Ngày Giáng Sinh
Khi Will quỳ xuống cạnh cây thông Noel, xé lớp giấy sặc sỡ bọc chiếc hộp to tướng đề chữ “Will”, điều đầu tiên cậu phát hiện ra là nó hoàn toàn không phải hộp mà là một cái thùng gỗ. Tiếng hát mừng Giáng sinh của dàn hợp xướng nhà thờ vọng ra xa xăm và rộn rã từ chiếc đài trong bếp; đây là lúc cả nhà sum họp sau-tất-Noel, trước-bữa-sáng, khi mỗi thành viên trong gia đình chỉ mở một trong số những “món quà trên cây” của mình. Những cái hộp còn lại trong chồng quà sặc sỡ ấy sẽ nằm nguyên đó đến sau bữa tối, khiêu khích và rạng rỡ.
Vì là thành viên nhỏ nhất trong nhà nên Will được mở quà đầu tiên. Cậu đã bước thẳng tới chiếc hộp này một phần vì nó to khủng khiếp và một phần vì cậu ngờ rằng đó là quà của anh Stephen. Cậu nhận ra có ai đó đã nhổ hết đinh đóng trên nắp, vì vậy cậu có thể dễ dàng mở chiếc hộp.
“Anh Robin đã nhổ đinh còn chị và chị Bar bọc giấy,” Mary háo hức lên tiếng ngay trên vai cậu “Nhưng bọn chị chưa nhìn vào trong đâu. Tiếp tục đi, Will, tiếp tục đi.”
Cậu bỏ chiếc nắp ra. “Nó toàn lá khô! Lá sậy hay cái gì đó.”
“Lá cọ đấy,” bố cậu nhìn vào và nói. “Bố đoán là để lót đồ bên trong, cẩn thận ngón tay nhé, có thể chúng có cạnh sắc đấy.”
Will gạt đám lá hình răng cưa cho đến khi một vật cứng nào đó bắt đầu ló ra. Nó có hình cong cong rất lạ, mảnh, màu nâu, nhẵn thín, như một nhánh cây; có vẻ như được làm bằng một loại giấy bồi cứng. Đó là một cái gạc, vừa giống lại vừa không giống gạc hươu. Will đột nhiên sững lại. Một cảm giác mạnh mẽ và hoàn toàn bất ngờ trào lên khi cậu chạm vào cái gạc. Đó là cảm giác cậu chưa từng có khi ở cùng gia đình; đó là sự pha trộn giữa niềm phấn khích, cảm giác an toàn và niềm vui sướng tràn ngập trong cậu mỗi khi cậu ở bên các Cổ Nhân.
Cậu nhìn thấy một chiếc phong bì thò ra ngoài đống lá cạnh chiếc gạc và mở ra xem. Phần trên của bức thư in ngay ngắn tên con tàu của Stephen.
Will yêu quý,
Chúc mừng sinh nhật. Chúc mừng Giáng sinh. Anh đã luôn thề sẽ không bao giờ gộp hai lời chúc đó lại, đúng không? Thế mà bây giờ anh lại đang làm thế đây. Hãy để anh nói cho em biết lý do. Anh không biết liệu em có hiểu không, nhất là sau khi em nhìn thấy món quà này. Nhưng có lẽ em sẽ hiểu. Em luôn khác với mọi người mà. Anh không định nói là em dở hơi đâu! Chỉ khác biệt thôi.
Chuyện là thế này. Một hôm anh đã tham dự lễ hội hóa trang tại vùng cổ kính nhất của Kingston. Lễ hội hóa trang ở vùng đảo này là một quãng thời gian hết sức đặc biệt - vô cùng thú vị, với hàng đoàn dài người hóa trang đi giật lùi. Dù sao thì anh cũng đã bị cuốn vào một đám rước, mọi người cười nói râm ran, những nhạc cụ bằng thép khua rộn ràng, những vũ công ăn mặc hoang dã; và anh đã gặp một ông già.
Đó là một ông cụ cực kỳ ấn tượng, da đen thui, tóc bạc trắng, và chẳng biết ông ấy từ đâu xuất hiện, nắm lấy tay anh lôi ra khỏi đám đông đang nhảy múa. Anh dám chắc mình chưa bao giờ gặp ông ấy. Nhưng ông ấy nhìn anh nói: “Cậu là Stephen Stanton, thuộc Hải quân Hoàng Gia. Ta có một thứ cho cậu. Không phải cho bản thân cậu mà cho em út của cậu, đứa con trai thứ bảy. Cậu hãy gửi cái này cho em cậu như một món quà nhân dịp sinh nhật năm nay và nhân Giáng sinh luôn. Đây sẽ là món quà của cậu, của một người anh trai và nó sẽ biết phải làm những gì thích đáng với món quà đó, dù cậu thì không.”
Sự việc xảy ra quá đỗi bất ngờ làm anh sững cả người. Tất cả những gì anh có thể nói là: “Nhưng ông là ai? Làm sao ông biết tôi?” Và ông già đó lại nhìn anh bằng đôi mắt đen sâu thẳm, cứ như thể nhìn thấu được cả tương lai của anh, và nói: “Ta biết cậu dù cậu ở bất cứ nơi đâu. Cậu là anh của Will Stanton. Những cổ nhân chúng ta có một vẻ rất đặc biệt. Người thân của chúng ta cũng có đôi chút cái vẻ đặc biệt ấy.”
Đầu đuôi câu chuyện là thế đấy Will ạ. Ông ấy không nói thêm một lời nào nữa. Anh biết câu cuối có vẻ vô nghĩa, nhưng đó chính là những gì ông ấy nói. Rồi ông ấy đi vào giữa đám rước, và khi trở ra ông ấy mang theo - chính xác là đội theo - cái mà em sẽ thấy trong hộp quà này.
Vì vậy anh gửi nó cho em. Đúng như những gì ông ấy dặn. Chuyện này có vẻ điên rồ và anh có thể nghĩ ra được rất nhiều món quà em thích. Nhưng em thấy đấy, anh đã gửi nó cho em. Có cái gì đó hết sức đặc biệt ở ông già ấy và không hiểu vì sao anh thấy mình cần phải làm theo những gì ông ấy nói.
Hy vọng em sẽ thích món quà điên rồ này, anh bạn nhỏ. Cả hai ngày đó anh sẽ luôn nghĩ về em.
Thân yêu,
Anh Stephen.
Will chậm chạp gấp lá thư lại và nhét vào trong phong bì. “Những cổ nhân chúng ta có một vẻ rất đặc biệt…” Như vậy là vòng tròn trải rộng khắp thế giới. Nhưng tất nhiên nó phải như vậy, nếu không thì vòng tròn sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Will rất vui vì anh Stephen cũng tham dự chuyện này; điều đó có vẻ hợp lý, mặc dù cậu không hiểu tại sao.
“Ôi, đi nào, Will!” Mary háo hức nhảy lên, chiếc áo choàng mặc trong nhà bay phấp phới. “Mở đi, mở đi!”
Will chợt nhận ra rằng cả nhà, với ý thức phải giữ truyền thống, đang đứng bất động từ nãy đến giờ, kiên nhẫn chờ suốt năm phút liền khi cậu đọc thư của anh Stephen. Dùng nắp chiếc thùng làm khay đựng, cậu vội vã kéo hết những chiếc lá cọ ra, cho đến khi vật đựng bên trong hộp lộ rõ ràng. Cậu lôi vật đó ra, hơi loạng choạng vì sức nặng của nó, và tất cả đều há hốc miệng.
Đó là một cái đầu hóa trang khổng lồ, rực rỡ và kỳ quái. Nó được sơn màu nguyên sắc sặc sỡ, đường nét táo bạo và có thể nhận ra một cách dễ dàng, toàn bộ được làm từ cùng một loại chất mịn và nhẹ, giống như giấy bồi hay một loại gỗ mềm nào đó. Và nó không phải đầu người. Will chưa bao giờ thấy thứ gì tương tự. Chiếc đầu với những nhánh sừng tỏa ra trông giống như đầu hươu, nhưng đôi tai cạnh sừng lại là tai của loài chó hay loài sói. Còn khuôn mặt phía dưới nhánh sừng là mặt người - nhưng lại có đôi mắt viền lông xung quanh của loài chim. Trên khuôn mặt ấy có chiếc mũi to, thẳng và cái miệng kiên quyết hơi mỉm cười của con người. Ngoài ra chẳng thể tìm thấy được điểm gì giống người nữa. Chiếc cằm cũng có râu đấy nhưng hình dạng bộ râu này lại khiến người ta nghĩ ngay đến cằm của một con dê hay con hươu chứ không phải của một con người. Có lẽ khuôn mặt trông khá dữ tợn; khi mọi người há hốc miệng ra thì Mary đã buột thốt lên một tiếng kêu nhỏ mà ngay sau đó cô vội nén lại. Nhưng Will thấy tác động của khuôn mặt ấy còn tùy thuộc vào người ngắm nó. Vẻ bề ngoài chẳng là gì cả. Nó không xấu, cũng chẳng đẹp, không dữ tợn cũng chẳng buồn cười. Nó là một thứ được làm ra để khơi gợi những phản ứng sâu xa từ tâm trí. Rõ ràng đó là vật của những Cổ Nhân.
“Ôi chao!” Bố cậu thốt lên.
“Quà gì mà kỳ cục thế,” James bảo. Mẹ cậu không nói gì.
Mary không nói gì, nhưng hơi nhích ra xa.
“Nó làm anh nhớ tới ai đó quen quen,” Robin vừa nói vừa nhe răng cười.
Paul không nói gì.
Gwen không nói gì.
Max khẽ lên tiếng: “Nhìn đôi mắt kìa!”
Barbara hỏi: “Nhưng nó là để làm gì?”
Will lần ngón tay trên khuôn mặt to đùng kỳ lạ ấy. Chỉ trong giây lát, cậu đã thấy cái cậu đang tìm; nó gần như không thể nhìn thấy được trừ phi bạn đã biết trước, được khắc trên trán giữa hai chiếc sừng. Dấu của một hình tròn được hình chữ thập chia làm bốn phần.
Cậu nói: “Đây là chiếc đầu hóa trang của người Tây Ấn. Nó cổ lắm rồi. Nó rất đặc biệt. Anh Stephen đã tìm thấy nó ở Jamaica.”
Lúc này James đang đứng ngay cạnh Will, chăm chú nhìn vào trong chiếc đầu.
“Có một mớ dây để đặt lên vai đây này. Và một khe hở ở miệng, chắc là để nhìn ra ngoài. Đi nào Will, thử đội nó xem nào.”
James nhấc chiếc đầu lên từ phía sau để đội cho Will. Nhưng Will đẩy ra, bởi một phần nào đó trong tâm trí cậu đang vang lên những tiếng thì thầm cảnh báo. “Không phải lúc này,” cậu nói. “Mọi người mở quà đi chứ.”
Vậy là Mary quên phắt chiếc đầu hóa trang cùng phản ứng của mình, khi cô chợt sung sướng nhận ra đã đến lượt mình được mở quà Giáng sinh. Cô sà xuống đống quà cạnh cây thông, và những khám phá thú vị lại bắt đầu.
Mỗi người một món quà; phần mở quà đã gần xong và đã sắp đến lúc ăn sáng thì bỗng có tiếng gõ cửa. Bà Stanton đang định với tay lấy món quà của mình; bà buông tay xuống và ngây người ngước nhìn.
“Ai có thể oái oăm đến vào đúng giờ này cơ chứ?”
Cả nhà hết quay sang nhìn nhau rồi lại hướng ra phía cánh cửa, cứ như nó biết nói vậy. Thật không bình thường chút nào, chẳng khác gì một bản nhạc đang ngân nửa chừng thì giai điệu đột ngột thay đổi, Ngày Giáng sinh, không ai lại đến nhà người khác vào giờ này, đó không phải phong tục nơi đây.
“Không biết liệu có phải…” Ông Stanton lên tiếng, giọng thoáng chút ngờ ngợ; rồi ông kiên quyết xỏ chân vào đôi dép đi trong nhà, ra mở cửa.
Mọi người nghe thấy tiếng cửa mở. Ông Stanton đứng chắn giữa cửa nên chẳng ai thấy được mặt người khách, nhưng giọng ông vang lên đầy phấn khích. “Ôi, ông bạn thân mến, thật quý hóa quá… mời vào, mời vào…” Và khi trở lại phòng khách, trên tay ông đã xuất hiện một gói quà nhỏ mà lúc trước chưa hề có, rõ ràng đó là quà của người khách cao lớn hiện ra lù lù trước cửa và đang bước theo ông vào nhà. Ông Stanton, khuôn mặt tươi cười rạng rỡ, luôn miệng giới thiệu: “Alice, em yêu, đây là anh Mitothin… thật là tốt bụng quá, đi cả chặng đường trong buổi sáng Giáng sinh hôm nay chỉ để mang đến… đáng lẽ không cần phải… anh Mitothin, con trai tôi Max, con gái tôi Gwen… James, Barbara…”
Will lắng nghe nhưng không hề để ý đến phép lịch sự xã giao của người lớn; chính giọng nói của người khách lạ làm cậu phải ngước lên. Có cái gì đó quen quen trong giọng nói trầm hơi có âm mũi và một thoáng lơ lớ, cẩn thận nhắc lại từng cái tên: “Dạo này bà có khỏe không, bà Stanton… chúc Giáng sinh vui vẻ, Max, Gwen…” Rồi Will nhìn thấy đường nét khuôn mặt, thấy bộ tóc dài màu nâu đỏ, và cậu lạnh toát cả người.
Đó chính là tên Kỵ Sĩ. Ông Mitothin này, người bạn từ-trên-trời-rơi-xuống của bố cậu, chính là tên Kỵ Sĩ Bóng Tối, đến từ đâu đó ngoài Thời Gian.
Will chộp lấy thứ gần tay cậu nhất, một mảnh vải sáng màu anh Stephen gửi từ Jamaica về tặng chị Barbara, và nhanh chóng trùm lên che chiếc đầu hóa trang. Khi quay đầu lại, cậu thấy tên Kỵ Sĩ đang vươn cổ lên nhìn sâu vào trong căn phòng, và đã trông thấy cậu. Hắn nhìn cậu chằm chằm đầy thách thức, mỉm cười đắc thắng. Ông Stanton vẫy tay ra hiệu: “Will, lại đây một lát… con trai út của tôi, anh…”
Lập tức, Will biến thành một Cổ Nhân giận dữ, giận dữ đến mức cậu không kịp dừng lại để cân nhắc xem mình nên làm gì. Cậu có thể cảm nhận được từng thớ thịt đang rung lên, như thể trong cơn giận dữ ấy, cậu đã cao lớn lên gấp ba lần. Will xòe rộng bàn tay phải, ngón tay duỗi thẳng cương quyết chỉ về phía mọi thành viên trong gia đình, và ngay lập tức cậu thấy mọi người bất động, thời gian đối với họ đã dừng lại. Tựa như những bức tượng bằng sáp, họ đứng đó cứng đờ, không hề nhúc nhích.
“Sao ngươi dám đến đây!” Cậu quát vào mặt tên Kỵ Sĩ. Cả hai đứng đối diện với nhau từ hai đầu căn phòng, hai thực thể duy nhất còn sống và chuyển động: không có bất kỳ cử động nào của con người, những chiếc kim đồng hồ trên bệ lò sưởi cũng không chạy; và mặc dù lửa vẫn bập bùng, chúng cũng không đốt cháy những khúc củi nữa.
“Sao ngươi dám! Vào Giáng sinh, vào buổi sáng Giáng sinh! Cút đi!” Đó là lần đầu tiên trong đời cậu cảm thấy giận dữ đến vậy, điều đó thật chẳng dễ chịu chút nào, nhưng cậu đã phát điên vì thế lực Bóng Tối dám làm gián đoạn nghi lễ gia đình quý báu nhất của cậu.
Tên Kỵ Sĩ nhỏ nhẹ: “Hãy tự kiềm chế bản thân đi.” Khi dùng Cổ Ngữ, cái giọng lơ lớ của hắn đột nhiên trở nên rõ ràng hơn rất nhiều. Hắn nhìn Will mỉm cười, đôi mắt xanh lạnh lùng không hề thay đổi. “Ta có thể bước qua ngưỡng cửa nhà cậu, anh bạn ạ, và đi qua cái cây nhựa ruồi trĩu quả này, vì ta đã được mời. Chính bố cậu đã có thiện chí mời ta vào nhà. Ông ấy là chủ ngôi nhà này và vì thế cậu sẽ chẳng thể làm gì được cả.”
“Có đấy,” Will đáp. Nhìn thẳng vào nụ cười đầy tự tin của tên Kỵ Sĩ, cậu cố gắng tập trung toàn bộ sức mạnh để có thể nhìn thấu tâm can hắn, xem hắn định làm gì ở đây. Nhưng cậu nhanh chóng vấp phải một bức tường đen thù địch, không thể phá nổi. Will cảm thấy bất lực, và cậu run lên. Cậu tức giận lục lọi trong trí nhớ tìm những câu thần chú hủy diệt như phương sách cuối cùng - thật sự là phương sách cuối cùng - mà một Cổ Nhân có thể dùng để phá vỡ ma lực của Bóng Tối. Và tên Kỵ Sĩ cười phá lên.
“Ồ không, Will Stanton,” hắn nói rành mạch. “Cái đó không ích gì đâu. Cậu không thể dùng những thứ vũ khí kiểu đó ở đây được, trừ phi cậu muốn đẩy cả gia đình mình ra khỏi Thời Gian.” Hắn liếc nhìn Mary đang đứng bất động bên cạnh, miệng hé mở, cô đã bị lôi ra khỏi cuộc sống khi đang nói gì đó với ông bố.
“Nếu thế thì thật đáng tiếc,” tên Kỵ Sĩ nói. Rồi hắn quay lại nhìn Will, nụ cười biến khỏi khuôn mặt như thể hắn đã nhổ nó đi, và đôi mắt nheo lại. “Thằng nhãi ranh ngu ngốc, mi nghĩ mi có thể chế ngự được ta nhờ tất cả những Món Quà Pháp Thuật của mi ư? Hãy biết rõ thân phận của mình đi. Mi vẫn chưa phải pháp sư. Mi có thể xoay xở hết sức mình, nhưng quyền lực tối cao thì còn lâu mi mới làm chủ được. Cũng như còn lâu mi mới làm chủ được ta.”
“Ngươi sợ những đấng bề trên của ta,” Will ngay lập tức bật lại, dù không hoàn toàn hiểu mình định nói gì, nhưng cậu biết đó là sự thật.
Khuôn mặt tái nhợt của tên Kỵ Sĩ đỏ bừng lên. Hắn nhỏ nhẹ nói: “Bóng Tối đang trỗi dậy, tên Cổ Nhân kia, và lần này chúng ta sẽ không để cho bất cứ điều gì cản trở nó. Đã đến lúc chúng ta trỗi dậy và chỉ trong vòng mười hai tháng nữa thôi các người sẽ thấy sự thống trị hoàn toàn của chúng ta. Hãy nói cho những kẻ bề trên của mi biết điều đó. Hãy nói với chúng rằng, không gì có thể cản trở được chúng ta. Hãy nói với chúng, chúng ta sẽ chiếm đoạt tất cả những Pháp Vật mà chúng hy vọng được sở hữu, chén Thánh, đàn hạc và cả những Dấu Hiệu. Chúng ta sẽ phá tan Vòng Tròn của các người trước khi các người có thể hợp nhất nó. Không gì có thể ngăn cản sự trỗi dậy của Bóng Tối!”
Những lời cuối cùng được rít lên đắc thắng khiến Will rùng mình. Tên Kỵ Sĩ quắc mắt nhìn Will, đôi mắt nhờn nhợt của hắn long lên; rồi, hắn khinh khỉnh khoát tay về phía gia đình Stanton, và ngay lập tức sự sống quay trở lại với họ và không khí Giáng sinh náo nhiệt cũng vậy, và Will chẳng thể làm gì được nữa.
“…cái hộp ấy là để cho ai đấy ạ?” Mary hỏi.
“…anh Mitothin, đây là Will, con trai chúng tôi.” Ông Stanton đặt tay lên vai Will.
Will lạnh lùng nói: “Chào ông.”
“Chúc cháu một mùa Giáng sinh vui vẻ, Will” tên Kỵ Sĩ đáp lại.
“Chúc ông những điều tương tự ông chúc cháu,” Will nói.
“Rất hợp lý,” tên Kỵ Sĩ nói.
“Rất lẻo mép thì có,” Mary hất đầu. ‘Thỉnh thoảng nó vẫn vậy đấy. Bố ơi, cái hộp kia là cho ai vậy, cái hộp chú ấy mang đến ấy?”
“Chú Mitothin, không phải ‘chú ấy’,” ông bố máy móc nhắc.
“Đó là một bất ngờ dành cho mẹ cháu,” tên Kỵ Sĩ đáp. “Một thứ chưa kịp hoàn tất vào tối qua để bố cháu mang về nhà.”
“Quà của chú à?”
“Mẹ nghĩ là của bố con,” bà Stanton vừa nói vừa mỉm cười với chồng. Bà quay sang phía tên Kỵ Sĩ. “Anh sẽ dùng bữa sáng cùng với gia đình chúng tôi chứ, anh Mitothin?”
“Không được,” Will chen vào.
“Will!”
“Cháu nó biết tôi đang bận đấy,” tên Kỵ Sĩ nói rất tự nhiên. “Cảm ơn bà, bà Stanton, nhưng tôi đang trên đường tới gặp mấy người bạn, và tôi phải đi thôi.”
Mary hỏi: “Chú định đi đâu vậy?”
“Phía Bắc vùng này… Cháu có mái tóc dài thật đấy, Mary. Đẹp lắm.”
“Cảm ơn chú,” Mary đáp lại đầy tự mãn, hất mái tóc dài mượt ra sau vai. Tên Kỵ Sĩ nhẹ nhàng đưa tay nhặt một sợi tóc vương trên tay áo cô. “Cho phép chú nhé,” hắn lịch sự nói.
“Nó thì lúc nào chẳng khoe mái tóc của mình,” James bình thản nói. Mary thè lưỡi ra với cậu.
Tên Kỵ Sĩ lại nhìn về cuối căn phòng. “Cây thông tuyệt quá. Có phải thông vùng này không?”
“Đó là cây thông Hoàng Gia,” James đáp. “Lấy từ Đại Công Viên đấy ạ.”
“Chú qua đây mà ngắm này!” Mary nắm tay tên Kỵ Sĩ kéo đi. Will cắn môi, thận trọng xóa sạch mọi ý nghĩ về cái đầu hóa trang bằng cách hết sức tập trung nghĩ xem mình sẽ được ăn gì trong bữa sáng. Cậu dám chắc tên Kỵ Sĩ có thể đọc được những suy nghĩ trên bề mặt tâm trí cậu nhưng có lẽ hắn không thể đoán biết những điều được vùi sâu hơn.
Nhưng không có gì nguy hiểm. Mặc dù chiếc hộp rỗng to đùng và đống lá đệm ngoại lai nằm ngay bên cạnh hắn nhưng tên Kỵ Sĩ, với cả gia đinh nhà Stanton vây quanh, chỉ ngoan ngoãn nhìn chăm chú và trầm trồ thán phục những món đồ trang hoàng trên cây thông Noel. Có vẻ như hắn đặc biệt ấn tượng trước những chữ khắc nhỏ xíu trong hộp quà của Trại chủ Dawson. “Đẹp tuyệt,” hắn thốt lên, lơ đễnh xoay xoay chữ cái M hình hai chiếc lá sinh đôi của Mary - Will mơ hồ nhận thay chữ cái ấy đã bị treo ngược.
Rồi hắn quay sang phía ông bà Stanton. “Quả thật tôi phải đi rồi, các bạn cũng phải ăn sáng đi thôi. Tôi thấy Will có vẻ đói lắm rồi.” Một ánh hiểm độc lóe lên khi Will và tên Kỵ Sĩ nhìn nhau, và Will biết cậu đã đúng khi đoán rằng Bóng Tối không thể nhìn thấu tất cả.
“Cảm ơn anh lắm lắm, Mitothin ạ,” ông Stanton nói.
“Ô có gì đâu, tôi tiện đường đi qua thôi mà. Chúc cả nhà Giáng sinh vui vẻ…” Sau hàng tràng chào tạm biệt, tên Kỵ Sĩ sải bước rời khỏi nhà. Will có phần nuối tiếc vì mẹ cậu đã sập cửa lại trước khi họ có cơ hội nghe thấy tiếng động cơ xe khởi động. Cậu không nghĩ tên Kỵ Sĩ đến đây bằng ôtô.
“Được rồi, em yêu,” ông Stanton trìu mến hôn vợ rồi đưa hộp quà cho bà. “Đây là món quà trên cây đầu tiên của em. Chúc Giáng sinh vui vẻ!”
“Ôi!” Mẹ chúng kêu lên khi mở chiếc hộp ra. “Ôi, anh Roger!”
Will len qua mấy bà chị đang trầm trồ để ngắm thử xem sao. Nằm trên lớp nhung trắng trong chiếc hộp đề tên cửa hàng của bố cậu là chiếc nhẫn kiểu cổ của mẹ cậu: chiếc nhẫn cách đây vài tuần cậu đã thấy bố kiểm tra xem mặt đá có bị lỏng không, chiếc nhẫn ông Merriman đã nhìn thấy trong bức tranh từ tâm trí Will. Nhưng bao quanh chiếc nhẫn có gì đó khác: một chiếc vòng tay được chế tạo như phần bổ sung cho chiếc nhẫn, hoàn toàn cân xứng với nó. Một chiếc vòng vàng chính giữa nạm ba viên kim cương, mỗi bên có ba viên hồng ngọc, chạm trổ xung quanh bằng những vòng tròn, đường thẳng, nét uốn lượn rất lạ. Will chầm chú nhìn, băn khoăn tự hỏi tại sao tên Kỵ Sĩ lại muốn cầm được nó. Chắc chắn đó chính là lý do ẩn sau chuyến viếng thăm sáng nay; không một tên Chúa Tể Bóng Tối nào lại bước chân vào một căn nhà đơn thuần chỉ để nhìn những thứ bên trong.
“Có phải bố làm không ạ?” Max trầm trồ. “Thật là một tác phẩm tuyệt vời.”
“Cảm ơn con,” ông Stanton đáp lại.
“Người vừa mang nó đến là ai vậy bố?” Gwen tò mò hỏi. “Có phải chú ấy cùng làm với bố không? Chú ấy có cái tên ngộ nhỉ.”
“Ồ, đó là một thương gia,” ông Stanton trả lời. “Chuyện buôn bán kim cương. Một người kỳ lạ nhưng rất dễ chịu. Bố nghĩ là bố biết chú ấy mấy năm nay rồi. Chúng ta đã mua rất nhiều đá quý từ người của chú ấy - gồm cả những viên này.” Ông nhẹ nhàng chạm một ngón tay vào chiếc vòng. “Hôm qua bố phải về từ sớm khi cậu Jeffrey vẫn còn đang gắn chặt lại một viên đá nạm - tình cờ lúc đó chú Mitothin có mặt ở cửa hàng và đã đề nghị mang nó qua nhà mình để bố khỏi phải quay lại. Chú ấy bảo dù gì thì sáng nay chú ấy cũng qua đây. Dù có như vậy thì chú ấy cũng thật tốt bụng, đâu cần phải ngỏ lời giúp như thế.”
“Đúng là rất tốt bụng,” bà Stanton nói. “Nhưng anh còn tuyệt vời hơn. Em thấy nó rất đẹp.”
“Ôi, con đói rồi,” James giục. “Khi nào chúng ta mới ăn ạ?”
Chỉ sau khi món thịt xông khói, trứng, bánh mì nướng, trà, mứt cam và mật ong đã được tiêu thụ sạch sành sanh và đống rác trong đợt mở quà đầu tiên đã được thu dọn gọn ghẽ, thì Will mới phát hiện ra bức thư anh Stephen gửi cho cậu đã biến mất. Cậu tìm quanh phòng khách, lục tung đồ dùng cá nhân của mọi người, chui xuống dưới cây thông Noel và bò quanh chồng quà vẫn chưa được mở đang nằm yên chờ đợi, nhưng không thấy lá thư đâu cả. Tất nhiên, nó có thể đã bị ai đó vô tỉnh ném đi vì tưởng nhầm là giấy gói; chuyện như thế đôi khi vẫn xảy ra vào dịp Giáng sinh nhộn nhịp của cả nhà.
Nhưng Will nghĩ cậu biết điều gì đã xảy ra với lá thư của mình. Cậu băn khoăn tự hỏi rốt cuộc thì tên Kỵ Sĩ Bóng Tối ấy đến nhà cậu để có cơ hội nghiên cứu tỉ mỉ chiếc nhẫn của mẹ hay vì hắn muốn tìm kiếm thứ gì khác.
•§•
Chẳng mấy chốc mọi người nhận ra tuyết lại đang rơi. Nhẹ nhàng mà liên miên, những bông tuyết lất phất rơi xuống, không một chút ngập ngừng. Dấu chân của Mitothin trên lối đi dẫn từ cửa đến chỗ để xe nhanh chóng bị phủ kín như thể chúng chưa từng xuất hiện ở đó. Raq và Ci, hai chú chó bị nhốt ở ngoài trước khi tuyết rơi, lại run rẩy đến cào vào cánh cửa sau.
“Thỉnh thoảng con cũng thích có một mùa Giáng sinh trắng,” Max nói, rầu rĩ nhìn ra ngoài, “nhưng như thế này thì thật là kỳ quặc.”
“Đúng là bất thường thật,” ông Stanton vừa nói vừa nhìn ra ngoài qua vai Max. “Cả đời bố chưa bao giờ thấy tuyết rơi như thế này vào dịp Giáng sinh. Nếu hôm nay tuyết rơi nhiều hơn thì giao thông của cả miền Nam nước Anh sẽ trì trệ hết mất.”
“Con cũng đang nghĩ đến chuyện ấy đấy ạ,” Max nói. “Con đã định ngày kia sẽ đến Southampton thăm Deb.”
“Ôi khổ tôi chưa, khổ tôi chưa,” James vừa kêu lên vừa ôm chặt lấy ngực.
Max nhìn cậu em.
“Chúc mừng Giáng sinh, anh Max,” James nói.
Paul bước vào phòng khách chân mang ủng, vừa đi vừa cài khuy áo choàng. “Dù tuyết rơi hay không, em cũng đi kéo chuông đây. Những chiếc chuông trên tháp kia chẳng đợi ai đâu. Sáng nay, ai trong số những kẻ ngoại đạo này sẽ đến nhà thờ đây?”
“Đôi chim sơn ca sẽ đi cùng,” Max nói, nhìn Will và James, chỉ hai đứa này đã bằng một phần ba dàn hợp xướng của nhà thờ. “Hai đứa sẽ đi chứ, phải không?”
“Nếu các em muốn làm một việc tốt trong dịp Giáng sinh,” Gwen nói khi đi ngang qua, “thì hãy làm một việc có ích nào đó như giúp mẹ gọt khoai tây chẳng hạn, rồi thì có lẽ mẹ cũng có thể đi được đấy. Mẹ luôn muốn đến nhà thờ mỗi khi có thể mà.”
Cuối cùng thì một nhóm nhỏ đóng bộ ấm áp cũng lên đường băng qua màn tuyết đang mỗi lúc một dày hơn, gồm có Paul, James, Will, bà Stanton và Mary, mà theo James nói thì có lẽ cô hăng hái đi nhà thờ chỉ để trốn việc nhà, nghe tuy hơi quá nhưng đúng như vậy thật. Họ nặng nhọc bước đi, giờ đây tuyết đã rơi dày hơn và bắt đầu quất vào mặt họ đau điếng. Paul vượt lên trước để nhập hội với những người kéo chuông khác, và không lâu sau âm thanh của sáu chiếc chuông cổ treo trên tòa tháp nhỏ hình vuông đã bắt đầu đổ xuống tràn ngập cái thế giới xám xịt đang quay cuồng quanh họ, làm nó lại sáng bừng lên không khí Giáng sinh rộn rã. Tâm trạng Will vui lên một chút khi nghe tiếng chuông ngân rộn rã, nhưng không nhiều lắm; sự dai dẳng nặng nề của đợt tuyết mới khiến cậu lo lắng. Cậu không thể xóa tan cảm giác nghi ngờ len lỏi trong đầu, rằng đây là điềm báo trước một điều gì đó khác, do Bóng Tối gây ra. Tay cậu thọc sâu vào túi chiếc áo vét da cừu, và ngón tay bất chợt nắm chặt một chiếc lông quạ, chiếc lông đã bị lãng quên từ buổi tối kinh hoàng trước ngày Đông Chí, trước sinh nhật cậu.
Bên ngoài nhà thờ, có tới bốn, năm chiếc xe đỗ trên con đường tuyết phủ; thường thì vào buổi sáng ngày Giáng sinh số lượng xe còn nhiều hơn, nhưng hầu như không người dân nào ở cách nhà thờ hơn một quãng đường đi bộ dám can đảm đối mặt với cơn xoáy lốc mù mịt trắng xóa này. Will quan sát những bông tuyết to tướng bướng bỉnh bám chặt không chịu tan trên tay áo cậu; trời lạnh cắt da cắt thịt. Thậm chí ngay cả trong ngôi nhà thờ bé nhỏ, những bông tuyết vẫn cứng đầu cứng cổ nằm nguyên đó, phải rất lâu sau mới tan. Will, James và những thành viên khác trong đội hợp xướng loay hoay chui vào bộ áo lễ thùng thình trên hành lang nhỏ hẹp của nhà thờ, và rồi, khi tiếng chuông ngân vang mở màn buổi lễ, họ lũ lượt tiến vào lối đi giữa hai hàng ghế, bước lên khoảng trống nhỏ dành cho dàn đồng ca ở cuối gian giữa nhỏ hình vuông của giáo đường. Đứng ở đó, có thể nhìn thấy tất cả mọi người, và rõ ràng Giáng sinh năm nay nhà thờ Thánh James Nhỏ không chật cứng người mà chỉ kín được một nửa.
Nghi lễ cầu kinh buổi sáng, theo luật của Giáo hội Anh và quy định của Nghị viện, vào năm thứ hai thuộc triều đại vua Edward VI, trang trọng hoàn thành mọi nghi thức Giáng sinh, dưới sự điều khiển của vị mục sư có chất giọng nam trung được phô trương một cách không e ngại.
“Hỡi Lạnh Lẽo và Sương Giá, cầu Chúa phù hộ, xin ngợi ca Người và tán dương Người mãi mãi,” Will vừa hát vừa nghĩ rằng Đức Cha Beaumont đã tỏ ra hài hước một cách đầy châm biếm khi chọn bài thánh ca này.
“Hỡi Tuyết và Băng, cầu Chúa phù hộ, xin ngợi ca Người và tán dương Người mãi mãi.”
Đột nhiên cậu rùng mình, không phải do lời bài hát, cũng không phải do lạnh. Đầu óc quay cuồng; cậu phải bám chặt vào bức thành ngăn chỗ cho dàn đồng ca đứng một lúc. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tiếng nhạc dường như đã biến thành những nốt nghịch âm chói tai kinh khủng. Rồi nó giảm dần và trở lại như trước, để lại trong Will cảm giác bàng hoàng, ớn lạnh.
“Hỡi Ánh Sáng và Bóng Tối,” James vừa hát vừa nhìn Will chằm chằm, em có sao không? Ngồi xuống đi - “và tán dương Người mãi mãi.”
Nhưng Will nôn nóng lắc đầu, và trong suốt phần còn lại của buổi lễ, cậu đứng, hát, ngồi, hay quỳ một cách vững vàng, tự nhủ không có vấn đề gì hết ngoài một cảm giác choáng váng mơ hồ, bắt nguồn từ cái mà anh chị cậu thường gọi là “kích động quá mức”. Nhưng sau đó, cái cảm giác lạ lùng rằng có gì đó bất thường và bất an lại kéo đến.
Cậu chỉ cảm thấy như vậy một lần nữa, vào đúng lúc buổi lễ sắp kết thúc. Mục sư Beaumont đang lớn tiếng cầu nguyện Thánh Chrysostom: “…người hứa rằng khi hai hay ba người tụ họp nhân danh người, thì người sẽ chấp thuận những thỉnh cầu của họ…” Những thanh âm hỗn loạn bất chợt gào lên trong đầu Will, một tiếng hú chói tai ghê rợn thay thế cho âm điệu quen thuộc của bản thánh ca. Cậu đã từng nghe thấy chúng. Đó chính là âm thanh của Bóng Tối khi chúng đang vây hãm, thứ âm thanh cậu đã nghe thấy bên ngoài Đại Sảnh của Trang Viên, nơi cậu đã ngồi cùng ông Merriman và Quý Bà, ở một thế kỷ nào đó cậu không rõ. Nhưng trong nhà thờ ư? Will, cậu bé trong dàn thánh ca Anh giáo, tự hỏi đầy nghi hoặc: không phải chắc chắn mày không thể cảm thấy nó bên trong một nhà thờ sao? À, Will Cổ Nhân buồn rầu trả lời, bất kỳ nhà thờ nào thuộc bất kỳ tôn giáo nào cũng có nguy cơ bị chúng tấn công, vì chính ở những nơi như thế này người ta vẫn thường nghĩ đến những vấn đề liên quan tới ánh sáng và bóng tối. Cậu rụt đầu so vai khi âm thanh đó đập vào người - nhưng rồi nó lại biến mất, và giọng vị mục sư lại đơn độc ngân lên như trước.
Will liếc vội xung quanh nhưng rõ ràng không ai nhận thấy điều gì bất thường. Qua những nếp gấp của chiếc áo thụng trắng, cậu nắm chặt ba Dấu Hiệu trên thắt lưng nhưng không hề thấy hơi ấm hay cái lạnh dưới tay mình. Theo khả năng cảnh báo của những Dấu Hiệu này, cậu đoán, nhà thờ là nơi thiêng liêng; vì không hiểm nguy nào có thể thực sự bước qua cửa nhà thờ nên chúng không cần phải cảnh báo gì hết. Nhưng những mối đe dọa ấy vẫn đang quanh quất ngay bên ngoài…
Bây giờ buổi lễ đã kết thúc, mọi người gào lên khúc “O Come, All Ye Faithful” với niềm hân hoan của ngày Giáng sinh, trong khi dàn đồng ca bước xuống rời khỏi chỗ biểu diễn và tiến đến bệ thờ. Rồi tiếng cầu nguyện của Cha Beaumont sang sảng trên đầu giáo đoàn: “…lòng kính Chúa và các đấng Thánh thần…” Nhưng những lời đó chẳng làm cho Will cảm thấy bình an, vì cậu biết rằng có gì đó không ổn, một điều gì đó đang lờ mờ hiện ra từ trong Bóng Tối, một điều gì đó đang chờ đợi ngoài kia, và đến lúc nào đó chính cậu sẽ phải đơn độc đối mặt với nó, không có gì trợ giúp.
Cậu quan sát mọi người và ra khỏi nhà thờ với vẻ mặt rạng rỡ, mỉm cười gật đầu chào nhau, tay nắm chắc ô và dựng cổ áo lên chống lại những bông tuyết rơi tới tấp. Cậu thấy ông Hutton vui vẻ, một ông giám đốc đã nghỉ hưu, đang xoay tít chiếc chìa khóa, lăng xăng quanh Miss Bell bé nhỏ, cô giáo cũ của cậu, nhiệt tình mời cô lên xe về nhà; còn sau ông là bà Hutton vui vẻ, một chiếc thuyền khổng lồ với cánh buồm bằng lông thú căng phồng, cũng đang đon đả mời bà Pettigrew yếu ớt, giám đốc bưu điện. Trẻ con trong làng đủ mọi lứa tuổi ào ra khỏi cửa, tuột khỏi vòng tay bao bọc của các bà mẹ diện những chiếc mũ đẹp nhất, nhào vào những quả cầu tuyết hay món gà tây Giáng sinh. Bà Horniman sầu thảm bước đến cạnh bà Stanton và Mary, luôn miệng đoán trước những tai họa sắp tới. Will thấy Mary, đang cố nín cười, quay sang nói chuyện với bà Dawson và cô con gái đã lập gia đình, đứa cháu trai năm tuổi của bà đang hoan hỉ vênh váo bước đi với đôi ủng cao bồi mới toanh bóng lộn.
Đội thánh ca, đã khoác áo và quàng khăn ấm, cũng bắt đầu ra về, hét váng lên với Cha Beaumont “Chúc Cha Giáng sinh vui vẻ!” và “Hẹn gặp lại Cha vào chủ nhật!” Hôm nay Cha chỉ chủ trì một buổi lễ duy nhất ở đây còn sau đó lại sang những giáo khu khác. Ngài mục sư đang nói chuyện âm nhạc với Paul, lơ đãng mỉm cười vẫy chào mọi người. Trong khi Will đứng đợi anh trai, nhà thờ dần trở nên vắng vẻ. Cậu có thể cảm thấy khắp cổ như bị kim châm, như thể vì điện tích đang nặng trĩu trong không khí trước trận bão lớn. Cậu có thể cảm thấy nó ở khắp nơi, không khí bên trong nhà thờ cũng bị tích điện. Vị mục sư vừa tán chuyện vừa lơ đãng với tay tắt điện trong nhà thờ, để nó chìm trong bóng tối lạnh lẽo xám xịt, chỉ có cạnh cửa ra vào là sáng hơn một chút do phản chiếu màu tuyết trắng. Và Will, khi nhìn thấy một vài bóng người từ trong bóng tối đi về phía cửa, mới phát hiện ra rằng trong nhà thờ vẫn còn người. Đứng đó, bên cạnh cái bình đựng nước thánh nhỏ từ thế kỷ mười hai, cậu nhìn thấy Trại chủ Dawson, cụ George và bác John thợ rèn con trai cụ, cùng người vợ ít nói của bác. Các Cổ Nhân của Vòng Tròn đang đợi cậu, sát cánh bên cậu chống lại bất kỳ thứ gì đang lẩn khuất ngoài kia. Trong chốc lát người Will như nhũn ra khi cảm giác nhẹ nhõm trào lên trong cậu như một làn sóng ấm áp.
“Xong chưa, Will?” Mục sư vừa khoác áo vừa ân cần hỏi. Ông lại tiếp tục chuyện trò sôi nổi với Paul: “Tất nhiên, ta đồng ý bản côngxectô kép đó là một trong những tác phẩm hay nhất. Ta chỉ ước gì anh ta ghi lại tổ khúc không có nhạc đệm của Bach. Ta đã có lần nghe anh ta chơi tổ khúc ấy ở một nhà thờ tại Edinburgh, vào dịp liên hoan âm nhạc quốc tế - tuyệt vời…”
Paul, vốn rất tinh mắt, liền hỏi: “Có chuyện gì à, Will?”
“Không ạ,” Will đáp. “Đó là… không ạ.” Cậu đang cố gắng một cách tuyệt vọng nghĩ ra cách nào đó khiến cả hai người ra khỏi nhà thờ trước khi cậu đến gần cánh cửa. Trước khi… trước khi điều gì có thể thật sự xảy ra. Qua cánh cửa ra vào của nhà thờ, cậu có thể thấy các Cổ Nhân đang chậm rãi đi sát vào nhau thành một nhóm, người nọ hỗ trợ cho người kia. Cậu có thể cảm thấy sức mạnh ấy giờ đây đã rất lớn, rất gần, bao bọc xung quanh, làm bầu không khí đặc quánh lại; bên ngoài nhà thờ là sự hủy diệt và hỗn loạn, là tâm điểm của Bóng Tối, và cậu không thể nghĩ ra cách gì để xua nó đi. Thế rồi, khi mục sư và Paul quay lại để đi qua gian giữa giáo đường, cậu thấy cả hai bỗng đứng sững lại, ngẩng đầu lên như những con hươu hoang dã khi đánh hơi thấy nguy hiểm. Nhưng đã quá muộn; âm thanh của Bóng Tối giờ đã lớn đến mức ngay cả người bình thường cũng cảm nhận được sức mạnh của nó.
Paul lảo đảo như bị ai đó đẩy vào ngực, và vội chộp lấy một chiếc ghế dài làm điểm tựa. “Chuyện gì vậy?” Cậu khàn giọng hỏi. “Thưa Cha? Chuyện quái quỷ gì thế ạ?”
Mặt Cha Beaumont trắng bệch. Mồ hôi long lanh trên trán cha mặc dù nhà thờ lúc này lại đã lạnh ngắt. “Không phải là thứ thuộc về thế gian này đâu con ạ, ta nghĩ thế, có lẽ là vậy,” Cha đáp. “Lạy Chúa xá tội cho con.” Cha loạng choạng bước thêm mấy bước về phía cửa ra vào, như một người đang phải chống chọi với sóng biển, rồi hơi ngả người về phía trước và đưa tay làm dấu thánh. Cha lẩm bẩm: “Xin Người hãy bảo vệ chúng con những tôi tớ hèn mọn của Người trước mọi sự tấn công của kẻ thù; chúng con, luôn tin tưởng vào sự bảo vệ của Người, sẽ không hề run sợ trước sức mạnh của bất kỳ kẻ thù nào…”
Đứng trong nhóm người bên cạnh cửa, Trại chủ Dawson khẽ kêu lên, rất khẽ nhưng rất rõ ràng: “Đừng, thưa Cha.”
Vị mục sư dường như không nghe thấy tiếng ông. Đôi mắt Cha mở to, nhìn chằm chằm ra ngoài trời tuyết; Cha đứng sững sờ, người run rẩy như đang lên cơn sốt, mồ hôi lăn xuống đôi gò má. Cha cố hết sức đưa tay lên được nửa chừng và chỉ về phía sau: “…phòng áo lễ…” cha hổn hển, “…kinh thánh, trên bàn… xua đuổi tà ma…”
“Ông bạn dũng cảm tội nghiệp,” bác John Smith nói bằng Cổ Ngữ. “Trận chiến này không dành cho ông ấy. Chắc hẳn ông ấy nghĩ mình phải có sứ mệnh đó, dĩ nhiên rồi, đây là nhà thờ của ông ấy mà.”
“Cha hãy bình tĩnh, thưa Cha,” vợ bác nói bằng tiếng Anh; giọng bà nhỏ nhẹ và dịu dàng, với âm sắc địa phương rất nặng. Vị mục sư nhìn bà chằm chằm như một con vật đang khiếp sợ, nhưng lúc này cha không tài nào có thể nói năng hay di chuyển được nữa.
Frank Dawson lên tiếng: “Lại đây, Will.”
Cố hết sức đẩy ngược Bóng Tối, Will từ từ bước tới; khi đi ngang qua Paul, cậu đặt tay lên vai anh trai, nhìn vào đôi mắt đầy hoang mang trên khuôn mặt cũng méo mó và bất lực hệt như của mục sư, rồi nói khẽ: “Đừng lo anh ạ. Chỉ lát nữa là mọi việc sẽ ổn thôi.”
Khi Will bước vào nhóm Cổ Nhân, từng người một trong số họ nhẹ nhàng chạm vào cậu như thể đang gắn kết cậu lại với họ, và Trại chủ Dawson túm vai cậu. Ông nói: “Chúng ta phải làm gì đó để bảo vệ hai người này, Will à, nếu không trí não họ sẽ bị khuất phục mất. Họ không thể chịu được áp lực này, thế lực Bóng Tối sẽ khiến họ mất trí thôi. Cháu là người có quyền năng mà tất cả chúng ta không có.”
Đây là lần đầu tiên Will được biết cậu có thể làm một điều mà các Cổ Nhân khác không làm được; nhưng không còn thời gian để băn khoăn nữa; với Món Quà Pháp Thuật, Will khép chặt trí não của anh trai và mục sư sau một hàng rào mà không quyền lực nào có thể phá vỡ. Đó là một hành động hết sức nguy hiểm, vì chỉ có cậu, người tạo ra hàng rào, mới có thể dỡ bỏ nó, và nếu có bất kỳ điều gì xảy ra với cậu thì cả hai con người đã được bảo vệ ấy sẽ bị bỏ lại như người thực vật, vĩnh viễn mất đi khả năng giao tiếp. Nhưng cậu phải chấp nhận rủi ro; không còn cách nào khác. Đôi mắt họ nhẹ nhàng khép lại như đang chìm vào giấc ngủ êm ái; cả hai vẫn đứng bất động. Một lát sau, mắt họ lại mở ra, nhưng bình thản, trống rỗng và vô thức.
“Ổn rồi,” Trại chủ Dawson nói. “Nào.”
Các Cổ Nhân khoác tay nhau đứng trên ngưỡng cửa nhà thờ. Không ai nói với ai một lời. Ngoài kia, những âm thanh hoang dại và những luồng không khí cuộn xoáy mỗi lúc một mạnh hơn; ánh sáng yếu dần, gió gào rú rít lên từng cơn, tuyết cuộn xoáy và quất vào mặt họ những mảng băng lạnh buốt. Và đột nhiên trong gió tuyết, hàng trăm con quạ hiện ra, tạo thành những cơn lốc đen dữ tợn, kêu gào, rền rĩ, bổ nhào xuống mái vòm nhà thờ, rít lên tấn công rồi lại vọt lên, bay đi mất. Chúng không thể tiến đến đủ gần để vồ hay cào xé; dường như có một bức tường vô hình đẩy chúng lộn nhào trở lại khi chúng chỉ còn cách mục tiêu trong gang tấc. Nhưng sự bảo vệ này chỉ có thể giữ vững chừng nào các Cổ Nhân còn duy trì được sức mạnh của mình. Trong cơn bão trắng đen dữ dội, Bóng Tối ùa đến tấn công cả linh hồn lẫn thể xác họ, và tập trung chủ yếu vào Will, Người Tìm Dấu Hiệu. Will biết rằng nếu cậu chỉ dựa vào sức mạnh ý chí của bản thân, kể cả với tất cả quyền năng bảo vệ được ban tặng kia, thì cuối cùng cũng sẽ bị ngã quỵ. Chính sức mạnh của Vòng Tròn Cổ Nhân đã khiến cậu trở nên mạnh mẽ như bây giờ.
Nhưng đây là lần thứ hai trong đời, cậu thấy ngay cả Vòng Tròn cũng không thể làm được gì hơn ngoài việc giữ cho ma lực Bóng Tối không tiến lại gần. Ngay cả khi liên kết lại với nhau, các Cổ Nhân cũng không thể đẩy lùi nó. Và lúc này thì không có mặt Quý Bà để mang đến một sức mạnh trợ giúp lớn hơn. Lại một lần nữa, Will bất lực nhận ra khi là Cổ Nhân, cậu phải trở thành một người rất già, già hơn tuổi thực của mình nhiều, vì nỗi sợ cậu bắt đầu cảm thấy lúc này còn tồi tệ hơn cả nỗi kinh hoàng mù quáng của cậu trên chiếc giường ở gác xép, tồi tệ hơn cả nỗi sợ mà thế lực Bóng Tối đã bắt cậu phải gánh chịu trong gian đại sảnh. Lần này, nỗi sợ hãi của cậu đã chín chắn hơn, được hình thành nên bởi sự trải nghiệm, trí tưởng tượng và mối quan tâm đến người khác, và đó chính là điều tồi tệ hơn tất cả. Ngay khi nhận thức được điều này, cậu cũng đồng thời nhận ra rằng chính cậu, Will, là người duy nhất có thể vượt qua nỗi sợ hãi ấy để từ đó Vòng Tròn được củng cố và Bóng Tối bị đẩy lùi. Ngươi là ai? cậu tự hỏi - rồi lại tự trả lời: Ngươi là Người Tìm Dấu Hiệu. Ngươi đã có ba Dấu Hiệu, một nửa vòng tròn Pháp Vật. Hãy sử dụng chúng.
Giờ đây mồ hôi vã ra trên trán Will cũng như đã từng ướt đẫm trán mục sư - tuy nhiên lúc này Cha và Paul đang đứng mỉm cười một cách bình thản, không hề ý thức được những gì đang diễn ra. Will có thể nhận thấy sự căng thẳng trên khuôn mặt những người còn lại, đặc biệt là Trại chủ Dawson. Cậu từ từ đưa tay vào phía trong, kéo hai bàn tay đang nắm tay cậu sát lại với nhau, tay trái của John Smith đến gần tay phải của Trại chủ Dawson hơn. Khi khoảng cách đã đủ gần, cậu nối tay họ lại, để mình đứng bên ngoài. Trong một khoảnh khắc hoảng hốt, cậu lại chộp lấy tay họ, như thể đang thắt một cái nút. Rồi cậu buông ra và đứng đó một mình.
Giờ đây không còn trong vòng bảo vệ của Vòng Tròn nữa, mặc dù vẫn được che chở phía sau nó, cậu lảo đảo trước tác động của ma lực dữ dội bên ngoài nhà thờ. Rồi, cậu kiên quyết tháo chiếc thắt lưng đeo ba báu vật nặng trĩu ra, quàng lên cánh tay, rút chiếc lông quạ ra khỏi túi và gài vào Dấu Hiệu ở giữa: vòng tròn đồng chia bốn. Sau đó, cậu cầm cả hai tay giơ chiếc thắt lưng ra phía trước, chậm chạp đi vòng quanh cho đến khi đứng lẻ loi trong vòm cổng nhà thờ, một mình đối mặt với màn đêm giá lạnh đầy tiếng gió gào rú và tiếng quạ rên xiết bên ngoài. Will chưa bao giờ cảm thấy đơn độc như lúc này. Cậu không làm gì, cậu không suy nghĩ gì. Cậu đứng ở đó, để mặc các Dấu Hiệu tự hoạt động.
Đột nhiên, không gian chìm vào im lặng.
Lũ chim đang vỗ cánh đã biến mất. Gió thôi gào thét. Tiếng rên rỉ ghê rợn, điên loạn lúc trước còn tràn ngập trong không gian và trong đầu óc Will cũng đã tan biến. Từng sợi thần kinh, từng thớ thịt trên người cậu rũ xuống khi cảm giác căng thẳng biến mất. Bên ngoài, tuyết vẫn lặng lẽ rơi, nhưng bông tuyết giờ đã nhỏ hơn. Các Cổ Nhân nhìn nhau cười to.
“Cả vòng tròn sẽ có sức mạnh vô song,” cụ George nói, “nhưng chỉ một nửa thôi cũng đã làm được rất nhiều rồi, đúng không Will?”
Will cúi nhìn những Dấu Hiệu trên tay và lắc đầu băn khoăn.
Trai chủ Dawson nhẹ nhàng lên tiếng: “Suốt cả đời mình, kể từ khi chén Thánh biến mất, đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một thứ nằm ngoài ý chí của một trong những con người vĩ đại ấy đã đẩy lùi Bóng Tối. Lần này là đồ vật. Chúng đã một mình chiến đấu, vì tất cả chúng ta. Chúng ta lại có Pháp Vật rồi. Đã từ rất lâu, lâu lắm rồi.”
Will vẫn đang chăm chú quan sát những Dấu Hiệu, nhìn chằm chằm như thể chúng đã hút chặt đôi mắt cậu nhằm một mục đích nào đó. “Đợi chút,” cậu lơ đãng nói. “Đừng cử động. Hãy đứng yên một lúc.”
Mọi người giật mình đứng sững lại. Người thợ rèn hỏi: “Có rắc rối à?”
“Hãy nhìn các Dấu Hiệu xem,” Will đáp. “Có điều gì đó đang xảy ra với chúng. Chúng… chúng đang rực sáng.”
Cậu từ từ xoay người, hai tay vẫn cầm chiếc thắt lưng cùng ba Dấu Hiệu như trước, cho đến khi người cậu đã chắn luồng ánh sáng xám từ phía cửa ra vào, còn hai tay đưa vào vùng tối phía trong nhà thờ; các Dấu Hiệu càng lúc càng sáng hơn, mỗi vòng tròn đều rực lên một thứ ánh sáng bí ẩn tỏa ra từ bên trong.
Các Cổ Nhân nhìn không chớp mắt.
“Có phải đây chính là sức mạnh đẩy lùi được Bóng Tối không?” Vợ John Smith cất giọng du dương êm ái. “Có phải đây là điều gì đó vốn ngủ quên trong những Dấu Hiệu này và bây giờ đang bắt đầu thức tỉnh chăng?”
Will đang cố gắng cảm nhận xem những Dấu Hiệu đang nói gì với cậu, nhưng vô ích. “Cháu nghĩ đó là một thông điệp, nó ám chỉ điều gì đó. Nhưng cháu không thể nào hiểu được…”
Ánh sáng tràn ra khỏi ba Dấu Hiệu, rực rỡ chiếu sáng một nửa ngôi nhà thờ bé nhỏ; đó là một thứ ánh sáng như ánh mặt trời, ấm áp và mạnh mẽ. Will căng thẳng chạm một ngón tay vào vòng tròn gần nhất, Dấu Hiệu Sắt, nhưng nó không nóng cũng chẳng lạnh.
Trại chủ Dawson bỗng kêu lên: “Nhìn kìa!”
Ông chỉ tay vào gian giữa giáo đường, phía bệ thờ. Tất cả mọi người lập tức quay lại, và trông thấy điều ông vừa thấy: một luồng sáng khác phát ra từ phía bức tường, giống hệt ánh sáng từ những Dấu Hiệu đang rực rỡ cạnh họ. Nó tỏa ra như chùm ánh sáng của một ngọn đuốc khổng lồ.
Và Will đã hiểu ra. Cậu sung sướng thốt lên:
“Vậy ra đó là lý do.”
Cậu bước lại gần dải sáng thứ hai, tay cầm dây thắt lưng có lồng các Dấu Hiệu làm cho những chiếc bóng đổ trên ghế và xà rầm cũng chuyển động theo. Hai luồng sáng càng sát lại gần nhau thì dường như càng trở nên rực rỡ hơn. Với cái bóng cao lớn, vạm vỡ của Frank Dawson sau lưng, Will dừng lại ở chính giữa luồng sáng phát ra từ bức tường. Dường như dải sáng ấy đang tỏa ra qua khe cửa sổ của một căn phòng nào đó phía bên kia bức tường, một căn phòng rực rỡ không thể tưởng tượng nổi. Will nhận ra luồng sáng phát ra từ một vật đang nằm nghiêng rất nhỏ, chỉ dài cỡ ngón tay cậu.
Cậu quả quyết nói với ông Dawson: “Cháu phải nhanh chóng lấy được vật này khi nó vẫn còn phát sáng. Nếu ánh sáng ấy tắt đi, sẽ không tài nào tìm thấy nó.” Cậu đặt chiếc thắt lưng mang Dấu Hiệu Sắt, Dấu Hiệu Đồng và Dấu Hiệu Gỗ vào tay Frank Dawson, rồi tiến về phía bức tường đang tỏa sáng, với tay về phía nguồn sáng nhỏ thần kỳ đó.
Vật phát sáng trong bức tường rơi xuống ngay từ một khe vữa, vốn đã nứt ra để lộ những viên đá lửa xây tường Chiltern. Nó nằm trong lòng bàn tay Will: một vòng tròn được chữ thập chia tư. Nó có hình dạng đó không phải do đẽo gọt. Bất chấp ánh sáng bên trong vật lạ, Will vẫn có thể nhìn thấy những cạnh cong nhẵn nhụi của nó, mách bảo với cậu rằng đây là một viên đá lửa tự nhiên, hình thành trong lớp đá phấn của đồi Chiltern từ mười lăm triệu năm trước.
“Dấu Hiệu Đá,” Trại chủ Dawson thốt lên. Giọng ông nhẹ nhàng và tôn kính, đôi mắt đen đầy bí ẩn. “Chúng ta đã có Dấu Hiệu thứ tư, Will ạ.”
Họ cùng trở lại chỗ những người khác, mang theo các Pháp Vật tỏa sáng. Ba Cổ Nhân yên lặng quan sát. Paul và vị linh mục giờ ngồi im lìm trên chiếc ghế dài, như đang chìm trong giấc ngủ. Will đứng cạnh các Cổ Nhân khác, lấy chiếc thắt lưng luồn Dấu Hiệu Đá sát ba Dấu Hiệu kia. Cậu phải nheo mắt lại để không bị lóa. Khi Dấu Hiệu thứ tư đã được đặt cạnh những cái còn lại, ánh sáng từ cả bốn đều vụt tắt. Chúng lại tối sẫm và lặng lẽ như trước, và Dấu Hiệu Đá hiện ra thật đẹp với bề mặt màu xám trắng, nhẵn bóng của một viên đá lửa nguyên sơ.
Chiếc lông quạ đen vẫn gài trên Dấu Hiệu Đồng. Will tháo nó ra. Lúc này cậu không cần đến nó nữa.
Khi ánh sáng từ các Dấu Hiệu đã tắt hoàn toàn, Paul và vị mục sư tỉnh dậy. Họ mở mắt, kinh ngạc nhận ra mình đang ngồi trên ghế trong khi chỉ ít phút trước - theo trí nhớ của họ - thì họ vẫn đang đứng. Theo bản năng, Paul giật nảy người, quay đầu tìm kiếm. “Nó biến mất rồi!” Cậu kêu lên. Cậu nhìn Will, và trên nét mặt toát lên sự pha trộn kỳ lạ giữa bối rối, ngạc nhiên và sợ hãi. Cậu đưa mắt xuống chiếc thắt lưng trên tay Will. “Chuyện gì vừa xảy ra thế?” Paul hỏi.
Vị mục sư đứng dậy, khuôn mặt tròn trịa, nhẵn nhụi của Cha nhăn lại, cố hiểu câu chuyện không thể hiểu nổi này. “Đúng là nó đã biến mất,” Cha vừa nói vừa chậm rãi nhìn quanh nhà thờ. “Cho dù đó là… thế lực gì đi nữa. Đội ơn Chúa.” Cha cũng nhìn những Dấu Hiệu trên thắt lưng Will, rồi liếc mắt lên và đột nhiên mỉm cười, một nụ cười gần như trẻ thơ, rạng rỡ và nhẹ nhõm, “Chính chúng đã cứu chúng ta, phải không? Cây thánh giá đó. Không phải cây thánh giá của nhà thờ nhưng dẫu sao cũng là cây thánh giá của Chúa.”
“Những chữ thập ấy rất cổ, thưa Cha,” cụ George bất ngờ lên tiếng, rành mạch và cả quyết. “Chúng có từ rất lâu rồi, trước cả thời kỳ Thiên chúa giáo. Rất lâu trước khi Chúa Giêsu ra đời.”
Mục sư rạng rỡ cười với cụ George. “Nhưng không thể trước Chúa Trời,” Cha nói đơn giản.
Các Cổ Nhân nhìn Cha. Không ai nói gì bởi họ hiểu bất cứ lời nào thốt ra cũng sẽ làm Cha phật ý. Chỉ trừ Will, sau đó một lúc.
“Thực ra cũng không có gì là trước hay sau, phải không ạ?” Cậu nói. “Tất cả những thứ có ý nghĩa đều nằm ngoài Thời Gian. Đến từ nơi đó và có thể đi tới đó.”
Cha Beaumont ngạc nhiên quay sang Will. “Chắc hẳn con muốn nói đến sự vô tận, con trai của ta.”
“Không hoàn toàn như thế,” vị Cổ Nhân trong Will nói. “Ý con là một phần trong tất cả chúng ta, một phần trong tất cả những gì chúng ta nghĩ và tin tưởng, không hề liên quan đến ngày hôm qua, hôm nay hay ngày mai, vì chúng thuộc về những lớp thời gian khác nhau. Ngày hôm qua vẫn ở đó, thuộc về lớp thời gian đó. Ngày mai cũng vậy. Chúng ta có thể ngược thời gian trở về ngày hôm qua hay đi đến ngày mai. Và mọi Đức Chúa đều ở đó, cùng với vạn vật muôn loài mà họ đại diện. Và,” cậu buồn bã nói thêm, “cả các thế lực đối lập nữa.”
“Này Will,” mục sư nhìn cậu chằm chằm, “ta không chắc là nên đuổi tà ma hay phong chức cho con. Nhưng chắc chắn ta và con sẽ sớm phải nói chuyện nhiều hơn đấy.”
“Vâng, thưa Cha,” Will trả lời hết sức điềm đạm. Cậu thắt chặt chiếc dây lưng nặng trịch những Pháp Vật quý báu. Vừa làm cậu vừa suy nghĩ rất lung nhưng cũng rất nhanh, và hình ảnh chủ yếu hiện lên trong tâm trí cậu không phải là những giả thuyết thần học mông lung của Cha Beaumont mà là khuôn mặt Paul. Cậu đã thấy người anh trai nhìn mình với con mắt xa lạ đến khủng khiếp, ánh mắt làm cậu đau đớn như bị trăm nghìn roi vọt. Cậu không thể chịu nổi điều đó. Hai thế giới khác nhau mà cậu đang sống không thể lẫn lộn vào nhau như vậy. Cậu ngẩng đầu, tập trung toàn bộ sức mạnh của mình, duỗi thẳng hai bàn tay và mỗi tay chỉ vào một người.
“Hai người sẽ quên hết,” cậu thì thầm bằng Cổ Ngữ. “Quên hết. Quên hết.”
“…ở một nhà thờ tại Edinburgh, tuyệt vời,” mục sư nói với Paul, cài nút áo khoác cuối cùng. “Khúc Sarabande ở tổ khúc số năm đã khiến ta rơi lệ. Anh ta chắc chắn là nghệ sĩ viôlôngxen vĩ đại nhất nhất thế giới.”
“Đúng vậy, thưa Cha,” Paul tán thành. “Đúng, anh ta là người vĩ đại nhất” Cậu khom vai. “Mẹ đi trước rồi hả Will? A, bác Dawson, chào bác, chúc Giáng sinh vui vẻ!” Cậu cười tươi gật đầu chào những người còn lại, trong lúc họ tiến đến cổng nhà thờ, xuyên qua những bông tuyết bị gió cuốn đang bay lả tả.
“Chúc mừng Giáng sinh, Paul, Cha Beaumont,” Trại chủ Dawson nghiêm trang nói. “Buổi lễ thật tuyệt vời, thưa Cha, rất tuyệt vời.”
“A, Frank, chúc con một mùa Giáng sinh ấm áp,” mục sư đáp lại. “Một mùa Giáng sinh tuyệt vời nữa. Không gì có thể cản trở buổi lễ Giáng sinh của chúng ta, thậm chí cả thứ tuyết này.”
Mọi người vừa cười nói vui vẻ vừa bước vào một không gian trắng xóa, tuyết phủ thành đống che lấp những tấm bia mộ và cánh đồng trắng mênh mông trải dài xuống tận dòng sông Thames băng giá. Bốn bề vắng lặng không một tiếng động, chỉ th?