Phần 3 - Thử Thách Cái lạnh về
Hôm sau, tuyết rơi cả ngày. Và hôm sau nữa cũng vậy.
“Ước gì tuyết ngừng rơi,” Mary nhìn trân trân ra ngoài khung cửa sổ trắng xóa, buồn bã nói. “Tuyết cứ rơi liên miên khó chịu thật - chị ghét thời tiết này.”
“Đừng có lẩn thẩn,” James nói.” Chỉ là một trận bão kéo dài thôi mà. Không cần phải loạn lên như thế.”
“Lần này thì khác đấy. Nó làm chị sởn gai ốc.”
“Vớ vẩn. Chỉ là tuyết rơi nhiều thôi.”
“Từ trước tới nay đã có ai nhìn thấy nhiều tuyết như vậy đâu. Nhìn xem nó cao như thế nào - nếu chúng ta không dọn sạch tuyết từ khi nó bắt đầu rơi thì bây giờ mình đã không thể bước ra khỏi cửa sau rồi. Chúng ta sẽ bị chôn vùi, thế đấy. Nó đang đẩy chúng ta - em có biết là thậm chí nó còn làm vỡ cửa sổ bếp không?”
Will giật giọng hỏi: “Gì cơ?”
“Cái cửa sổ nhỏ phía đằng sau, gần bếp lò ấy. Sáng nay, lúc chị Gwennie xuống bếp thì nó lạnh ngắt như băng ấy; khắp cái góc đó vương vãi đầy tuyết với mảnh kính. Tuyết bám nặng quá nên đã đẩy cửa sổ dập vào phía trong.”
James thở dài thành tiếng. “Nó không đẩy. Tuyết bị gió thổi chất thành đống ở mé nhà phía đó, chỉ thế thôi.”
“Chị chẳng cần biết em nói gì, nó đúng là kinh khủng. Cứ như là tuyết đang cố tìm cách vào bên trong.” Giọng Mary nghe như sắp khóc.
“Đi xem Kẻ… ông già lang thang đã dậy chưa đi,” Will nói. Đã đến lúc ngăn Mary lại trước khi cô tiến đến quá gần sự thật. Liệu còn có bao nhiêu người trên khắp đất nước cũng đang bị tuyết làm cho sợ hãi đến vậy? Cậu giận dữ nghĩ đến Bóng Tối, và khao khát biết đưực mình phải làm gì.
Kẻ Lang Thang ngủ li bì suốt ngày hôm qua, hầu như không động đậy trừ đôi lúc lầm bầm gì đó và một hay hai lần khẽ kêu lên một tiếng khàn khàn. Will và Mary lên phòng lão, mang theo một cái khay đựng ngũ cốc, bánh mì nướng, sữa và mứt cam. “Chào ông!” Will vui vẻ nói to khi hai chị em bước vào phòng. “Ông có muốn ăn sáng không ạ?”
Kẻ Lang Thang mở hé một mắt và chăm chú nhìn họ qua mái tóc bạc bù xù, giờ đây khi được gội sạch lại có vẻ dài và rối tung hơn bao giờ hết. Will đưa cái khay về phía lão.
“Khiếp!” Kẻ Lang Thang khàn khàn thốt lên. Tiếng nói nghe như tiếng khạc nhổ.
Mary nói: “Vậy đấy!”
“Ông có muốn ăn gì khác không?” Will hỏi.
“Hay ông không đói?”
“Mật ong,” Kẻ Lang Thang đáp.
“Mật ong?”
“Mật ong và bánh mì. Mật ong và bánh mì. Mật ong và…”
“Được thôi ạ,” Will trả lời. Chúng lại mang khay đi.
“Lão ta thậm chí không nói ‘làm ơn’ nữa,” Mary nói. “Đúng là một lão già kinh tởm. Chị sẽ không đến gần lão ta nữa đâu.”
“Tùy chị thôi,” Will đáp. Bị bỏ lại một mình, cậu tìm được một bình mật ong gần cạn ở tít sau chạn thức ăn, mật để lâu đã đóng cục lại quanh mép, rồi phết thật nhiều lên ba khoanh bánh mì. Cậu mang bánh mì và một cốc sữa lên cho Kẻ Lang Thang, lão liền ngồi bật dậy vẻ đói khát và ăn ngấu nghiến. Khi ăn, trông lão chẳng lấy gì làm đẹp mắt.
“Ngon quá,” lão nói. Lão cố chùi một ít mật ong dính trên râu, liếm mu bàn tay rồi lén lút nhìn Will: “Tuyết vẫn rơi à? Vẫn rơi phải không?”
“Ông đã làm gì ngoài tuyết vậy?”
“Chẳng gì cả,” Kẻ Lang Thang lầm lì trả lời. “Không nhớ.” Mắt nheo lại xảo trá, lão chỉ trán và than vãn: “Đập đầu tôi.”
“Ông có nhớ chúng tôi tìm thấy ông ở đâu không?”
“Không.”
“Ông có nhớ tôi là ai không?”
Lão lắc đầu quầy quậy. “Không.”
Will nhẹ nhàng hỏi lại, lần này bằng Cổ Ngữ: “Ông có nhớ tôi là ai không?”
Khuôn mặt râu ria xồm xoàm của Kẻ Lang Thang không lộ chút cảm xúc gì. Will bắt đầu nghĩ có lẽ lão mất trí nhớ thật. Cậu nghiêng người qua giường để với lấy cái khay với đĩa và cốc đã hết thức ăn, và đột nhiên Kẻ Lang Thang hét lên, lùi xa khỏi cậu, co rúm lại ở cuối giường. “Không!” lão kêu thất thanh. “Không! Cút đi! Mang chúng đi đi!”
Mắt mở to kinh hoàng, lão nhìn chằm chằm vào Will vẻ thù ghét. Thoạt đầu, Will không hiểu gì cả, nhưng rồi cậu nhận ra cái áo len của mình bị kéo lên cao khi cậu duỗi tay ra và lão già đã nhìn thấy bốn Dấu Hiệu trên thắt lưng cậu.
“Hãy đem chúng đi!” Lão già rú lên. “Chúng đốt cháy đấy! Đem chúng đi!”
Thế mà mình lại nghĩ lão bị mất trí nhớ, Will tự nhủ. Cậu nghe thấy tiếng bước chân lo lắng chạy lên cầu thang, bèn bước ra khỏi phòng. Tại sao Kẻ Lang Thang lại sợ hãi những Dấu Hiệu Vĩ Đại như vậy, khi chính lão đã mang theo một trong số những Dấu Hiệu đó lâu đến thế?
•§•
Bố mẹ cậu hết sức lo lắng. Tin tức trên đài ngày càng xấu khi cái lạnh đã bao phủ cả nước và các quy định khẩn cấp trước tình hình này được ban hành liên tục. Từ trước tới nay trong sổ sách chưa bao giờ ghi lại một nhiệt độ thấp đến như vậy ở nước Anh; những dòng sông trước đây chưa bao giờ đóng băng thì giờ đã đông cứng thành đá, và mọi bến cảng trên toàn bộ miền duyên hải cũng bị băng chặn kín. Mọi người chẳng làm được gì khác ngoài việc chờ tuyết ngừng rơi; nhưng tuyết vẫn cứ rơi.
Họ đang phải trải qua một cuộc sống đầy lo lắng và bị cô lập - “như người tiền sử vào mùa đông vậy,” ông Stanton ví von - phải đi ngủ sớm để tiết kiệm củi và nhiên liệu. Ngày đầu tiên của năm mới đến rồi đi mà chẳng ai bận tâm. Kẻ Lang Thang nằm trên giường cựa quậy không yên, miệng lẩm bẩm và không ăn gì ngoài bánh mì và sữa, mà bây giờ chỉ còn sữa hộp pha loãng thôi. Bà Stanton ân cần nói rằng ông già tội nghiệp ấy đang dần phục hồi sức khỏe. Will tránh xa lão. Nỗi tuyệt vọng trong cậu ngày càng lớn khi cái lạnh cứ buốt giá thêm và tuyết vẫn rơi triền miên; cậu cảm thấy nếu không sớm ra khỏi nhà, cậu sẽ bị Bóng Tối bao vây mãi mãi. Cuối cùng thì mẹ cậu cũng cho cậu một lối thoát. Bà đã hết sạch bột mì, đường và sữa hộp.
“Mẹ biết không ai nên ra khỏi nhà lúc này trừ trường hợp quá khẩn cấp,” bà lo lắng nói, “nhưng thực sự thì việc này phải được tính là khẩn cấp. Chúng ta cần có cái để ăn chứ.”
Mấy anh em phải mất đến hai tiếng xúc tuyết để mở một lối đi từ vườn ra đến đường cái, ở đó có một kiểu đường hầm không mái che, với độ rộng bằng một xe ủi tuyết, đã được dọn sạch. Ông Stanton tuyên bố chỉ có ông và Robin vào làng, nhưng suốt hai tiếng đồng hồ, vừa xúc tuyết vừa thở hổn hển, Will đã nài nỉ xin đi cùng, và cuối cùng ông bố không còn chịu nổi những lời mè nheo của cậu nữa nên đành đồng ý.
Họ quấn khăn quàng qua tai, đeo găng tay dày và mặc tới ba cái áo len bên trong áo khoác. Họ mang theo một chiếc đèn pin. Đang giữa buổi sáng nhưng tuyết vẫn rơi không ngừng và không ai biết khi nào họ có thể trở về nhà. Từ lối đi hai bên dựng đứng, cắt ngang con đường độc nhất của làng, những lối đi nhỏ, mấp mô đã được giẫm phẳng và dọn sạch tuyết dẫn đến một vài cửa hàng và hầu hét các tòa nhà trung tâm; qua dấu chân, họ đoán ai đó đã cưỡi ngựa rời khỏi Trại Dawson, góp phần mở một con đường tới nhà của những người như cô Bell và bà Homiman, những người không bao giờ có thể tự xoay xở được. Trong cửa hàng bách hóa của làng, con chó tí hon của bà Pettigrew nằm co rúm, cuộn lại thành một đống xám xịt trong góc, trông ủ rũ và buồn bã hơn bao giờ hết; Cậu con trai béo ú Fred của bà Pettigrew vẫn thường giúp bà trông coi cửa hàng, đã bị ngã vào tuyết đến mức bong khớp tay và phải bó bột, còn bà Pettigrew thì lo lắng đến phát điên. Bà rối bời đến nỗi nói năng lắp bắp và run lập cập, đánh rơi đồ, tìm đường và bột mì sai chỗ nên chẳng thấy gì cả, và cuối cùng bà ngồi phịch xuống ghế như một con rối bị đứt dây, và bật khóc.
“Ôi,” bà nức nở, “tôi xin lỗi, ông Stanton, tại trận tuyết khủng khiếp này. Tôi sợ quá, tôi không biết… Tôi đã mơ thấy chúng ta bị cô lập và không ai biết chúng ta ở đâu…”
“Chúng ta đã bị cô lập rồi còn gì,” con trai bà rầu rĩ nói. “Cả tuần rồi, không có lấy một chiếc ô tô đi qua làng. Không đồ tiếp tế, trong khi mọi người đều bị cạn kiệt - không còn bơ, đến sữa hộp cũng chẳng còn. Bột mì sắp hết rồi, ngoài túi này ra chỉ còn lại năm túi nữa.”
“Và không ai còn chút nhiên liệu nào,” bà Pettigrew sụt sịt. “Con bé nhà Randall bị sốt, còn cô Randall tội nghiệp thì chẳng còn mẩu than nào và chỉ Chúa mới biết còn bao nhiêu người nữa…”
Chuông của cửa hàng rung lên khi cửa mở, và theo thói quen trong làng, mọi người đều quay ra xem ai đến. Một người đàn ông to cao mặc áo khoác đen rộng lụng thụng, gần như áo choàng, đang bỏ chiếc mũ rộng vành ra để lộ mớ tóc bạc bù xù; đôi mắt sâu nhìn xuống họ qua cái mũi khoằm.
“Xin chào,” ông Merriman nói.
“Chào ông,” Will vui vẻ chào lại, thế giới của cậu đột nhiên bừng sáng.
“Chào ông,” bà Pettigrew lên tiếng, rồi hỉ mũi. Bà nói, giọng nghẹt đi vì chiếc khăn tay: “Ông Stanton, ông biết ông Lyon chứ? Ông ấy ở Trang Viên đấy.”
“Xin chào,” ông Stanton nói.
“Tôi là quản gia của bà Greythorne,” ông Merriman lịch sự cúi đầu đáp lại. “Cho tới khi ông Bates đi nghỉ về. Có nghĩa là cho đến khi tuyết ngừng rơi. Tất nhiên rồi, vì hiện tại thì tôi không thể đi còn ông Bates không thể về được.”
“Nó sẽ không bao giờ ngừng cả,” bà Pettigrew than vãn, rồi lại òa khóc.
“Mẹ ơi, thôi đi,” anh béo Fred gắt.
“Tôi có tin cho bà đây, bà Pettigrew,” ông Merriman nói to với giọng an ủi. “Chúng tôi đã nghe được một thông báo trên đài địa phương - điện thoại của chúng tôi đã bị ngắt, tất nhiên, cũng giống mọi người. Thức ăn và nhiên liệu sẽ được thả xuống Trang Viên, vì trong trời tuyết này đó là nơi dễ nhìn thấy nhất từ trên không. Và bà Greythorne muốn hỏi liệu trong trường hợp khẩn cấp mọi người trong làng có muốn chuyển tới Trang Viên không. Tất nhiên sẽ chật chội, nhưng ấm áp. Và có lẽ tiện nghi nữa. Bác sĩ Amstrong sẽ có mặt ở đó… tôi tin là ông ấy đang trên đường tới đó rồi.”
“Thật là đầy tham vọng,” ông Stanton trầm ngâm nói. “Gần như trở lại thời phong kiến ấy.”
Ông Merriman hơi nheo mắt. “Nhưng chúng tôi không hề có ý đó.”
“Ồ, không. Tôi hiểu mà.”
Bà Pettigrew đã ngừng khóc. “Một ý tưởng thật tuyệt, ông Lyon thân mến ạ! Ôi, sẽ thật là khuây khỏa khi được ở cùng người khác, đặc biệt là vào buổi tối.”
“Con cũng là người khác còn gì,” Fred nói.
“Đúng vậy con yêu ạ, nhưng…”
Fred thủng thẳng nói: “Con sẽ đi lấy mấy cái chăn. Và gói ghém một vài thứ trong cửa hàng nữa.”
“Thế là sáng suốt đấy,” ông Merriman nói. “Đài nói tối nay bão sẽ tồi tệ hơn nhiều. Vì vậy mọi người tập trung càng sớm càng tốt.”
“Ông có cần chúng cháu báo giúp cho những người khác không ạ?” Robin lại bắt đầu kéo cổ áo lên.
“Tuyệt quá. Thế thì tuyệt quá.”
“Tất cả chúng tôi sẽ giúp,” ông Stanton nói.
Will ngoảnh ra phía cửa sổ khi nghe nhắc đến trận bão, nhưng, tuyết vẫn rơi từ bầu trời xám xịt xuống nhiều như trước. Cửa sổ mờ đến nỗi khó có thể nhìn ra ngoài, nhưng cậu vẫn thoáng thấy cái gì đó đang chuyển động bên ngoài. Có một ai đó đang ở trên con đường tuyết đã được đào xuyên qua đường Thung Lũng Thợ Săn. Cậu chỉ nhìn rõ trong một giây, khi cái bóng đó đi qua cuối con đường nhà Pettigrew, nhưng chỉ một giây cũng đủ để cậu nhận ra người đàn ông ngồi thẳng đuỗn trên lưng con ngựa đen.
“Tên Kỵ Sĩ vừa qua đây!” Cậu nói nhanh và rõ ràng bằng Cổ Ngữ.
Ông Merriman quay phắt lại; nhưng rồi trấn tĩnh ngay và điệu nghệ sụp cái mũ xuống đầu. “Tôi rất biết ơn nếu được giúp đỡ.”
“Em nói gì vậy, Will?” Robin, bị làm cho lãng đi, đang nhìn cậu em trai chằm chằm.
“Ồ, chẳng có gì đâu.” Will đi ra cửa, cố tình loay hoay cài khuy áo thật lâu. “Em tưởng là em trông thấy ai đó.”
“Nhưng em đã nói cái gì đó bằng thứ tiếng gì buồn cười lắm.”
“Tất nhiên là không phải thế. Em chỉ nói ‘Ai ở bên ngoài thế nhỉ?’ Nhưng thực ra là chẳng có ai cả.”
Robin vẫn nhìn Will chằm chằm. “Em nói giống hệt ông già lang thang đó, lúc ông ta lảm nhảm khi được chúng ta đặt lên giường ấy…” Nhưng cậu cũng chẳng phí thời gian để phỏng đoán; cậu lắc cái đầu rất thực tế của mình và thôi không nói đến chuyện đó nữa. “Ừ, thôi được rồi.”
Ông Merriman đã xoay xở tiến đến sát cạnh Will khi họ rời nhà Pettigrew để tỏa đi các nơi và cảnh báo những người trong làng. Ông nói nhỏ bằng Cổ Ngữ: “Hãy đưa Kẻ Lang Thang tới Trang Viên nếu cậu có thể. Nhanh lên. Nếu không y sẽ ngăn chính cậu thoát ra. Nhưng cậu có thể gặp chút rắc rối với lòng kiêu hãnh của bố cậu đấy.”
Lúc mấy bố con về đến nhà sau chuyến đi quanh làng chật vật của họ, Will đã gần như quên mất điều ông Merriman nói về bố mình. Cậu quá bận rộn nghĩ cách để đưa Kẻ Lang Thang đến Trang Viên mà không phải khênh lão ta đi. Will chỉ nhớ ra khi cậu nghe thấy bố lên tiếng trong bếp, khi họ đã cởi áo khoác và mang lương thực vào.
“…bà cô già ấy tốt quá, cho mọi người đến đó. Tất nhiên họ có không gian, lò sưởi và những bức tường cổ dày ấy có thể chống rét tốt hơn nhà cũa bất kỳ ai. Đúng là nơi tuyệt vời nhất cho những người ở những ngôi nhà nhỏ ấy - cô Bell đáng thương có lẽ sẽ không chịu được lâu… Tất nhiên, nhà mình ở đây vẫn tốt. Độc lập. Không cần phải kéo đến Trang Viên làm gì cho thêm phiền ra.”
“Ồ, bố ơi,” Will vội nói, “bố không nghĩ chúng ta cũng phải đi sao?”
“Bố không nghĩ vậy,” bố cậu trả lời với cái vẻ dửng dưng kiên quyết mà lẽ ra Will nên biết trước rằng khó bẻ gãy hơn bất kỳ sự nhiệt tình nào.
“Nhưng ông Lyon đã nói là càng về sau thì sẽ càng nguy hiểm hơn vì trận bão ngày càng xấu đi.”
“Bố nghĩ bố có thể đánh giá được thời tiết mà không cần đến sự giúp đỡ của ông quản gia nhà bà Greythorne, Will ạ,” ông Stanton ôn tồn nói.
“Ôi trời,” Max vui vẻ châm chọc. “Nghe bố kìa, đúng là một ông già hợm hĩnh!”
“Thôi nào, bố có ý đó đâu.” Ông bố ném cái khăn quàng ướt sũng vào Max. “Giống một người coi thường thói trưởng giả hơn đấy. Đơn giản là bố chẳng thấy có lý do gì khiến nhà mình phải rồng rắn sang đó nhờ cậy sự hào phóng của bà phu nhân Trang Viên. Ở đây chúng ta hoàn toàn ổn mà.”
“Đúng đấy,” bà Stanton nhanh nhảu chêm vào. “Bây giờ thì mấy bố con ra khỏi bếp ngay đi. Mẹ muốn làm bánh mì.”
Niềm hy vọng duy nhất, Will quyết định, là bản thân Kẻ Lang Thang.
Cậu chuồn ra, lên cầu thang tới căn phòng nhỏ dành cho khách, nơi lão già vẫn đang nằm trên giường. “Tôi muốn nói chuyện với ông.”
Lão già quay đầu trên gối. “Được thôi,” lão trả lời. Lão có vẻ buồn bã và im hơi lặng tiếng. Đột nhiên, Will cảm thấy thương hại lão.
“Ông đã khỏe hơn chưa?” Cậu hỏi. “Ý tôi là bây giờ ông thật sự ốm hay chỉ cảm thấy yếu thôi?”
“Ta không bị ốm,” Kẻ Lang Thang yếu ớt trả lời. “Chẳng ốm hơn mọi khi đâu.”
“Ông có thể đi được chứ?”
“Ngươi muốn ném ta ra ngoài tuyet kia phải không?”
“Tất nhiên là không rồi,” Will trả lời. “Mẹ tôi sẽ không bao giờ để ông đi trong thời tiết này và tôi cũng vậy, mà thực ra tiếng nói của tôi trong chuyện này cũng chẳng quan trọng gì. Ông biết đấy, tôi bé nhất nhà mà.”
“Ngươi là một Cổ Nhân,” Kẻ Lang Thang nói, nhìn cậu vẻ căm ghét.
“À, đó là chuyện khác.”
“Không khác chút nào cả. Chỉ có nghĩa là sẽ chẳng ích lợi gì nếu ngươi cứ huyên thuyên về bản thân mình với ta cứ như ngươi chỉ là một đứa bé trong gia đình. Ta biết rõ hơn nhiều.”
Will nói: “Ông là một người giám hộ của một trong các Dấu Hiệu Vĩ Đại… Tôi không thấy có lý do gì khiến ông có vẻ ghét chúng tôi.”
“Ta làm điều ta bắt buộc phải làm,” lão nói. “Ngươi đã đưa ta đi… Ngươi đã chọn ta…” Lão cau mày như thể đang cố gắng nhớ lại điều gì đó từ lâu lắm rồi; rồi lão lại trở về trạng thái lơ mơ. “Ta bắt buộc phải làm.”
“Thôi được rồi, nghe này, tôi không muốn bắt ông phải làm bất kỳ điều gì, nhưng có một điều mà tất cả chúng ta phải làm. Tuyết đang trở nên tệ đến mức mọi người trong làng sẽ tới sống ở Trang Viên, giống như một kiểu nhà trọ, bởi vì nó an toàn hơn và ấm áp hơn.” Trong lúc nói, cậu cảm thấy có lẽ lão già đã đoán được cậu định nói điều gì, nhưng cậu không thể đọc được suy nghĩ của lão; bất cứ khi nào thử làm điều đó, cậu lại thấy lúng túng như gà mắc tóc.
“Bác sĩ cũng sẽ ở đó,” cậu tiếp tục. “Vì thế nếu ông cho mọi người thấy rằng ông cần đến nơi nào đó có bác sĩ thì tất cả chúng ta có thể tới Trang Viên.”
“Ý ngươi là nếu không thì ngươi sẽ không đi à?” Kẻ Lang Thang nheo mắt nhìn cậu đầy nghi ngờ.
“Bố tôi không chịu. Nhưng chúng ta phải đi, như thế an toàn hơn…”
“Ta cũng sẽ không đi,” Kẻ Lang Thang nói. Lão quay đầu đi. “Hãy đi đi. Để cho ta yên.”
Will nói bằng Cổ Ngữ, nhẹ nhàng nhưng đầy vẻ cảnh cáo: “Bóng Tối sẽ đến tìm ông.”
Một khoảng im lặng. Rồi Kẻ Lang Thang từ từ quay cái đầu bạc rối bù lại, và Will giật mình ghê sợ khi nhìn vào khuôn mặt lão. Chỉ trong tích tắc mà toàn bộ câu chuyện cuộc đời lão hiện lên trần trụi trên khuôn mặt đó. Có nỗi đau đớn và sợ hãi sâu thẳm không đáy trong đôi mắt, nếp nhăn của những trải nghiệm đen tối in dấu rõ ràng và khủng khiếp; vào một lúc nào đó trong đời mình, con người này đã phải trải qua những nỗi thống khổ và khiếp đảm kinh khủng đến nỗi chẳng có gì còn thật sự khiến lão xúc động được nữa. Lần đầu tiên mắt lão mở to, căng ra, mọi trải nghiệm kinh hoàng đều hiện rõ rành rành trong cặp mắt đó.
Kẻ Lang Thang nói một cách vô hồn: “Bóng Tối đã đến tìm ta rồi.”
Will hít một hơi thật sâu. “Nhưng bây giờ vòng tròn Ánh Sáng đã đến,” cậu nói. Cậu rút cái thắt lưng gài Dấu Hiệu và giơ nó ra trước mặt lão. Lão già quay đi, mặt nhăn nhúm và rên rỉ như một con vật đang sợ hãi; Will thấy kinh sợ, nhưng không thể làm gì được. Cậu từ từ giơ những Dấu Hiệu lại gần khuôn mặt đang nhăn nhó kia cho đến khi sự bình tĩnh của Kẻ Lang Thang vỡ vụn, giống như một đoạn dây đang căng bị đứt phựt. Lão rú lên và bắt đầu lảm nhảm, giãy đạp kêu cứu. Will liền chạy ra ngoài gọi bố, và một nửa thành viên trong nhà chạy đến.
“Con nghĩ ông ta đang lên cơn hay sao ấy. Tệ quá. Chúng ta có nên đưa ông ta đến bác sĩ Amstrong ở Trang Viên không bố?”
Ông Stanton trả lời lấp lửng: “Có lẽ chúng ta có thể mời bác sĩ tới đây.”
“Nhưng ở đó tốt hơn cho ông ấy,” bà Stanton nói, lo lắng nhìn Kẻ Lang Thang chằm chằm. “Ý em là ông cụ ấy. Bác sĩ có thể theo dõi tình hình ông ấy - và cũng nhiều đồ ăn và tiện nghi hơn. Quả thật, đáng báo động rồi, anh Roger ạ. Ở đây em chẳng biết phải làm gì giúp ông ấy hết.”
Bố Will đành đồng ý. Họ để Max ở lại bên cạnh Kẻ Lang Thang lúc này vẫn đang nằm lăn lộn mê sảng, phòng khi có chuyện gì xảy ra, và đi lấy chiếc xe trượt tuyết lớn của gia đình làm thành một chiếc cáng di động. Nhưng có một điều cứ ám ảnh tâm trí Will. Có lẽ đó chỉ là tưởng tượng của cậu thôi, nhưng trong giây phút Kẻ Lang Thang mất tự chủ khi nhìn thấy các Dấu Hiệu Vĩ Đại, và rồi lại biến thành một lão già điên dại thì cậu nghĩ mình đã nhìn thấy một vẻ đắc thắng lóe lên trong đôi mắt ấy.
Khi họ rời nhà để đưa Kẻ Lang Thang tới Trang Viên, bầu trời nặng nề xám xịt như sắp đổ tuyết. Ông Stanton cho hai đứa sinh đôi và Will đi cùng mình. Bà Stanton dõi mắt theo họ với vẻ lo lắng không giống ngày thường chút nào. “Em hy vọng mọi chuyện sẽ ổn cả. Anh có thực sự nghĩ là Will nên đi cùng không?”
“Trong trời tuyết thế này, đôi lúc có người nhẹ cân đi cùng cũng tốt,” bố nói át cả tiếng ấp úng của Will. “Con nó sẽ ổn thôi em à.”
“Mấy bố con sẽ không ở lại đó chứ?”
“Tất nhiên là không rồi. Mục đích duy nhất của cuộc rèn luyện này là đưa ông cụ tới chỗ bác sĩ. Thôi nào, Alice, thế này chẳng giống em chút nào. Em biết là sẽ không có gì nguy hiểm cả mà.”
“Em cũng hy vọng thế,” bà Stanton nói.
Họ lên đường, kéo theo chiếc xe trượt tuyết chở Kẻ Lang Thang được quấn chăn kín mít đến nỗi chẳng thấy hình dạng của lão nữa mà chỉ giống như một cái xúc xích to tướng. Will đi sau cùng; Gwen đưa cho cậu mấy cái đèn pin và một cái phích. “Chị phải nói thật là chị chẳng tiếc khi thấy người mà em phát hiện ra rời khỏi nhà mình đâu,” cô nói. “Ông ta làm chị sợ. Giống một con vật hơn là một ông già.”
Dường như họ phải mất rất nhiều thời gian mới đến được cổng Trang Viên. Lối vào nhà đã được dọn sạch, được vô số bàn chân giẫm phẳng, với hai chiếc đèn áp suất sáng choang treo ở hai bên cửa lớn, chiếu sáng mặt tiền ngôi nhà. Tuyết lại rơi và gió lạnh căm căm nổi lên thổi vào mặt họ. Robin chưa kịp giơ tay ấn chuông thì ông Merriman đã mở cửa. Ông đưa mắt tìm Will trước tiên, nhưng không ai khác nhận thấy ánh khẩn thiết trong đôi mắt ông. “Chào mừng các bạn,” ông nói.
“Xin chào ông,” ông Roger Stanton đáp lại. “Chúng tôi sẽ không ở lại đâu. Ở nhà chúng tôi vẫn ổn cả. Nhưng ở đây có một ông già bị ốm và cần bác sĩ. Sau khi xem xét tình hình thì tôi nghĩ tốt hơn là đưa ông ta tới đây thay vì để bác sĩ Amstrong phải đi đi lại lại. Vì thế chúng tôi đã vội đến đây trước khi bão đến.”
“Bão đã đến rồi,” ông Merriman nhìn ra ngoài nói. Rồi ông dừng lại, giúp hai đứa sinh đôi đưa Kẻ Lang Thang đang nằm bất động trong chăn vào trong nhà. Đến bậc cửa, đống chăn co giật mạnh và mọi người nghe thấy tiếng Kẻ Lang Thang hét nghèn nghẹt qua tấm chăn: “Không! Không! Không!”
“Gọi bác sĩ đi,” ông Merriman nói với một người phụ nữ đang đứng gần đó, và cô ta chạy đi ngay. Gian đại sảnh vắng tanh nơi mấy anh chị em đã đến hát mừng Giáng sinh giờ đây chật cứng người, ấm áp và náo nhiệt, không còn nhận ra được nữa.
Bác sĩ Amstrong xuất hiện, gật đầu chào khắp xung quanh; ông là người nhỏ nhắn nhanh nhẹn với vành tóc hoa râm làm thành một vòng quanh cái đầu hói trông như thầy tu. Gia đình Stanton, cũng như tất cả người dân vùng Thung Lũng Thợ Săn, đều biết ông rất rõ; từ bao nhiêu năm nay, trước cả khi Will chào đời, ai trong gia đình đau ốm đều do ông cứu chữa cả. Ông nhìn Kẻ Lang Thang đang quằn quại và rên rỉ phản đối. “Chuyện gì thế này?”
“Có lẽ do sốc?” Ông Merriman nói.
“Ông ta xử sự rất kỳ cục,” ông Stanton nói. “Cách đây vài ngày, chúng tôi tìm thấy ông ta nằm bất tỉnh trong tuyết, và chúng tôi nghĩ ông ta đang bình phục, nhưng bây giờ…”
Cánh cửa lớn phía trước đóng sập lại vì gió, và Kẻ Lang Thang hét lên. “Hừm,” bác sĩ nói, vẫy tay gọi hai phụ tá trẻ to cao đưa ông ta vào phòng trong. “Cứ để ông ta lại với tôi,” ông vui vẻ nói. “Hiện tại chúng ta mới chỉ có một người bị gãy chân và hai người bị bong gân. Ông ta vào cho thêm phần phong phú.”
Bác sĩ rảo bước theo sau bệnh nhân của mình. Bố Will chăm chú nhìn ra ngoài khung cửa sổ tối om. “Bà nhà tôi sẽ lo lắng lắm,” ông nói. “Chúng tôi phải về đây.”
Ông Merriman nhã nhặn nói: “Nếu ông đi bây giờ, tôi nghĩ ông rời khỏi đây được nhưng không về được đến nhà. Có lẽ một chút nữa…”
“Bố thấy đấy, bóng tối đang trỗi dậy,” Will nói.
Ông bố nhìn cậu nhếch miệng cười. “Tự nhiên con trai bố lại có tâm hồn thơ văn nhỉ. Được thôi, chúng ta sẽ đợi một lát. Nói thật, bố cũng muốn nghỉ xả hơi một chút. Nhân tiện, chúng ta cũng nên đến chào bà Greythorne một câu. Ông Lyon này, bà ấy đâu rồi?”
Ông Merriman, người quản gia cung kính, dẫn họ đi qua đám đông. Đó là cuộc tụ họp kỳ lạ nhất mà Will từng thấy. Đột nhiên, cả nửa dân chúng trong làng sống với nhau thật gần gũi trong một không gian nhỏ bé chật cứng những giường, vali và chăn. Mọi người chào đón họ từ các góc nhỏ tí xíu nằm rải rác quanh căn phòng lớn: một chiếc giường hay một tấm đệm đặt ở góc phòng, hoặc được rào lại bằng một hai cái ghế. Cô Bell vui vẻ vẫy tay chào họ từ một chiếc ghế sôpha. Căn phòng giống như một khách sạn lộn xộn đầy người đang cắm trại trước sảnh. Bà Greythorne đang ngồi cứng đờ và thẳng đuỗn trong chiếc xe lăn bên cạnh lò sưởi, đọc Chim phượng hoàng và tấm thảm cho bọn trẻ con trong làng đang ngồi im phăng phắc. Giống như mọi người trong phòng, trông bà vui vẻ và phấn chấn một cách khác thường.
“Buồn cười thật,” Will nói khi họ lách qua đám đông. “Mọi thứ đều hết sức tệ hại, vậy mà mọi người trông còn vui vẻ hơn bình thường. Nhìn họ mà xem. Hoan hoan hỉ hỉ.”
“Họ là người Anh mà,” ông Merriman nói.
“Đúng thế,” bố Will nói. “Bất khuất trong hoạn nạn, buồn tẻ khi an toàn. Thật sự không bao giờ bằng lòng với những gì mình có. Chúng ta đều kỳ quặc cả. Ông không phải là người Anh phải không?” Ông đột ngột hỏi ông Merriman, và Will ngạc nhiên khi thấy giọng điệu của bố mình có vẻ hơi khiêu khích.
“Tôi là người lai,” ông Merriman ôn tồn trả lời. “Đó là một câu chuyện dài.” Đôi mắt sâu của ông long lanh cúi nhìn ông Stanton, và đúng lúc đó bà Greythorne nhìn thấy họ.
“A, mọi người ở đây cả rồi! Xin chào ông Stanton, chào các cháu, mấy bố con khỏe chứ? Mọi người thấy chuyện này thế nào? Vui nhỉ?” Khi bà đặt quyển sách xuống, bọn trẻ tản ra nhường chỗ cho những người mới đến, hai đứa sinh đôi và ông bố liền bị hút vào cuộc chuyện trò.
Ông Merriman nói nhỏ với Will bằng Cổ Ngữ: “Hãy nhìn vào lửa, cho đến lúc tay phải của cậu lần theo hết hình dạng của từng Dấu Hiệu Vĩ Đại. Hãy nhìn vào ngọn lửa. Kết bạn với chúng. Đừng rời mắt trong suốt thời gian đó.”
Lòng đầy băn khoăn, Will tiến lên phía trước giả vờ sưởi ấm và làm theo lời ông Merriman. Vừa nhìn chăm chăm ngọn lửa bập bùng từ khúc củi lớn trong lò sưởi, Will vừa đưa ngón tay nhẹ nhàng mân mê Dấu Hiệu Sắt, Dấu Hiệu Đồng, Dấu Hiệu Gỗ và Dấu Hiệu Đá. Cậu nói chuyện với ngọn lửa, không phải theo cách cậu đã làm khi bị thách thức dập tắt ngọn lửa cách đây khá lâu rồi, mà theo cách của một Cổ Nhân nắm vững Pháp Thuật. Cậu nói với chúng về ngọn lửa đỏ trong hoàng cung, ngọn lửa xanh nhảy nhót trên đầm lầy, ngọn lửa vàng làm hiệu chiếu sáng trên đồi vào dịp Beltane[20] và Halloween; nói với chúng về ngọn lửa đuổi tà ma, ngọn lửa trừ bệnh tật và ngọn lửa lạnh lẽo của biển cả; nói với chúng về mặt trời và các vì sao. Ngọn lửa bập bùng. Ngón tay cậu kết thúc hành trình của mình vòng quanh Dấu Hiệu cuối cùng. Cậu ngước mắt lên. Cậu nhìn, và cậu đã thấy…
…Cậu nhìn thấy, không phải những dân làng vui vẻ đang tụ tập trong một căn phòng hiện đại ốp gỗ, cao, được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn điện thông thường, mà là gian phòng bằng đá cao và rộng rãi, mờ ảo trong ánh nến, với những tấm rèm thêu và trần nhà mái vòm, gian phòng cậu từng nhìn thấy một lần, trong một thế giới khác. Cậu ngẩng lên, rời mắt khỏi khúc củi vẫn bập bùng đúng cái ngọn lửa đó, nhưng giờ đây đang cháy trong một cái lò sưởi khác, và cậu thấy trước mặt mình, cũng như lần trước trong thời quá khứ, hai chiếc ghế nặng chạm trổ đặt hai bên lò sưởi. Ngồi trên chiếc ghế bên phải là ông Merriman trong chiếc áo choàng rộng, còn bên trái là một người lần gần đây nhất cậu nhìn thấy, chưa đầy một ngày trước, đang nằm trên chiếc kiệu như thể đã chét rồi. Cậu vội cúi xuống và quỳ gối dưới chân Quý Bà. “Thưa bà,” cậu nói.
Bà dịu dàng chạm vào tóc cậu. “Chào Will.”
“Cháu xin lỗi vì đã phá vỡ vòng tròn, trong lần đầu tiên ấy,” cậu nói. “Hiện giờ Bà có… khỏe… không ạ?”
“Mọi chuyện đều ổn cả,” bà nói nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng. “Và sẽ vẫn như vậy, nếu chúng ta có thể thắng trong trận chiến cuối cùng giành các Dấu Hiệu.”
“Cháu phải làm gì ạ?”
“Phá vỡ sức mạnh của giá lạnh. Chặn đứng tuyết, giá lạnh và sương mù. Giải phóng vùng đất này khỏi vòng vây của Bóng Tối. Làm tất cả với dấu hiệu tiếp theo của vòng tròn, Dấu Hiệu Lửa.”
Will tuyệt vọng nhìn Quý Bà. “Nhưng cháu không có nó. Cháu không biết làm thế nào.”
“Cháu đã có một dấu hiệu lửa rồi. Dấu Hiệu kia vẫn đang đợi. Giành được Dấu Hiệu đó, cháu sẽ phá tan giá lạnh. Nhưng trước đó, vòng lửa của chính chúng ta phải được hoàn thiện, nó là sự phản chiếu của Dấu Hiệu kia, và để làm được điều đó cháu phải tước bỏ sức mạnh của Bóng Tối.” Bà chỉ vào chiếc vòng sắt lớn gồm những chiếc đế cắm nến ở trên bàn, vòng tròn được chia làm bốn bởi một dấu thập. Khi bà giơ tay lên, ánh sáng lấp lánh trên chiếc nhẫn hồng trên tay bà. Vòng nến ngoài cùng đã hoàn thiện, mười hai cột nến trắng cháy hệt như khi Will ở trong gian đại sảnh này lần trước. Nhưng các cạnh của chữ thập vẫn còn những đế cắm nến rỗng; chín cái lỗ trống không.
Will buồn rầu nhìn chúng. Sứ mệnh này đã khiến cậu tuyệt vọng. Phải tìm ra chín cây nến thần kỳ, mà chẳng biết chúng đang ở đâu. Phải chế ngự quyền lực của Bóng Tối. Một Dấu Hiệu cậu đã có mà không hề hay biết. Một Dấu Hiệu khác cậu phải tìm ra mà không biết tìm ở đâu và như thế nào.
“Can đảm lên,” Quý Bà nói. Giọng bà yếu ớt và mệt mỏi; khi Will nhìn bà, cậu thấy bà dường như đang mờ đi, như thể bà chỉ là một cái bóng. Cậu lo lắng với tay lên, nhưng bà rụt tay lại. “Chưa được… vẫn còn việc khác phải làm. Cháu nhìn thấy những ngọn nến cháy thế nào rồi đấy, Will.” Giọng của bà nhỏ dần, rồi lại to lên. “Chúng sẽ hướng dẫn cháu.”
Will nhìn ánh nến rực rỡ, vòng ánh sáng cao hút lấy ánh mắt cậu. Khi cậu nhìn chúng, một cảm giác hồi hộp kỳ lạ trào lên trong cậu, như thể cả thế giới rung chuyển. Cậu nhìn lên và cậu thấy…
…và cậu thấy, khi ngước mắt lên, rằng cậu đã quay trở về trang viên của thời bà cô Greythorne, thời của Will Stanton, với những bức tường ốp gỗ và tiếng người lao xao, rồi một giọng nói cất lên bên tai cậu. Đó là bác sĩ Amstrong.
“…đang hỏi cháu đấy,” ông nói. Ông Stanton đang đứng cạnh cậu. Bác sĩ dừng lời và nhìn Will vẻ lạ lùng. “Cháu ổn chứ, cậu bé?”
“Vâng… Vâng ạ, cháu ổn. Bác nói gì ạ?”
“Ta nói rằng ông bạn già lang thang của cháu đang hỏi cháu. Ông ta nói văn hoa là ‘cậu con trai thứ bảy’, mặc dù ta chịu không hiểu nổi làm sao ông ta biết điều đó.”
“Đúng thế phải không ạ?” Will hỏi. “Cháu không biết chuyện đó mãi cho đến ngày hôm kia khi cháu nghe về người anh trai đã qua đời. Anh Tom.”
Bác sĩ Armstrong nhìn xa xăm trong chốc lát. “Tom,” ông nói. “Đứa con đầu lòng. Ta nhớ rồi. Chuyện đó đã lâu rồi.” Ông lại nhìn cậu chăm chăm.
“Đúng, cháu là người con trai thứ bảy. Và bố cháu cũng vậy đấy.”
Will quay phắt lại phía sau, và cậu thấy bố mình đang toét miệng cười.
“Bố là con trai thứ bảy hả bố?”
“Đúng thế,” ông Roger Stanton trả lời, khuôn mặt hồng hào tròn trịa như đang hồi tưởng. “Một nửa thành viên trong nhà đã chết trong chiến tranh, nhưng ông bà nội từng có đến mười hai người con cơ đấy. Con biết thế chứ, phải không? Một bộ tộc thực sự. Mẹ con rất yêu bộ tộc ấy, vì mẹ là con một. Bố dám chắc rằng đó là lý do tại sao mẹ lại sinh ra tất cả các con. Khiếp thật, trong thời kỳ quá đông dân số này. Đúng, con là con trai thứ bảy của một người con trai thứ bảy - nhà ta vẫn thường nói đùa về chuyện này hồi con còn bé. Nhưng sau đó thì thôi, sợ con lại nghĩ mình có giác quan thứ sáu, hay một cái gì tương tự thế như mọi người thường nói.”
“Ha ha,” Will gượng cười. “Bác đã biết ông già lang thang ấy bị làm sao chưa, bác Amstrong?”
“Phải nói thật là ông ta làm bác rối tung lên,” vị bác sĩ trả lời. “Ông ta cần một liều thuốc an thần trong trạng thái rối loạn như thế này nhưng nhịp tim và huyết áp của ông ta lại thấp chưa từng thấy, vì thế bác không biết… Lúc này thì bác chỉ có thể nói ông ta không có vấn đề gì về mặt thể chất cả. Có lẽ ông ta chỉ bị suy nhược thần kinh giống như rất nhiều người già lang thang khác - thời nay không còn nhìn thấy nhiều người như vậy nữa, họ gần như đã biến mất cả rồi. Dù sao thì ông ấy luôn miệng kêu gào đòi gặp cháu, Will ạ, vì thế nếu cháu có thể chịu đựng được thì bác sẽ dẫn cháu vào một lúc. Ông ta sẽ không làm gì cháu đâu.”
Kẻ Lang Thang đang la hét ầm ĩ. Lão im bặt khi nhìn thấy Will, và mắt lão nheo lại. Thái độ của lão thay đổi hẳn; lão bình tĩnh trở lại, khuôn mặt hình tam giác chằng chịt nếp nhăn rạng lên. Lão liếc qua vai Will nhìn vị bác sĩ và ông Stanton. “Đi đi,” lão nói.
“Hừm,” bác sĩ Amstrong lẩm bẩm, nhưng ông kéo bố Will đến gần cửa hơn, vẫn có thể nhìn thấy nhưng không thể nghe được Will và lão già. Trong căn phòng nhỏ để treo áo khoác hiện đang được dùng làm bệnh xá đó còn có một bệnh nhân khác - người bị gãy chân - đang nằm trên giường, nhưng hình như ông ta đang ngủ.
“Ngươi không thể giữ ta ở đây được,” Kẻ Lang Thang rít lên. “Kỵ Sĩ sẽ đến tìm ta.”
“Ông đã từng sợ tên Kỵ Sĩ đến cứng cả người,” Will nói. “Tôi đã nhìn thấy ông. Ông đã quên cả chuyện đó rồi ư?”
“Ta chẳng quên gì cả,” Kẻ Lang Thang khinh khỉnh nói. “Nỗi sợ đó đã qua rồi. Nó đã biến mất khi Dấu Hiệu rời bỏ ta. Hãy để ta đi, để ta đến với người của ta.” Trong giọng nói của lão có một thoáng trang trọng kiểu cách hết sức kỳ lạ.
“Người của ông đã chẳng ngần ngại để mặc ông chết ngoài trời tuyết,” Will đáp lại. “Dù sao tôi cũng không giữ ông ở đây. Tôi chỉ đua ông đến bác sĩ thôi. Ông không thể hy vọng bác sĩ sẽ để ông đi khỏi đây vào giữa cơn bão như thế này.”
“Vậy thì Kỵ Sĩ sẽ đến,” lão già nói. Mắt lão long lên, và lão hét to khiến tất cả mọi người trong phòng đều nghe thấy. “Kỵ Sĩ sẽ đến! Kỵ Sĩ sẽ đến!”
Will bỏ lão nằm lại đó, khi bố cậu và bác sĩ vội chạy tới bên giường.
“Có chuyện quái quỷ gì vậy?” ông Stanton hỏi.
Khi bác sĩ cúi xuống thì Kẻ Lang Thang đã nằm vật ra và lại giận dữ lẩm bẩm.
“Chúa mới biết,” Will nói. “Lão nói toàn những điều vớ vẩn. Con nghĩ là bác sĩ Amstrong nói đúng, lão ta hơi dở người.” Cậu nhìn quanh phòng nhưng không thấy ông Merriman đâu.
“Ông Lyon đi đâu rồi ạ?”
“Ông ấy ở đâu đó thôi,” bố cậu lơ đễnh trả lời.
“Tìm hai anh đi, Will. Bố sẽ đi xem bão đã dịu chưa để chúng ta còn về.”
Will đứng trong gian phòng ồn ào, trong khi mọi người đi đi lại lại mang theo chăn gối, cốc trà, bánh mì kẹp từ trong bếp ra, rồi lại mang những cái đĩa hết sạch thức ăn quay trở lại bếp. Cậu thấy lạ lẫm và tách biệt, như thể cậu đang trôi nổi giữa thế giới bận rộn này nhưng lại không thuộc về nó. Cậu nhìn vào lòng lò sưởi lớn. Ngay cả tiếng lửa cháy bùng bùng cũng không thể át đi tiếng gió gào rú bên ngoài và tiếng tuyết lạnh đang đập tới tấp vào khung cửa sổ.
Ngọn lửa bùng lên, hút lấy ánh mắt Will. Từ đâu đó ở bên ngoài Thời Gian, ông Merriman đang nói trong tâm trí cậu: “Hãy cẩn thận. Điều đó là sự thật. Kỵ Sĩ sẽ đến tìm lão. Đó là lý do ta muốn cháu đưa lão đến đây, một nơi được Thời Gian bảo vệ. Nếu không tên Kỵ Sĩ sẽ đến nhà cháu và đem theo tất cả các thế lực đen tối khác…”
“Will,” giọng nữ trầm đầy quyền uy của bà Greythorne vang lên. “Đến đây nào!” Và Will quay trở lại thực tại, đi đến chỗ bà. Cậu nhìn thấy Robin đang ở cạnh chiếc ghế của bà, còn Paul đang đi tới, cầm trong tay một cái hộp dẹt dài trông rất quen.
“Chúng ta đang định tổ chức một buổi hòa nhạc cho tới khi gió lặng,” bà Greythorne sôi nổi nói. “Mỗi người góp một chút. Nghĩa là tất cả những ai hưởng ứng ý kiến này. Một buổi tiếp tân, hay bất kỳ tên gì người Scotland thường gọi.”
Will nhìn thấy nét rạng rỡ vui sướng ánh lên trong mắt người anh. “Và Paul sẽ chơi chiếc sáo cổ của bà mà anh ấy rất thích.”
“Đúng thế,” Paul nói. “Còn em sẽ hát.”
“Được thôi.” Will nhìn Robin.
“Còn anh,” Robin nói, “thì sẽ bắt nhịp vỗ tay. Sẽ có rất nhiều tiếng vỗ tay đấy - làng mình có vẻ đầy tài năng. Cô Bell sẽ đọc thơ, ba chú nhóc ở Dorneyend biểu diễn dân ca - hai cậu nhóm đó còn mang theo cả đàn ghita nữa. Cụ Dewhurst sẽ trình diễn một màn độc thoại, cứ thử ngăn cụ ấy lại xem. Cô bé nhà nào đó thì muốn múa. Chẳng thiếu người đăng ký đâu.”
“Will này,” bà Greythorne nói, “ta nghĩ cháu nên mở màn. Nếu cháu bắt đầu hát, cháu biết đấy, bất cứ bài nào cháu thích, rồi dần dần mọi người sẽ ngừng lại nghe cho đến khi im lặng hoàn toàn - như thế sẽ hay hơn là ta rung chuông hay làm điều gì đó tương tự rồi nói, ‘Bây giờ chúng ta sẽ tổ chức một buổi hòa nhạc,’ cháu có đồng ý không?”
“Vâng, cháu cũng nghĩ vậy ạ,” Will đáp, mặc dù lúc này biểu diễn những khúc nhạc êm ả là điều cuối cùng cậu có thể nghĩ đến. Cậu nghĩ nhanh và nhớ ra bài hát ngắn hơi u sầu mà thầy dạy nhạc ở trường đã chuyển tông cho hợp với giọng cậu ngay học kỳ trước để thử nghiệm. Cảm thấy hơi phô trương, Will cát giọng hát ngay tại chỗ mình đang đứng.
“Con đường dài hun hút dưới trăng thanh,
Trên cao, trăng vô tình vẫn sáng;
Con đường dài hun hút dưới trăng thanh
Đưa tôi đi xa dần người yêu dấu.
Trăng vẫn treo giữa khoảng trời lặng gió,
Bóng Hằng soi chênh chếch con đường xa:
Bàn chân bước trên bụi mờ trăng tỏ
Vẫn mãi đi, thăm thẳm dặm đường xa.”
Tiếng chuyện trò xung quanh im bặt. Cậu thấy những khuôn mặt hướng về phía mình, và suýt nữa bỏ mất một nốt nhạc khi nhận ra một số gương mặt cậu hy vọng được thấy nhưng lúc trước vẫn chưa tìm ra. Họ đang đứng kia, lặng lẽ ở phía sau; Trại chủ Dawson, cụ Geogre, vợ chồng bác John Smith, những Cổ Nhân lại sẵn sàng kết nối vòng tròn của họ nếu cần thiết. Gần đó là những thành viên còn lại của gia đình Dawson, bố Will cũng đứng cùng họ.
“Lữ khách nói trái đất tròn vành vạnh,
Dẫu đường đi tưởng thẳng đến vô cùng,
Gắng bước nữa đi, mọi việc tất thành,
Con đường sẽ đưa ta về chốn cũ.”
Qua khóe mắt, cậu giật mình nhìn thấy bóng Kẻ Lang Thang; chăn quấn quanh người như cái áo choàng, lão già đang đứng lắng nghe trên ô cửa của phòng bệnh nhỏ. Trong một giây phút thoáng qua, Will nhìn thấy khuôn mặt lão, và vô cùng kinh ngạc. Vẻ quỷ quyệt và nỗi sợ hãi đã biến mất khỏi khuôn mặt hình tam giác chằng chịt nếp nhăn ấy; chỉ còn lại nỗi buồn và niềm khát khao tuyệt vọng. Thậm chí còn cả những giọt nước mắt long lanh. Đó là khuôn mặt của một người đã mất đi cái gì đó vô cùng quý giá.
Trong giây lát, Will cảm thấy bằng tiếng nhạc của mình, cậu có thể kéo Kẻ Lang Thang về phía Ánh Sáng. Cậu vừa hát vừa chăm chú nhìn lão, biến những nốt nhạc buồn thảm thành lời kêu gọi, và Kẻ Lang Thang đứng ủ rũ, buồn bã nhìn lại.
“Nhưng trước khi về lại cố hương
Còn bao dặm đường xa trắc trở;
Con đường dài hun hút dưới trăng thanh
Đưa tôi đi xa dần người yêu dấu.”
Căn phòng im phăng phắc khi cậu cất tiếng hát, và chất giọng cao trong trẻo của cậu bé, luôn có vẻ như thuộc về một người xa lạ, vang lên cao vút và xa thẳm trong không trung. Rồi đến một khoảng yên lặng ngắn ngủi, phần duy nhất của màn biểu diễn thật sự có ý nghĩa đối với cậu, và sau đó là rất nhiều tiếng vỗ tay. Will nghe tiếng vỗ tay như vọng về từ nơi xa xăm nào đó. Bà Greythorne gọi tất cả mọi người: “Chúng tôi nghĩ rằng, để giết thì giờ, bất kỳ ai thấy thích đều có thể biểu diễn một tiết mục giải trí nho nhỏ. Đề quên đi cơn bão. Ai muốn tham gia nào?”
Những tiếng lao xao vui vẻ rộ lên, và Paul bắt đầu thổi ống sáo cổ của Trang Viên, rất nhẹ nhàng và chậm rãi. Tiếng sáo êm ái, ngọt ngào tràn ngập căn phòng, và Will đứng tự tin hơn khi cậu lắng nghe tiếng nhạc và nghĩ về Ánh Sáng. Nhưng một lúc sau, tiếng nhạc không thể tiếp sức cho cậu được nữa. Cậu không còn nghe thấy gì hết. Tóc cậu dựng đứng, xương đau nhức; cậu biết một cái gì đó, một người nào đó đang đến gần, muốn mang tai họa đến cho Trang Viên và tất cả những người trong đó, nhất là cậu.
Gió thổi mạnh hơn. Nó quất ào ào vào cửa sổ. Có tiếng đấm cửa mạnh khủng khiếp. Ở phía bên kia gian phòng, Kẻ Lang Thang nhảy dựng lên, mặt lão lại nhăn nhúm, căng thẳng chờ đợi. Paul vẫn chơi nhạc, không nghe thấy gì. Tiếng đập cửa ầm ầm lại vang lên. Đột nhiên Will nhận ra không ai có thể nghe thấy gì; dù gió đang gào thét đến điếc cả tai cậu, họ cũng không thể nghe thấy và cũng không hề biết điều gì đang xảy ra. Tiếng đập lại vang lên lần thứ ba, và cậu biết mình buộc phải trả lời. Cậu một mình bước qua những con người đang không hề để ý đến những gì xung quanh, đi tới cửa, nắm lấy cái tay nắm hình tròn bằng sắt to tướng, thì thầm mấy lời Cổ Ngữ, rồi mở tung cửa ra.
Tuyết xối xả đổ lên người cậu, mưa đá đập vào mặt cậu, gió gầm rít lùa vào căn phòng. Từ trong bóng tối, con ngựa đen khổng lồ chồm lên trên đầu Will, móng huơ cao, cặp mắt trắng dã long sòng sọc, bọt mép tuôn trào từ hàm răng đang nhe ra. Và trên lưng con ngựa là đôi mắt xanh sáng lóe và mái tóc đỏ rực của tên Kỵ Sĩ. Mất tự chủ, Will thét lớn và giơ một tay lên tự vệ theo bản năng.
Con ngựa ô hí vang, mang theo tên Kỵ Sĩ bổ nhào về phía sau, trở về với Bóng Tối; cánh cửa sập lại, và ngay lập tức trong tai Will chẳng còn gì khác ngoài giai điệu nhịp nhàng ngọt ngào thoát ra từ cây sáo cổ Paul đang thổi. Mọi người vẫn ngồi và nằm yên lặng như trước. Will từ từ hạ cánh tay vẫn đang giơ lên trên đầu trong tư thế tự vệ, và khi đó cậu mới để ý đến một thứ cậu đã quên bẵng đi mất. Trên mặt dưới cánh tay, chỗ đối diện với tên Kỵ Sĩ Bóng Tối khi cậu giơ tay lên, là vết bỏng đã thành cái sẹo hình Dấu Hiệu Sắt. Trong gian đại sảnh nọ, cậu đã làm mình bị bỏng bởi Dấu Hiệu đó khi Bóng Tối lần đầu tiên tìm cách tấn công cậu. Quý Bà đã chữa lành vết bỏng. Will đã quên mất là cậu có vết sẹo ấy. “Một dấu hiệu của lửa cháu đã có rồi...”
Vậy ra đó là điều bà muốn nói.
Một dấu hiệu của lửa khiến Bóng Tối không thể lại gần; có lẽ còn đánh đuổi thế lực ấy ra khỏi cuộc tấn công dữ dội nhất của chúng. Will yếu ớt dựa người vào tường và cố gắng thở chậm hơn. Nhưng khi đưa mắt qua đám đông đang yên lặng nghe nhạc, cậu lại nhìn thấy một bóng dáng khiến mọi sự tự tin của cậu tan biến và bản năng Pháp Thuật nhanh chóng mách bảo cậu rằng cậu đã bị đánh lừa. Cậu tưởng rằng cậu phải đối mặt với thách thức từ bên ngoài và cậu đã làm như vậy. Nhưng khi làm điều đó, cậu cũng đã mở cánh cửa chắn giữa Bóng Tối và Kẻ Lang Thang, và bằng cách nào đó, đã tiếp sức cho Kẻ Lang Thang, khiến lão có được một sức mạnh mà lão đang chờ đợi.
Bởi vì lúc này Kẻ Lang Thang đang vươn người đứng dậy, mắt sáng rực, đầu ngẩng cao, lưng duỗi thẳng. Lão giơ một tay lên cao, dõng dạc gọi to: “Đến đây sói, đến đây chó săn, đến đây mèo, đến đây chuột, đến đây Held, đến đây Holda, ta gọi các người đến! Đến đây Ura, đến đây Coll, đến đây Quert, đến đây Morra, đến đây hỡi Chủ Nhân, ta đưa các người vào!”
Lời triệu tập vẫn tiếp tục, một dãy tên rất dài, tất cả đều quen thuộc với Will bởi chúng có trong Cuốn Sách Pháp Thuật. Trong đại sảnh của bà Greythorne, không một ai có thể nhìn hay nghe thấy gì; mọi thứ vẫn diễn ra như trước, và suốt phần cuối của bản nhạc Paul đang chơi cũng như phần đầu đoạn độc thoại bằng giọng nói to và kiên quyết của ông Dewhurst, dường như không có cặp mắt nhìn thấy Will khi chúng hướng về phía cậu. Cậu băn khoăn không biết bố mình, vẫn đang đứng nói chuyện với gia đình Dawson, có nhanh chóng nhận ra đứa con út của mình đã biến đi đâu mất tăm không.
Nhưng chỉ lát sau, trong khi tiếng triệu tập của Kẻ Lang Thang vẫn tiếp tục vang vọng, cậu thôi không băn khoăn nữa, vì cậu nhận thấy gian đại sảnh đang dần thay đổi; gian đại sảnh cổ xưa của Quý Bà trở lại trong tâm trí cậu và hòa quyện vào thực tại. Bạn bè và gia đình mờ đi; chỉ còn Kẻ Lang Thang vẫn rõ ràng, đang đứng cuối căn phòng cách xa lò sưởi. Và trong khi Will vẫn nhìn chằm chằm nhóm người trong đó có bố cậu, thậm chí trong khi họ đã mờ đi, cậu được chứng kiến quá trình phân thân đã giúp các Cổ Nhân có khả năng tự di chuyển vào hoặc ra khỏi Thời Gian. Cậu nhìn thấy một hiện thân của Frank Dawson dễ dàng bước ra khỏi hình dáng đầu tiên, để lại hiện thân kia mờ đi như một phần của hiện tại; còn hình dáng thứ hai này càng lúc càng rõ ràng hơn khi tiến về phía cậu và theo sau là cụ George, bác John và người phụ nữ mắt xanh, cũng tiếp tục tiến lại bằng cách ấy, và Will biết rằng đó cũng chính là cách cậu di chuyển.
Bốn người nhanh chóng vây quanh cậu ở giữa gian đại sảnh của Quý Bà, mỗi người nhìn ra một phía, làm thành bốn góc vuông. Và trong lúc Kẻ Lang Thang cất lên hàng tràng triệu tập Bóng Tối, chính gian đại sảnh cũng bắt đầu thay đổi. Ánh sáng và ánh lửa kỳ lạ lập lòe dọc bức tường, làm cửa sổ và rèm tối sầm lại. Đây đó trong căn phòng, khi một cái tên đặc biệt được gọi lên, một ngọn lửa xanh lại bốc lên, cháy xèo xèo rồi tắt lịm. Trên ba bức tường đối diện với lò sưởi, ba ngọn lửa to hung hãn bùng lên nhưng không tắt đi mà tiếp tục nhảy nhót, uốn lượn, rực rỡ một cách đáng sợ, bao trùm căn phòng bởi ánh sáng lạnh lẽo.
Trước lò sưởi, trên chiếc ghế lớn chạm khắc, ông Merriman ngồi từ trước, ông đang ngồi bất động. Trong dáng ngồi ấy có một sức mạnh khủng khiếp bị kiềm chế; Will nhìn bờ vai rộng của ông với một dự cảm vô cùng mạnh mẽ, như thể đang nhìn một chiếc lò xo khổng lồ có thể bung ra bất cứ lúc nào.
Kẻ Lang Thang gọi to hơn: “Đến đây Uath, đến đây Truith, đến đây Loth! Đến đây Heurgo, đến đây Celmis, ta đưa các người vào…”
Ông Merriman đứng dậy, lừng lững như một cột nhà đen có chỏm trắng. Chiếc áo choàng quấn quanh người ông. Chỉ có khuôn mặt như đá tạc của ông là hiện ra rõ ràng, nhờ ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ mái tóc bạc. Kẻ Lang Thang nhìn ông và bắt đầu ấp úng. Dày đặc quanh căn phòng, ngọn lửa Bóng Tối nhảy nhót rít lên, tất cả đều màu trắng, xanh và đen, không có chút vàng kim hay đỏ hay vàng cam ấm áp. Chín ngọn lửa cao nhất dựng lên như những cái cây đầy hăm dọa.
Nhưng Kẻ Lang Thang dường như lại bị mất giọng. Lão nhìn ông Merriman lần nữa và lùi về phía sau một chút. Và nhờ vẻ khao khát và sợ hãi trộn lẫn trong đôi mắt rực sáng của lão già, Will bất chợt nhận ra lão.
“Hawkin,” ông Merriman nhỏ nhẹ nói, “vẫn còn thời gian để về nhà đấy.”