bé thích sự công bằng; quả thật cậu thích thực tế hơn là những mơ mộng hão huyền. “Dù sao thì cũng cho đến khi anh em mình vỡ giọng. Khi đó có lẽ cả hai đều không giữ được phong độ nữa.”
Ông Merriman lơ đễnh nói: “Thật ra cháu sẽ thành người hát giọng nam cao hoàn hảo nhất. Gần như đạt tiêu chuẩn chuyện nghiệp. Giọng em cháu sẽ là giọng nam trung - dễ thương nhưng không có gì đặc biệt.”
“Cháu đoán là chuyện đó có thể xảy ra,” James trả lời, lịch sự nhưng hoài nghi. “Tất nhiên giờ thì chẳng ai có thể khẳng định được gì.”
Will tranh lời: “Nhưng ông ấy…” và dừng lại ngay khi bắt gặp đôi mắt đen huyền của ông Merriman, “Ừmm, à,” cậu lúng búng khiến James ngạc nhiên quay sang nhìn.
Từ phía bên kia phòng, bà Greythorne gọi với sang chỗ ông Merriman: “Paul muốn xem mấy cây tiêu và sáo cổ. Ông dẫn cậu ấy đi được chứ?”
Ông Merriman hơi cúi đầu. Ông hỏi Will và James với vẻ tình cờ. “Các cháu muốn đi cùng không?”
“Dạ không ạ,” James trả lời ngay. Mắt cậu đang hướng về cánh cửa phía xa, nơi chị giúp việc đang bước ra mang theo một cái khay khác. “Cháu ngửi thấy mùi bánh nhân thịt của cô Hampton rồi.”
Nhưng Will đã hiểu ý ông: “Cháu cũng muốn xem ạ.”
Cậu cùng Merriman tiến đến chỗ ghé ngồi của bà Greythorne, nơi Paul và Robin đang ngượng nghịu đứng hai bên như hai chàng cảnh vệ. “Ông dẫn chúng đi nhé,” bà Greythorne nhanh nhẹn nói với ông Merriman. “Cháu cũng đi cùng chứ Will? Tất nhiên rồi, ta quên mất cháu cũng là một tài năng âm nhạc. Trong đó có một bộ sưu tập nho nhỏ khá tuyệt vời các nhạc cụ và một số thứ khác nữa đấy. Kể cũng lạ là các cháu lại chưa thấy chúng bao giờ.”
Bị ru ngủ bởi những lời nói đó, Will buột miệng: “Trong thư viện ạ?”
Đôi mắt tinh anh của bà Greythorne lấp lánh nhìn Will. “Thư viện ư?” Bà hỏi. “Chắc hẳn cháu nhầm chúng ta với ai rồi, Will ạ. Ở đây không có thư viện. Trước kia cũng có một cái thư viện nhỏ, ta tin là trong đó có một số sách rất quý, nhưng nó đã bị cháy gần một thế kỷ rồi. Khu vực đó của ngôi nhà đã bị sét đánh. Nghe nói thiệt hại cũng đáng kể.”
“Ôi, thế ạ,” Will đáp lại có phần bối rối.
“Thôi, đây đâu phải chuyện để nói vào Giáng sinh,” bà Greythorne nói rồi vẫy tay xua bọn trẻ đi. Will liếc nhìn lại đúng lúc bà đang trao cho Robin nụ cười xã giao tươi tắn, và cậu tự hỏi xét cho cùng, không biết liệu hai cô Greythorne đó có phải chỉ là một người không.
Ông Merriman dẫn cậu và Paul đến một cửa hông, rồi họ xuyên qua một hành lang hẹp bốc mùi ẩm mốc kỳ lạ, đi vào một căn phòng sáng sủa và trần rất cao mà Will không nhận ra ngay. Chỉ đến khi nhìn thấy chiếc lò sưởi thì cậu mới hiểu mình đang ở đâu. Vẫn cái lòng lò sưởi rất to ấy, vẫn bề mặt lò sưởi rộng rãi với những ô gạch vuông và cái huy hiệu kiểu Tudor chạm trổ hình hoa hồng ấy. Nhưng xung quanh căn phòng không còn những tấm ván gỗ ốp nữa; thay vào đó tường được sơn trắng toát, điểm xuyết đây đó những bức tranh lớn vẽ cảnh biển lạ mắt màu xanh da trời và xanh nhợt. Nơi lúc trước Will đã đi qua để vào cái thư viện nhỏ ấy, giờ chẳng còn cánh cửa nào.
Ông Merriman mở một cái tủ cao, mặt trước lắp kính, dựng cạnh bức tường hông.
“Cha của bà Greythorne là một quý ông rất có năng khiếu âm nhạc,” ông Merriman nói bằng giọng điệu của người quản gia. “Và cả năng khiếu mỹ thuật nữa. Ông đã vẽ tất cả những bức tranh trên tường kia. Ở Tây Ấn, tôi tin vậy. Còn những cái này,” ông nhấc ra một nhạc cụ nhỏ xinh giống như một ống tiêu màu đen nạm bạc, “người ta nói thực ra ông không chơi. Ông chỉ thích ngắm chúng thôi.”
Ngay lập tức, Paul bị bộ sưu tập hút hồn, cậu săm soi từng cây sáo và ống tiêu cổ mà ông Merriman lấy từ trong tủ ra. Cả hai người đều cầm các đồ vật hết sức thận trọng, luôn cẩn thận cất cái trước rồi mới lấy cái sau. Will quay sang quan sát những ô ván ốp xung quanh lò sưởi, rồi bỗng giật nảy người khi nghe tiếng ông Merriman thầm gọi cậu. Cùng lúc đó, cậu có thể nghe được tiếng ông đang nói chuyện với Paul; thật là một sự phối hợp quái dị.
“Nhanh lên nào!” Tiếng nói vang lên trong đầu cậu. “Cậu biết phải tìm ở đâu rồi đấy. Nhanh lên, khỉ chúng ta đang có cơ hội. Đã đến lúc lấy Dấu Hiệu rồi!”
“Nhưng…” Will trả lời, cũng bằng ý nghĩ.
“Tiếp tục đi!” Ông Merriman lặng lẽ quát lên.
Will vội liếc lại phía sau. Cánh cửa họ vừa bước qua vẫn hé mở, nhưng chắc chắn nếu có bất kỳ ai đến gần hành lang nằm giữa phòng này và phòng bên cạnh thì cậu sẽ nghe tiếng. Cậu nhón chân đến gần lò sưởi, rướn người lên chạm tay vào những tâm ván ốp. Cậu nhắm mắt trong giây lát, khẩn cầu sự giúp đỡ từ tất cả những khả năng mới mẻ của mình và cả thế giới cổ xưa đã sinh ra chúng. Tấm ván ốp nào đây? Bông hồng nào đây? Cậu bối rối vì bốn bức tường ốp ván giờ không còn nữa; bệ lò sưởi dường như nhỏ hơn. Liệu Dấu Hiệu có biến mất không, có bị vùi trong những viên gạch xây của bức tường trắng toát phẳng lì kia không? Cậu ấn vào mọi bông hồng chạm trổ có thể nhìn thấy quanh góc trên cùng bên trái lò sưởi, nhưng chẳng có gì xoay chuyển dù chỉ một ly. Cuối cùng cậu phát hiện ra ở góc xa nhất còn một bông hồng bị lấp một phần dưới lớp vữa, nhô ra khỏi bức tường, rõ ràng đã được sửa chữa và thay đổi trong suốt hàng trăm năm qua - mười phút thôi, cậu nghĩ vu vơ - kể từ lần cuối cùng cậu nhìn thấy nó.
Will nhanh nhẹn vươn người lên, dùng hết sức ấn mạnh ngón trỏ vào chính giữa bông hồng được chạm trổ, như thể nó là một núm chuông. Vừa nghe thấy một tiếng tách rất khẽ thì cậu đã thấy mình đang nhìn chằm chằm vào một hốc tường hình vuông tối om ở đúng tầm mắt. Cậu thò tay vào và sờ thấy vòng Dấu Hiệu Gỗ, và khi cậu đang thở ra nhẹ nhõm, những ngón tay khép lại nắm lấy vòng tròn gỗ tron nhẵn, thì nghe thấy Paul bắt đầu thổi lên một trong những cây sáo cổ.
Paul chơi như thăm dò: đầu tiên là một hợp âm rải chậm rãi, sau đó là một nhịp điệu ngập ngừng; rồi cuối cùng, rất nhẹ nhàng và dịu dàng, Paul bắt đầu chơi bản “Greensleeves”[17]. Will sững người, không chỉ bởi âm điệu du dương của bản nhạc cổ mà còn vì chính âm thanh phát ra từ cây sáo. Mặc dù giai điệu khác hẳn nhưng đây đúng là khúc nhạc của cậu, niềm say mê của cậu, vẫn cùng là cái âm thanh kỳ bí xa xăm cậu luôn nghe thấy và rồi cũng luôn luôn để lỡ trong những khoảnh khắc trọng đại của đời mình. Bản chất của cây sáo mà anh trai cậu đang thổi là gì? Đó là một vật trong giới Cổ Nhân, một vật thuộc về pháp thuật của họ, hay chỉ đơn giản là một vật tương tự do con người tạo ra? Cậu rụt tay ra khỏi lỗ hổng trên tường, nó đóng lại ngay lập tức, trước cả khi cậu có thể nhấn vào bông hồng lần nữa, rồi vừa quay người, cậu vừa thả Dấu Hiệu Gỗ vào túi, mải mê lắng nghe đến nỗi không còn biết đến điều gì khác nữa.
Thế rồi cậu lạnh toát cả người.
Paul đang đứng thổi sáo bên cạnh chiếc tủ phía bên kia phòng. Ông Merriman quay lưng lại, tay đặt trên cánh cửa kính. Nhưng trong phòng giờ đây có thêm hai bóng người nữa. Ngay trên ngưỡng cửa ra vào là Maggie Barnes, ánh mắt ác độc đến rợn người không hướng về Will mà dán chặt vào Paul. Và ngay cạnh Will, rất gần, đúng nơi đã từng là cánh cửa dẫn vào phòng thư viện cũ, sừng sững cái bóng của tên Kỵ Sĩ Bóng Tối. Hắn chỉ cách Will một sải tay nhưng đứng bất động như thể hai chân đã bị tiếng nhạc kia trói chặt. Mắt hắn nhắm lại, môi khẽ mấp máy; hai tay giơ ra phía trước chỉ về phía Paul đầy đe dọa trong khi tiếng nhạc ngọt ngào huyền bí vẫn vang lên.
Will đã hành động một cách đúng đắn, nhờ bản năng có được qua những gì cậu vừa học từ Cuốn Sách Pháp Thuật Ngay lập tức cậu quăng một bức tường phản kháng bao quanh ông Merriman, Paul và cậu, khiến hai kẻ thuộc thế lực Bóng Tối lảo đảo lùi lại trước áp lực của nó. Nhưng cùng lúc đó cậu lại thét lên: “Ông Merriman!” Khi tiếng nhạc im bặt và cả ông Merriman lẫn Paul đều hốt hoảng quay lại, cậu mới nhận ra sai lầm của mình. Cậu đã không dùng cách gọi qua ý nghĩ của các Cổ Nhân. Cậu đã mắc một sai lầm vô cùng tệ hại khi gọi to thành tiếng.
Tên Kỵ Sĩ và Maggie Barnes biến mất ngay tức thì. Paul lo lắng sải bước qua căn phòng. “Có chuyện gì vậy, Will? Em bị đau à?”
Từ phía sau, ông Merriman nhẹ nhàng lên tiếng ngay, “Chắc là cậu ấy bị vấp,” và Will đủ thông minh để nhăn mặt, từ từ cúi người xuống như đang rất đau đớn, nắm chặt lấy một cánh tay.
Có tiếng bước chân vội vã, rồi Robin từ hành lang ào vào trong phòng, theo sát phía sau là Barbara. “Có chuyện gì thế? Bọn anh nghe thấy tiếng thét khủng khiếp chưa từng thấy…”
Cậu nhìn Will và bối rối khựng lại: “Em không sao chứ Will?”
“Vâng ạ,” Will đáp. “Em… ờ… vừa bị đập khuỷu tay. Em xin lỗi. Đau quá.”
“Nghe cứ như là có người định giết em cơ đấy,” Barbara nói giọng trách móc.
Will thô lỗ đánh trống lảng, những ngón tay trong túi gập vào để chắc chắn Dấu Hiệu thứ ba vẫn an toàn. “Được rồi, xin lỗi vì đã làm chị thất vọng,” cậu nói dỗi, “nhưng thật sự em không sao. Em bị đập khuỷu tay và kêu lên, chỉ có vậy thôi. Nếu chị sợ thì em xin lỗi vậy. Em chẳng thấy có gì khiến mọi người phải nhặng xị hết cả lên thế này.”
Robin trừng mắt nhìn cậu em. “Lần sau đừng hòng anh chạy đến bất kỳ đâu để cứu em nữa,” cậu khó chiu nói.
“Lại chuyện thằng bé nói dối và con sói[18],” Barbara nói.
“Ta nghĩ là,” ông Merriman nhẹ nhàng lên tiếng trong khi đóng cửa tủ và xoay chìa khóa, “tất cả chúng ta nên đi ra và hát tặng bà Greythorne thêm một bài nữa.” Quên bẵng mất ông chỉ là một quản gia không hơn không kém, bọn trẻ răm rắp nối đuôi nhau theo chân ông ra khỏi phòng. Will gọi với theo ông, lần này hoàn toàn không thốt thành tiếng, “Nhưng cháu phải nói với ông! Kỵ Sĩ đã ở đây! Cả cô gái ấy nữa!”
Ông Merriman đáp lại bằng ý nghĩ: “Ta biết. Để sau đi. Phải nhớ là bọn chúng có thể nghe được cách nói chuyện này đấy.” Rồi ông bước đi, để lại Will với nỗi giận dữ và lo lắng giằng xé.
Paul dừng lại ở ngưỡng cửa, nắm chặt vai Will rồi người nhìn thẳng vào mặt cậu em. “Em không sao thật chứ?”
“Thật mà. Em xin lỗi vì đã thét lên như vậy. Tiếng sáo đó nghe hết sảy thật.”
“Một thứ kỳ diệu.” Paul buông cậu ra, quay nhìn chiếc tủ đầy khao khát. “Thật đấy. Anh chưa bao giờ được nghe một âm thanh nào như vậy. Tất nhiên là cũng chưa từng được chơi một nhạc cụ nào như thế. Em không biết đâu, Will ạ, anh không thể nào diễn đạt được - cây sáo đó cổ lắm rồi, nhưng xem tình trạng của nó thì có lẽ gần như vẫn còn mới nguyên. Và âm thanh của nó…” Trong giọng nói của Paul thấm đượm một nỗi khát khao và trên khuôn mặt toát lên vẻ gì đó khiến Will trào lên nỗi cảm thông cổ xưa, sâu sắc. Bất chợt cậu hiểu ra rằng, Cổ Nhân cũng luôn phải chịu đựng niềm khao khát vô danh, vô hình tương tự đối với một điều gì đó nằm ngoài tầm với, như một phần vô tận của cuộc sống.
“Anh sẵn sàng đánh đổi bất kỳ thứ gì để một ngày nào đó có được cây sáo như vậy,” Paul nói.
“Gần như bất kỳ thứ gì,” Will nhẹ nhàng nói. Paul ngạc nhiên nhìn cậu chăm chăm, và người Cổ Nhân trong Will bỗng muộn màng nhận ra có lẽ đó không phải là cách trả lời của một cậu bé, vì thế, cậu toét miệng ra cười, tinh nghịch lè lưỡi trêu Paul rồi nhảy chân sáo dọc theo hành lang, trở về với những mối quan hệ bình thường trong thế giới bình thường kia.
Bọn trẻ hát “The first Nowell” làm bài hát mừng Giáng sinh cuối cùng, mọi người chào tạm biệt; mấy anh em lại bước trong màn tuyết và không khí khô lạnh, với nụ cười lịch sự, bình thản của ông Merriman biến mất sau cánh cửa Trang Viên. Will đứng trên bậc cầu thang rộng lớn bằng đá, chăm chú ngước nhìn những vì sao. Cuối cùng, bầu trời cũng đã quang mây, giờ đây những ngôi sao lấp lánh như những đốm lửa sáng trắng trong hố đen sâu thẳm của trời đêm, tạo thành vô vàn hình thù kỳ lạ trước kia từng là một bí ẩn không dễ gì hiểu được đối với cậu, nhưng nay lại đầy những ý nghĩa vô cùng vô tận. “Hãy nhìn xem tối nay chòm Thất Tinh sáng biết bao,” cậu khẽ nói, và Mary ngạc nhiên nhìn cậu chằm chằm, “Cái gì sáng?”
Vậy là Will hướng sự chú ý của mình ra khỏi thiên đường đêm rực rỡ ấy, và trong thế giới nhỏ bé được ánh nến vàng vọt dẫn đường của chúng, những ca sĩ trong đội hát thánh ca nhà Stanton nối bước về nhà. Will lặng lẽ đi giữa các anh chị em như trong cơn mộng du. Lũ trẻ tưởng đứa em út đã mệt rồi, nhưng thực ra cậu đang chìm trong nỗi băn khoăn. Bây giờ cậu đã có ba Dấu Hiệu Quyền Năng. Cậu cũng đã thu thập được những kiến thức để sử dụng Món Quà Pháp Thuật: những khám phá và tri thức đúc kết qua bao đời, tất cả được trao cho cậu chỉ trong một khoảnh khắc tạm ngưng của thời gian. Cậu không còn là cậu bé Will Stanton của mấy ngày trước nữa. Bây giờ và mãi mãi về sau, cậu đã biết rằng cậu là con người của thời đại khác, cách xa thời đại của những người mà cậu đã biết hay đã yêu… Nhưng cậu cố gắng xua những ý nghĩ đó ra khỏi đầu, thậm chí cố gắng xua đi cả hình ảnh ghê rợn của hai kẻ thuộc thế lực Bóng Tối đang xâm chiếm tâm trí cậu. Vì hôm nay là Giáng sinh, và với cậu cũng như với cả thế giới, đây là quãng thời gian dành cho những điều kỳ diệu. Đây là một ngày lễ rực rỡ, tươi vui và chừng nào thế giới này còn tràn ngập niềm say mê đó thì vòng tròn màu nhiệm ngôi nhà và gia đình cậu sẽ vẫn còn được bảo vệ trước bất kỳ sự xâm phạm nào từ bên ngoài.
Trong nhà, cây thông Noel đã sáng bừng rạng rỡ, không gian tràn ngập tiếng nhạc Giáng sinh. Mùi thức ăn thơm ngon tỏa ra từ căn bếp và từ lòng chiếc lò sưởi lớn đặt trong phòng khách, ánh lửa ấm áp bập bùng trên khúc rễ Noel to tướng vặn vẹo. Will nằm ngửa trên tấm thảm trải trước lò sưởi, dõi mắt theo luồng khói đang bốc lên ống khói và bỗng nhiên thấy buồn ngủ díp cả mắt. James và Mary cũng đang cố ngăn một cái ngáp, thậm chí Robin trông cũng đờ đẫn lắm rồi.
“Quá nhiều rượu pân đấy mà,” James nói khi thấy ông anh trai cao lớn duỗi người trên ghế ngáp một cái rõ to.
“Biến đi,” Robin đùa.
“Ai ăn bánh nhân thịt nào?” Bà Stanton bước vào với một cái khay to tướng trên có mấy cốc cacao.
“James đã ăn sáu cái rồi đấy ạ,” Mary nghiêm giọng chê trách, “Ở Trang Viên ấy.”
“Giờ sẽ là tám,” James nói, mỗi tay cầm một cái bánh. “Lêu lêu.”
“Em sẽ béo quay lên cho mà xem,” Robin nói.
“Thế vẫn còn hơn là béo sẵn rồi,” James lúng búng, miệng đầy bánh, chĩa ánh mắt thẳng vào Mary, vốn là người có mối bận tâm lớn nhất bây giờ là cái dáng thon thon hình vại. Miệng Mary méo xệch, rồi mím chặt lại và gầm gừ giận dữ đi thẳng đến chỗ cậu em.
“Hô hô hô,” Will đang nằm dưới sàn rên lên. “Trẻ ngoan không bao giờ đánh nhau trong đêm trước ngày Giáng sinh.” Vừa lúc Mary đang hùng hổ đi bến cạnh, cậu bèn tóm lấy mắt cá chân bà chị. Cô đổ sập xuống người cậu, cười rú lên vui vẻ.
“Cẩn thận lửa đấy,” bà Stanton nhắc, theo thói quen từ hàng chục năm nay.
“Ối, đau!” Will kêu lên khi bị chị gái đấm thùm thụp vào bụng và lăn người ra xa. Mary dừng lại, ngồi dậy nhìn chằm chặp vào cậu vẻ tò mò: “Em làm cái quái gì mà dùng lắm khóa thắt lưng thế?”
Will vội vàng kéo giật áo len xuống che thắt lưng nhưng đã quá muộn; tất cả đều đã thấy. Mary với tay kéo áo lên. “Trông ngộ nhỉ. Cái gì thế?”
“Trang trí thôi mà,” Will đáp cộc lốc. “Em tự làm trong giờ chế tạo tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại ở trường.”
“Anh có nhìn thấy em làm bao giờ đâu,” James lên tiếng.
“Anh có thèm để ý đâu.”
Mary chọc một ngón tay vào vòng tròn đầu tiên trên thắt lưng của Will, và thét lên rồi vội lăn ra. “Con bỏng mất rồi!” Cô kêu.
“Cũng phải thôi,” mẹ cô nói. “Will đeo thắt lưng nằm ngay cạnh lò sưởi. Và nếu hai đứa cứ lăn như vậy thì sẽ có ngày nằm ngay trên đống lửa đấy. Giờ thì tiếp tục nào. Cốc nước đêm trước ngày Giáng sinh, bánh nhân thịt đêm trước ngày Giáng sinh… chiếc giường đêm trước ngày Giáng sinh.”
Will sung sướng lồm cồm bò dậy. “Trong lúc chờ cacao nguội con đi lấy quà của con đây.”
“Con cũng thế.” Mary đi theo cậu em. Cô nói khi cả hai ở cầu thang: “Mấy cái khóa đẹp đấy nhỉ. Học kỳ sau làm cho chị một cái ghim cài áo Will nhé?”
“Em sẽ thử,” Will trả lời và cười thầm. Mọi sự tò mò của Mary chẳng bao giờ đáng lo vì cuối cùng thế nào chúng cũng dẫn đến một kết cục giống nhau.
Hai chị em chạy rầm rầm lên phòng mình rồi khệ nệ đi xuống với một đống những gói và bọc để chất thêm vào đống quà đang càng lúc càng cao dưới chân cây thông Noel. Suốt từ lúc cả bọn đi hát thánh ca về cho đến giờ, Will đã cố hết sức không nhìn vào đống quà đầy ma lực ấy, nhưng điều đó quả là khó khăn, đặc biệt sau khi cậu thấy một chiếc hộp khổng lồ có dán một cái tên rõ ràng bắt đầu bằng chữ cái W. Xét cho cùng, còn ai vào đây có tên bắt đầu bằng chữ W nữa cơ chứ…? Cậu buộc mình phải phớt lờ chiếc hộp đi, và kiên quyết đặt chồng quà trên tay xuống cạnh cây thông.
“Em đang xem trước đấy à, James!” Mary thét lên the thé sau lưng cậu.
“Đâu có,” James nói. Nhưng vì đang là đêm trước ngày Giáng sinh nên cậu chữa lại: “Thôi được rồi, vâng, chắc thế. Em xin lỗi.” Mary ngạc nhiên đến nỗi im lặng đặt hết đống quà xuống, không nghĩ ra được điều gì để nói.
Đêm Noel nào Will cũng ngủ cùng James. Hai chiếc giường đôi vẫn được đặt trong phòng James trước cả khi Will chuyển lên căn phòng áp mái của anh Stephen. Giờ đây điều khác biệt duy nhất là James đã đặt một đống đệm in hình nhằng nhịt lên giường cũ của