Vua Lửa và Nước
Mặt James vẫn tái xanh và đầy vẻ lo lắng ngay cả khi bác sĩ đã đến nhà an toàn và đang khám cho bà Stanton trong phòng khách. Cậu kéo mấy anh em trai đang đứng gần mình nhất, tình cờ lại chính là Paul và Will, ra một chỗ để những người khác không nghe được. Cậu rầu rĩ nói: “Mary biến mất rồi.”
“Biến mất ư?”
“Thật mà. Em đã bảo chị ấy là đừng đi. Em không nghĩ chị ấy lại đi, em tưởng chị ấy sợ quá.” Lo lắng đã làm cho James, mọi khi vẫn cứng cỏi, suýt bật khóc.
“Đi đâu?” Paul sốt ruột hỏi.
“Đến Trang Viên. Sau khi anh Max đã đi đón mọi người. Gwennie và Bar trông mẹ trong phòng khách. Mary và em pha trà trong bếp, chị ấy hoảng lên nói rằng Max đi lâu quá rồi và hai đứa nên đi xem liệu anh ấy có gặp chuyện gì không. Em bảo chị ấy đừng có ngớ ngẩn như thế, tất nhiên là chúng em không nên đi, nhưng đúng lúc đấy Gwen lại gọi em ra phòng khách để cho thêm củi vào lò sưởi, đến khi em trở lại thì Mary đã biến mất. Cả áo choàng và ủng của chị ấy nữa.” James sụt sịt. “Em chẳng nhìn thấy dấu vết gì ở bên ngoài để biết xem Mary đã đi đâu… trời đã bắt đầu đổ mưa, một dấu chân trên lối đi cũng không thấy. Em đã định cứ lẳng lặng đi tìm chị Mary vì không muốn mẹ và các chị phải lo lắng thêm nữa, nhưng rồi mọi người trở về, và em đã tưởng là Mary cũng về cùng. Nhưng chẳng thấy chị ấy đâu. Ôi, Chúa ơi,” James khổ sở thốt lên. “Chị ấy đúng là một con lừa ngốc nghếch.”
“Đừng lo,” Paul trấn an. “Con bé chưa thể đi xa được. Cứ đi đi rồi đợi lúc thích hợp giải thích mọi chuyện với bố, bảo bố là anh vừa ra ngoài để đón Mary về. Anh sẽ đưa Will đi cùng, hai anh em vẫn còn mặc quần áo ấm.”
“Tốt,” Will đồng tình, từ nãy đến giờ cậu vẫn đang tìm cớ để đi.
Khi hai anh em lại trở ra ngoài mưa, tuyết đã nhũn ra thành một thứ bùn trắng xám dưới chân, Paul lên tiếng: “Em không nghĩ là đã đến lúc em kể cho anh nghe toàn bộ chuyện này là thế nào à?”
“Gì cơ?” Will sửng sốt.
“Em đang dính vào vụ gì thế?” Paul hỏi, đôi mắt xanh nhạt của cậu nhìn Will chằm chằm qua cặp kính nặng trịch.
“Chẳng có gì cả.”
“Nghe này. Nếu việc Mary biến mất có liên quan gì tới vụ đó thì em buộc phải giải thích toàn bộ đấy.”
“Ôi trời ơi,” Will thốt lên. Cậu nhìn thấy vẻ quyết tâm đầy hăm dọa trong mắt Paul, và tự hỏi liệu ai có thể giải thích cho anh mình hiểu rằng một cậu bé mười một tuổi giờ đã không còn là cậu bé mười một tuổi nữa, mà là một sinh vật hơi khác loài người và đang phải đấu tranh cho sự sinh tồn của loài người…
Tất nhiên là không ai có thể giải thích được rồi.
Cậu nói: “Em nghĩ là do những vật này.” Thận trọng đưa mắt nhìn xung quanh, Will lật áo vét và áo len lên để lộ chiếc thắt lưng và chỉ cho Paul thấy những Dấu Hiệu. “Chúng là đồ cổ. Chỉ là mấy cái khóa thắt lưng bác Dawson đã tặng em nhân dịp sinh nhật, nhưng chắc chắn chúng rất có giá trị vì đã có đến hai, ba người lạ mặt bí hiểm cứ liên tục xuất hiện, cố chiếm lấy chúng cho bằng được. Có lần một người đàn ông đã đuổi theo em trên đường Thung Lũng Thợ Săn… và lão già lang thang ấy cũng dính líu như thế nào đó với chuyện này. Đó là lý do em không muốn đưa lão ta về nhà, cái ngày chúng ta thấy lão bị vùi dưới tuyết ấy.”
Cậu nghĩ tất cả những chuyện đó nghe có vẻ không thực làm sao.
“Ừm,” Paul nói. “Và cái ông quản gia mới ở Trang Viên nữa? Lyon phải không? Ông ta cũng giao du với những tên hề đó à?”
“Ồ, không,” Will vội đáp. “Ông ấy là bạn em.”
Paul nhìn Will một lát, không biểu lộ cảm xúc gì. Còn Will lại nghĩ tới sự thấu hiểu nhẫn nại của Paul trong cái đêm ở trên gác xép, lúc mọi chuyện khởi đầu, và cách Paul đã thổi cây sáo cổ, cậu hiểu rằng nếu có người anh nào mà cậu có thể tâm sự mọi chuyện thì đó sẽ chính là Paul. Nhưng đó là điều không thể.
Paul nói: “Rõ ràng là em vẫn chưa kể cho anh nghe hết mọi chuyện, nhưng bây giờ thì tạm thế đã. Anh hiểu ý em muốn nói có thể chính những kẻ muốn chiếm đoạt món đồ cổ này đã bắt cóc Mary làm con tin?”
Hai anh em đã đi đến cuối con đường dành cho xe chạy vào nhà. Mưa quất vào mặt chúng, mạnh nhưng không dữ dội; mưa trút xuống những đống tuyết, xối xả trên cây, biến con đường thành khúc đầu của một lạch nước chảy xiết. Hai đứa nhìn ngược nhìn xuôi một cách tuyệt vọng. Will nói: “Chắc chắn chúng đã làm thế rồi. Ý em là, nếu chị ấy đi thẳng tới Trang Viên thì tại sao mình lại không gặp chị ấy trên đường trở về?”
“Mình cứ đi về phía đó để kiểm tra xem sao.” Đột nhiên Paul nghiêng đầu, trừng mắt lên nhìn trời. “Cơn mưa chết tiệt này! Sao oái oăm thế! Bỗng dưng lại mưa vào giữa lúc tuyết… mà trời cũng ấm hơn nhiều nữa. Chả hiểu ra làm sao cả.” Cậu lội bì bõm qua dòng nước đang chảy vốn từng là Thung Lũng Thợ Săn, liếc sang Will nhếch miệng cười bối rối. “Nhưng lúc này thì có khối chuyện anh chẳng hiểu gì cả.”
“A,” Will nói. “Ừm. Không.” Cậu giẫm mạnh chân làm nước bắn lên tung tóe để che giấu sự hối hận của mình và căng mắt cố tìm ra dấu vết nào đó của cô chị qua màn mưa dày đặc. Âm thanh quanh chúng lúc này nghe rất lạ: tiếng của biển cả với bọt nước bắn tung tóe, nước vỗ về những viên đá cuội và sóng xô ào ào, trong lúc gió mưa tuôn xối xả lên cây cối. Một thứ âm thanh hết sức cổ xưa, cứ như thể hai anh em đang đứng bên bờ một đại dương vô tận nào đó thuở loài người hay tổ tiên của chúng còn chưa chào đời. Cả hai tiếp tục đi, chăm chú quan sát và kiên trì cất tiếng gọi, giờ đây đã lộ rõ vẻ lo lắng; mọi thứ chúng trông thấy đều trở nên xa lạ do mưa đã xô tuyết tạo thành những lối đi và những đụn tuyết mới. Nhưng khi chúng đến gần một góc phố, Will đột nhiên nhận ra hết sức rõ ràng hai anh em đang đứng ở đâu.
Will thấy Paul cúi xuống, giơ cánh tay lên phòng thủ; nghe thấy những tiếng quà quạ khàn đặc rất to đột ngột cất lên rồi lại biến mất; và nhìn thấy, bất kể màn mưa mịt mùng, một đám quạ lông đen sì sà xuống ngay trên đầu chúng.
Paul từ từ đứng thẳng người dậy, tròn mắt kinh ngạc. “Cái quái quỷ gì…?”
“Chạy sang phía bên kia đường đi,” Will giục, đẩy mạnh anh mình sang một bên. “Lũ quạ này đôi khi hung hãn lắm. Em đã từng trông thấy chúng rồi.”
Một đàn quạ khác ầm ĩ lao đến từ sau lưng Paul, đẩy cậu về phía trước, trong khi đàn quạ ban đầu sà xuống, xô Will dạt vào dải tuyết chạy dọc theo bìa rừng ngập tuyết. Lũ quạ nhào xuống lần nữa, rồi lần nữa. Will vừa né vừa băn khoăn không biết liệu anh mình có nhận ra hai đứa lúc này đang rơi tình cảnh của những con cừu, bị lũ quạ lùa theo hướng mà chúng muốn đưa hai anh em tới hay không. Nhưng ngay khi vừa băn khoăn như vậy thì cậu hiểu ra rằng mình đã quá muộn. Màn mưa xám đã hoàn toàn chia cắt hai anh em; cậu không biết Paul đang ở đâu nữa.
Cậu hoảng loạn hét lên: “Anh Paul? Anh Paul ơi!”
Nhưng khi vị Cổ Nhân trong cậu lấy lại tự chủ, làm dịu nỗi sợ hãi, thì cậu không la hét nữa. Đây không còn là chuyện của người thường nữa, ngay cả với gia đình cậu; cậu nên vui mừng vì được ở một mình. Giờ đây cậu đã biết chắc hẳn Mary đă bị Bóng Tối bắt cóc và giam giữ tại một nơi nào đó. Chỉ mình cậu mới có cơ hội cứu được Mary. Cậu đứng dưới màn mưa xối xả, chăm chú nhìn xung quanh. Ánh sáng đang tắt rất nhanh. Will tháo thắt lưng quấn quanh cổ tay phải; cậu lẩm nhẩm một từ Cổ Ngữ rồi giơ cánh tay lên, và những Dấu Hiệu liền tỏa ra một luồng sáng rực rỡ như ánh sáng của một chiếc đèn pin. Nó chiếu sáng mặt nước nâu gợn sóng, nơi con đường đã biến thành dòng sông, sâu hơn và chảy xiết hơn.
Will nhớ có một lần cách đây rất lâu rồi, ông Merriman từng nói rằng vào đêm thứ Mười Hai quyền năng của Bóng Tối sẽ lên tới tột đỉnh nguy hiểm. Có phải thời khắc ấy đã đến rồi không? Cậu không còn biết hôm nay là ngày nào nữa, ngày tháng lẫn lộn trong tâm trí cậu. Nước vỗ nhẹ vào mé ủng của cậu trong khi cậu đang đứng suy nghĩ; cậu vội nhảy lùi về phía đống tuyết nằm sát bìa rừng và một con sóng nâu từ dòng sông trên đường chồm lên nuốt chửng bức tường tuyết Will vừa đứng trên. Nhờ luồng sáng phát ra từ các Dấu Hiệu, Will thấy giờ đây đã có thêm vài tảng băng tuyết bẩn thĩu lềnh bềnh trên mặt nước; khi dòng nước chảy ngang qua, nó đã dần ăn mòn hai bên bờ tuyết vốn bị xe ủi tuyết nén chặt, và cuốn phăng những mảng vỡ như những tảng băng thu nhỏ.
Trong dòng nước còn có những thứ khác nữa. Cậu trông thấy một cái xô và một vật có búi trông như bao cỏ khô bập bềnh trôi qua. Chắc hẳn nước đã dâng lên rất cao thì mới có thể cuốn được mọi thứ từ vườn nhà dân - có lẽ trong số ấy có cả vườn nhà cậu nữa. Làm sao nước lại có thể dâng nhanh như thế? Như để trả lời, mưa quất mạnh vào lưng cậu, tuyết dưới chân sụt xuống nhiều hơn, và cậu nhớ ra mặt đất dưới chân mình chắc chắn vẫn còn đông cứng do trận đại hàn từng khiến cả vùng hoàn toàn rơi vào trạng thái tê liệt, trước khi con mưa dữ dội này đổ xuống. Không có một khe hở nào cho nước mưa ngấm xuống đất. Thời gian để đất hết đông cứng sẽ lâu hơn rất nhiều so với thời gian để băng tuyết trên bề mặt tan ra - và trong lúc đó, tuyết đã tan sẽ không có chỗ nào để thoát ra, không còn cách nào khác ngoài tràn ra khắp mặt đắt đóng băng, cố tìm lấy một nhánh sông để nhập vào. Cơn lũ này sẽ rất đáng sợ, Will nghĩ thầm; đáng sợ hơn trước đây rất nhiều. Hơn cả cái lạnh…
Nhưng một giọng nói đã cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu, một tiếng gọi lớn xuyên qua tiếng nước chảy ào ào và mưa trút xối xả. Cậu loạng choạng đi trên những đụn tuyết đang mềm ra, căng mắt nhìn vào màn đêm u tối. Tiếng gọi lại cất lên. “Will! Ở đây cơ mà!”
“Anh Paul à?” Will khấp khởi đáp lại, nhưng cậu biết đó không phải là giọng anh mình.
“Ở đây! Trên này cơ mà!”
Tiếng gọi cất lên từ chính dòng nước đang cuộn chảy trên đường, từ trong bóng tối. Will giơ các Dấu Hiệu lên; ánh sáng tỏa ra khắp mặt nước đang sủi bọt, soi cho cậu thấy cái mà thoạt đầu cậu tưởng là một đám hơi nước. Rồi cậu nhận ra đám hơi nước đang uốn lượn đó chính là hơi thở: những hơi thở dài và sâu của một con tuấn mã khổng lồ đang đứng vững chãi trong dòng nước, những con sóng nhỏ dữ dằn xô nhau tung bọt trắng xóa quanh đầu gối nó. Will nhìn thấy cái đầu lớn, cỗ bờm màu nâu hạt dẻ ướt dính bết vào cổ và cậu nhận ra đó hoặc là con Castor hoặc là con Pollux, một trong hai con ngựa thồ khổng lồ của Trại Dawson.
Anh sáng của các Dấu Hiệu tỏa rạng cao hơn; cậu nhìn thấy cụ George đang ngồi trên lưng con ngựa khổng lồ, quấn mình trong tấm vải dầu đen.
“Đến đây, Will. Băng qua nước, trước khi nó dâng quá nhanh. Chúng ta có việc phải làm đấy. Nhanh lên nào!”
Cậu chưa bao giờ thấy cụ George có giọng điệu đòi hỏi nghiêm khắc như thế; đây là một Cổ Nhân, không phải ông nông dân hiền lành, chất phác. Rạp người trên cổ ngựa, ông cụ thúc cho con vật băng qua nước tiến lại gần hơn. “Tiến lên Polly, đi qua nào, ngài Pollux.” Con Pollux to lớn khụt khịt, phì những luồng hơi dài qua hai lỗ mũi to tướng, và bước những bước chắc nịch về phía trước để ngay khi Will lội xuống nước, cậu có thể túm được cái chân to như thân cây của nó. Nước đã lên gần đến đùi Will nhưng lúc này toàn thân cậu đã ướt sũng vì mưa rồi nên điều đó cũng chẳng làm cậu bận tâm. Con ngựa không được đóng yên, lưng nó chỉ phủ một tấm chăn sũng nước; nhưng cụ George cúi xuống tóm lấy tay cậu với một sức mạnh không tin nổi, và Will chật vật leo lên lưng ngựa. Ánh sáng từ các Dấu Hiệu quanh cổ tay cậu không hề chập chờn bất kể cậu có loay hoay xoay ngang xoay dọc đến thế nào, mà vẫn vững vàng hướng thẳng về phía con đường họ sẽ đi.
Will cứ bị trôi tuột trên cái lưng rộng của con ngựa, vốn quá to đến mức cậu không thể ngồi giạng hai chân ra được. Cụ George bèn nhấc bổng cậu lên phía trước cho cậu ngồi trên cái cổ to đùng của nó. “Vai con Polly đã từng chở những thứ nặng hơn cháu rất nhiều đấy,” cụ hét vào tai Will. Rồi cả hai lắc lư tiến về phía trước, khi con ngựa thồ lại lừ lừ bước đi, rẽ dòng nước đang mỗi lúc một dâng cao, ra khỏi khu rừng của lũ quạ, xa dần ngôi nhà của gia đình Stanton.
“Chúng ta đi đâu vậy ạ?” Will hét lên, sợ hãi nhìn chằm chằm vào bóng tối; cậu không thể trông thấy bất cứ thứ gì ngoài dòng nước đang cuồn cuộn chảy dưới ánh sáng của các Dấu Hiệu.
“Chúng ta phát động Cuộc Săn,” giọng nói già nua khàn đặc đáp ngay sát tai cậu.
“Cuộc Săn ạ? Săn cái gì ạ? Cụ George, cháu phải tìm chị Mary, bọn chúng đã giữ chị ấy, ở đâu đó. Cháu cũng không thấy Paul đâu cả.”
“Chúng ta phát động Cuộc Săn,” giọng nói sau lưng Will vang lên chắc nịch. “Ta đã thấy Paul rồi, bây giờ nó đang bình yên vô sự trên đường về nhà. Còn Mary thì cháu sẽ tìm thấy vào thời điểm thích hợp. Giờ là lúc dành cho Thợ Săn, Will ạ, con bạch mã phải đến với Thợ Săn, và cháu phải đưa nó đến đó. Mọi việc phải được sắp đặt như vậy, cháu đã quên mất đấy thôi. Con sông này sẽ chảy tới thung lũng, và bạch mã phải đến được với Thợ Săn. Rồi chúng ta sẽ thấy những gì chúng ta sẽ thấy. Chúng ta có việc phải làm đấy Will ạ.”
Mưa quất vào mặt họ mỗi lúc một mạnh, xa xa đâu đó, tiếng sấm đầu buổi tối nổi lên ầm ầm; con Pollux khổng lồ vẫn kiên nhẫn lội trong dòng nước nâu đục đang dâng cao mà mới đây thôi còn là đường Thung Lũng Thợ Săn.
Không thể biết được họ đang ở đâu. Gió nổi lên, và Will có thể nghe thấy tiếng cây cối xào xạc trong tiếng chân lội bì bõm, đều đặn của con Pollux. Hầu như không có một tia sáng nào phát ra từ phía ngôi làng; cậu đoán nguồn điện vẫn bị cắt, hoặc do sự cố ngẫu nhiên hoặc do thế lực Bóng Tối. Dù sao thì hầu hết dân làng ở khu vực này vẫn đang ở Trang Viên. “Ông Merriman đâu ạ?” Will gào lên trong tiếng mưa xối xả.
“Ở Trang Viên,” cụ George hét vào tai cậu. “Với Trại chủ. Bị bao vây.”
“Cụ muốn nói họ bị kẹt ạ?” Giọng Will lạc đi vì lo sợ.
Cụ George rít lên rất gần nhưng vẫn khó nghe rõ: “Họ thu hút sự chú ý để chúng ta có thể hành động. Và họ cũng đang bận rộn đối phó với cơn lũ nữa. Nhìn xuống mà xem, cậu bé.”
Trong dòng nước cuồn cuộn, ánh sáng từ các Dấu Hiệu soi rõ một số đồ vật lạ lùng trôi nổi: một cái rổ mây, vài chiếc hộp cáctông đang mủn ra, một cây nến đỏ tươi, một mớ ruy băng cuộn vào nhau. Đột nhiên, Will nhận ra một dải ruy băng kẻ carô màu vàng tía sặc sỡ, dải ruy băng cậu đã thấy Mary cẩn thận tháo ra từ một hộp quà rồi cuộn nó lại vào hôm Giáng sinh. Chị ấy rất hay tích trữ những thứ linh tinh, cứ như một con sóc vậy; dải ruy băng này đã được cất vào kho tàng của chị ấy.
“Cụ George, những thứ này đều là của nhà cháu!”
“Ở đó cũng lụt,” ông cụ nói. “Đất trũng. Nhưng không có gì nguy hiểm cả, yên tâm đi. Chỉ toàn nước thôi. Cả bùn nữa.”
Will biết cụ George nói đúng nhưng cậu vẫn mong được tận mắt nhìn thấy. Mọi thứ sẽ bị cuốn phăng; đồ đạc, thảm, sách và tất cả những thứ gì có thể di chuyển được. Những vật đang trôi nổi đầu tiên này chắc chắn đã bị đẩy đi xa trước khi ai đó kịp nhận ra dòng nước đang cuốn đi mọi thứ…
Con Pollux bị vấp lần đầu tiên, và Will vội bám vào cái bờm nâu ướt mèm của nó; suýt nữa thì cậu bị trượt ngã và cũng bị cuốn theo dòng nước. Cụ George khẽ nói mấy lời an ủi, con ngựa khổng lồ phì ra và khịt khịt mũi. Bây giờ Will đã có thể trông thấy một vài ánh sáng yếu ớt phát ra từ phía những ngôi nhà lớn tên bãi đất cao cuối làng; như thế có nghĩa là họ đang tiến gần đến Quảng Trường. Nếu nó vẫn còn là Quảng Trường, chứ không phải một cái hồ.
Có gì đó đang thay đổi. Will chớp mắt. Dòng nước như đang ở xa lắm, khó nhìn thấy. Rồi cậu nhận ra ánh sáng từ những Dấu Hiệu nối liền vào nhau quanh cổ tay cậu đang mờ dần rồi tắt hẳn; trong giây lát họ chìm hẳn vào bóng tối. Ngay khi ánh sáng vụt tắt, cụ George khẽ nói, “Hây, Polly,” và con ngựa khổng lồ giậm chân dừng lại, nước tung tóe quanh chân nó.
Cụ George lên tiếng: “Đây là nơi ta phải để cháu lại, Will ạ.”
“Ôi,” Will thốt lên tuyệt vọng.
“Đây là một chỉ dẫn,” cụ George nói. “Cháu phải đưa bạch mã đến với Thợ Săn. Chuyện đó sẽ xảy ra nếu cháu không gặp phải bất cứ rắc rối gì. Và có hai lời khuyên giúp cháu tránh được rắc rối, lời khuyên của riêng ta dành cho cháu. Thứ nhất là, sau khi ta đi, nếu cháu đứng đếm đến một trăm, cháu sẽ có đủ ánh sáng để quan sát xung quanh. Thứ hai là hãy luôn nhớ điều cháu đã biết, rằng không có pháp thuật nào điều khiển được dòng nước đang cuộn chảy.” Cụ vỗ nhẹ vào vai Will động viên. “Bây giờ thì hãy đeo lại các Dấu Hiệu vào thắt lưng cháu,” cụ nói, “rồi xuống ngựa đi.”
Xuống ngựa trong lúc mưa gió ướt át như thế này còn tệ hơn cả trèo lên; con Pollux quá cao so với mặt đất đến mức Will nhảy từ trên lưng nó xuống nước đánh tõm một cái như viên gạch vậy. Nhưng cậu không hề thấy lạnh; dù mưa vẫn đập vào người cậu, nó lại có vẻ nhẹ nhàng, và kỳ lạ thay dường như chính nó đã giúp cậu khỏi cóng.
Giọng cụ George lại vang lên: “Ta đi phát động Cuộc Săn đây,” rồi không nói thêm lời từ biệt nào, cụ thúc con Pollux lội nước về phía Quảng Trường và biến mất.
Will leo lên đống tuyết bên cạnh con đường giờ đã biến thành dòng sông, tìm một chỗ để đứng cho vững, và bắt đầu đếm đến một trăm. Đếm chưa đến bảy mươi, cậu đã thấy lời khuyên của cụ George hiệu nghiệm thế nào. Cả thế giới đang chìm trong bóng tối bỗng dần tỏa sáng. Nước chảy ào ào, tuyết tan lỗ chỗ, cây cối xác xơ; cậu có thể trông thấy hết nhờ một thứ ánh sáng xám nhờ nhờ như ánh bình minh. Và trong khi cậu đang băn khoăn xem xét xung quanh thì có một vật bập bềnh trôi xuôi dòng nước chảy xiết đã làm cậu sửng sốt đến nỗi suýt nữa lại ngã xuống nước.
Thứ mà cậu trông thấy đầu tiên là những chiếc gạc, lười nhác hết lật bên này lại quay bên kia, như thể chiếc đầu khổng lồ đang tự gật gù. Rồi màu sắc hiện ra, xanh, vàng rồi cả đỏ, rực rỡ như khi cậu trông thấy lần đầu vào sáng Giáng sinh. Cậu không thấy được từng đường nét cụ thể trên khuôn mặt kỳ lạ ấy, không thấy được cặp mắt giống mắt chim hay đôi tai vểnh như tai sói. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là chiếc đầu hóa trang, món quà bí ẩn ông già người Jamaica đã nhờ anh Stephen gửi tặng cậu, tài sản quý giá nhất trên đời của cậu.
Will bật lên một tiếng kêu nấc nghẹn, liều lĩnh lao về phía trước định tóm lấy chiếc đầu hóa trang trước khi dòng nước cuốn nó đi quá xa; nhưng cậu bị trượt chân khi nhảy xuống, và trước khi lấy lại được thăng bằng thì cái đầu rực rỡ kỳ quái ấy đã bập bềnh trôi đi mất hút. Will liền chạy dọc theo dòng nước; nó là một vật của những Cổ Nhân, là quà của anh Stephen, và cậu đã để mất nó; cậu phải lấy lại được nó bằng mọi giá. Nhưng cậu đang chạy thì một ký ức bỗng hiện về, và cậu dừng lại. “Lời khuyên thứ hai,” cụ George đã nói, “hãy nhớ rằng không pháp thuật nào điều khiển được dòng nước đang chảy.” Cái đầu ở trong dòng nước đang chảy, chỉ hơi quá lộ liễu thôi. Nhưng chừng nào nó còn ở đó thì không kẻ nào có thể làm hỏng hay sử dụng nó sai mục đích cả.
Will miễn cưỡng gạt ý nghĩ về cái đầu hóa trang ra khỏi tâm trí mình. Quảng Trường rộng lớn trải rộng ra trước mắt cậu, tự phát ra một thứ ánh sáng lạ kỳ. Không có một chuyển động. Thậm chí đàn gia súc quanh năm suốt tháng vẫn gặm cỏ ở đây, lảng vảng đâu đó như những bóng ma trong ngày sương mù, giờ cũng đã tìm chỗ trú ẩn trong các trang trại để trốn chạy mưa tuyết. Will thận trọng đi tiếp. Rồi tiếng nước chảy vẫn luôn vang trong tai cậu đã bắt đầu thay đổi, mạnh mẽ hơn, và trước mặt cậu, dòng nước hung bạo nhấn chìm cả đường Thung Lũng Thợ Săn đang vặn mình nhập vào một con suối làng, trước đây nhỏ xíu nhưng giờ dâng đầy thành một con sông trắng xóa ào ào đổ qua Quảng Trường rồi chảy đi tứ phía. Con đường lúc này biến thành một dòng sông uốn lượn ngoằn ngoèo, cuộn chảy không ngừng, hắt ra một thứ ánh sáng lờ mờ; Will có cảm giác cụ George đã đi về phía ấy. Cậu cũng muốn đi theo con đường đó, nhưng cậu cảm thấy mình cần phải ở lại con sông này; bằng linh cảm của Cổ Nhân, cậu biết nó sẽ chỉ cho cậu cách đưa con ngựa trắng đến với Thợ Săn.
Nhưng ai là Thợ Săn, và con bạch mã đang ở đâu?
Will rón rén bước về phía trước, men theo bờ tuyết lổn nhổn ven dòng sông mới tràn bờ. Những cây liêu đã bị xén ngọn thấp lè tè xếp hàng hai bên. Rồi đột nhiên, từ hàng cây tối đen bên kia sông, một bóng trắng lao ra. Một ánh sáng màu trắng bạc hiện ra trong bóng tối lờ mờ, và trong mưa tuyết, con bạch má khổng lồ của Ánh Sáng đã sừng sững trước mặt Will, hơi thở như những đám mây vờn trong màn mưa. Con ngựa cao như một cái cây, những sợi bờm trắng phấp phới trước gió.
Will chạm nhẹ vào nó. “Ngươi sẽ chở ta chứ?” Cậu hỏi bằng Cổ Ngữ. “Như ngươi từng làm trước đây ấy?”
Cậu vừa dứt lời thì gió nổi lên mạnh hơn, những tia chớp loằng ngoằng cuối chân trời cũng tiến lại gần hơn. Con ngựa trắng run rẩy, ngẩng phắt đầu lên. Nhưng gần như ngay lập tức nó lại trở nên bình thản, và linh tính cũng mách bảo Will rằng dông bão đang nổi lên đây không phải cơn bão do Bóng Tối gây ra. Nó đã nằm trong dự tính. Nó là một trong số những điều sẽ phải đến. Ánh Sáng đang trỗi dậy, trước khi Bóng Tối kịp làm điều đó.
Will kiểm tra lại để chắc chắn các Dấu Hiệu vẫn an toàn trên thắt lưng, rồi cũng như trước đây, cậu giơ tay nắm những món lông dài thô ráp trên cỗ bờm trắng. Ngay lập tức cậu thấy đầu óc quay cuồng, và lại nghe thấy tiếng nhạc quen thuộc, rất rõ nhưng ở rất xa, âm thanh như tiếng chuông ngân vang trong đầu cậu, trở đi trở lại một điệp khúc làm xao động trái tim - cho đến khi có một cái lắc mạnh, cả thế giới thay đổi, tiếng nhạc vụt tắt, và cậu đã ở trên lưng con bạch mã, hiên ngang đi giữa hai hàng liễu.
Chớp giật ngoằn ngoèo trên bầu trời đang gầm gừ giận dữ. Cơ bắp trên tấm lưng rộng lớn của con bạch mã cuộn lên dưới mình Will, và cậu bám chặt vào cỗ bờm dài khi con ngựa lao qua Quảng Trường, vượt qua những ngọn đồi nhỏ và những khe núi đầy tuyết, móng cào trên mặt đất làm thành một vệt băng. Trong tiếng gió ào ào, khi đang áp sát vào cái cổ cong cong của con ngựa, cậu tưởng như nghe thấy một âm thanh kỳ lạ vang trong gió, như tiếng kêu của một đàn ngỗng di cư đang bay hên cao. Âm thanh dường như uốn lượn quanh cậu và con ngựa, bay lên phía trước rồi lắng dần và mất hút.
Con bạch mã chồm lên; Will bám chặt hơn trong khi cả hai băng qua những hàng rào, đường phố và những bức tường, tất cả dần hiện ra trong lớp tuyết đang tan. Rồi một âm thanh mới vang lên bên tai cậu, to hơn cả tiếng gió hay tiếng sấm, và cậu thấy trước mặt mình một tấm kính đen gợn sóng, lấp lánh, và hiểu rằng họ đã đến sông Thames.
Con sông rộng hơn nhiều so với trước đây cậu từng thấy. Hơn một tuần nay, nó đã bị đóng chặt và co lại bởi những bức tường băng; giờ đây nó phá tan băng tuyết, tung bọt trắng xóa và sôi réo ầm ầm, cuốn phăng những đụn tuyết và những tảng băng trôi dập dềnh. Đây không còn là con sông nữa, mà là cơn cuồng nộ của nước. Nó rít và gầm réo một cách bất thường. Khi nhìn dòng Thames đó, Will cảm nhận một nỗi kinh hoàng mà chưa lần nào nó gây ra cho cậu; sự hoang dã của dòng sông hệt như của một thứ thuộc Bóng Tối, một thứ Will không thể hiểu cũng như không thể khống chế được. Nhưng cậu biết con sông không thuộc Bóng Tối, nó nằm ngoài cả Ánh Sáng lẫn Bóng Tối, là một trong những thứ cổ xưa vốn xuất hiện từ thuở sơ khai. Những thứ cổ xưa ấy: lửa, nước, đá… gỗ… và sau khi loài người xuất hiện, đồng và sắt… Con sông đã được giải thoát và sẽ chảy theo hướng nó muốn. “Con sông sẽ chảy về thung lũng…” ông Merriman từng nói như thế.
Con bạch mã dừng lại lưỡng lự bên mép dòng nước lạnh ngắt hung bạo, rồi lấy đà và nhảy qua. Chỉ khi họ đã băng qua con sông cuộn sóng, Will mới trông thấy hòn đảo, một hòn đảo nằm ở chỗ trước đây không hề có hòn đào nào, giữa dòng nước xiết hung tợn này và bị chia cắt bởi những khe nước lấp lánh kỳ lạ. Will thầm nghĩ, khi con ngựa đỗ phịch xuống mặt đất giữa đám cây tối đen trơ trụi: đây là một quả đồi thì đúng hơn, một phần đất nhô cao bị nước cắt rời. Và đột nhiên cậu biết rõ rằng cậu sẽ gặp một mối nguy hiểm rất lớn tại đây. Đây là nơi thử thách cậu, trên hòn đảo mà lại không phải là đảo này. Cậu lại ngước lên trời và thầm lặng gọi ông Merriman trong tuyệt vọng; nhưng ông Merriman không tới, cũng không có bất cứ dấu hiệu hay tiếng nói nào của ông đáp lại trong tâm trí cậu cả.
Bão vẫn chưa tan, nhưng gió đã lặng hơn đôi chút; tiếng con sông gầm lên to hơn hết thảy. Con bạch mã cúi đầu và Will vụng về trườn xuống.
Giữa những đống tuyết, chỗ thì đóng thành băng cứng, chỗ thì lại tan chảy mềm nhũn làm cậu lún đến tận đùi, Will bắt đầu hành trình khám phá hòn đảo xa lạ này. Mới đầu cậu tưởng hòn đảo hình tròn, nhưng thực ra nó có dạng một quả trứng, điểm cao nhất nằm cuối hòn đảo, nơi con bạch mã đang đứng. Cây cối mọc quanh chân đồi; ở phía trên là một con dốc phủ tuyết nhưng không bị đóng băng, ở trên là một đỉnh đồi phủ cây bụi lởm chởm, một cây sồi cổ thụ thân đầy mấu đơn độc vượt hẳn lên trên. Lạ nhất là giữa lớp tuyết phủ dưới gốc cây cổ thụ này, lại có bốn dòng nước chạy qua cồn đảo, chia nó ra làm tư. Con bạch mã đứng bất động, sấm rền vang giữa bầu trời nhấp nhoáng. Will trèo lên cây sồi cổ thụ quan sát dòng nước gần nhất trào ra từ dưới gốc cây to đùng chất đầy tuyết. Và tiếng hát vang lên.
Đó lời một đỉệu hát không lời; theo gió bay đến; tiếng hát cao, mảnh, than vãn ớn lạnh không thể xác định giai điệu hay khuông nhạc. Nó vẳng lại từ rất xa và nghe không lấy gì làm dễ chịu. Tiếng hát ấy đã khiến cậu đờ đẫn, làm chệch hướng suy nghĩ của cậu, khiến cậu không nghĩ được về bất kỳ điều gì khác ngoại trừ những việc vừa xảy ra. Will cảm giác mình đang mọc rễ, tựa như cái cây bên trên cậu vậy. Trong lúc bị cuốn vào tiếng hát, cậu trông thấy trên một cành sồi thấp gần chạm vào đầu cậu, có một nhánh cây không hiểu sao lại cuốn hút đến nỗi cậu chẳng thể làm gỉ khác ngoài việc đứng nhìn trân trân, như thể nó chứa đựng cả thế giới trong mình. Cậu nhìn chăm chú một lúc lâu, mắt đưa đi đưa lại dọc nhánh cây nhỏ bé, lâu đến nỗi cậu có cảm giác như hàng tháng trời đã trôi qua, trong khi tiếng hát lạ lùng, cao vút ấy vẫn vang lên, xuất phát từ một nơi xa xăm nào đó trên bầu trời. Rồi đột nhiên tiếng hát ngưng bặt, và cậu thấy mình đang đứng đờ ra, mũi gần như dí sát vào một nhánh sồi rất đỗi bình thường.
Khi đó, Will liền hiểu ra rằng Bóng Tối cũng có cách thức riêng để đẩy thậm chí một Cổ Nhân như cậu ra khỏi Thời Gian hiện tại, khi chúng cần một không gian riêng để tiến hành những ma thuật của mình. Vì đứng trước mặt cậu, cạnh cây sồi khổng lồ, chính là Hawkin.
Lúc này có thể dễ dàng hơn nhiều để nhận ra lão là Hawkin, mặc dù xét về tuổi tác thì vẫn là Kẻ Lang Thang. Will có cảm giác cậu đang đứng đối diện với hai con người trong một thân xác. Hawkin khoác áo choàng nhung màu xanh; dường như vẫn còn mới, với một dải đăngten trắng quanh cổ áo. Nhưng cái vóc dáng trong lớp áo choàng kia không còn rắn chắc và nhanh nhẹn như trước; người lão đã nhỏ hơn, teo tóp và còng đi vì tuổi tác. Khuôn mặt thì nhăn nheo, méo mó dưới mớ tóc hoa râm dài và lưa thưa, bao thế kỷ trôi qua đã tàn phá bộ dạng Hawkin chỉ để lại cho lão đôi mắt sáng quắc không hề thay đổi. Từ phía bên kia đống tuyết, đôi mắt ấy đang nhìn Will đầy lạnh lùng thù địch.
“Chị ngươi đang ở đây,” Hawkin nói.
Will không thể ngăn mình liếc nhìn quanh hòn đảo. Nhưng nó vẫn trơ trọi như trước.
Cậu lạnh lùng nói: “Chị ấy không ở đây. Ông không thể lừa tôi bằng một trò ngu xuẩn như thế đâu.”
Đôi mắt ấy nheo lại. “Đồ ngạo mạn,” Hawkin rít lên. “Tên Cổ Nhân có Món Quà Pháp Thuật kia, ngươi chẳng thể nhìn thấy tất cả mọi thứ trên thế gian đâu, cũng như các chủ nhân của ngươi vậy. Chị Mary của ngươi đang ở đây, tại nơị này, mặc dù ngươi không thể thấy cô ta. Cuộc gặp này là để chủ nhân của ta, ngài Kỵ Sĩ, thỏa thuận với ngươi một điều duy nhất. Các Dấu Hiệu, đổi lấy chị ngươi. Ngươi chắc chắn không có nhiều sự lựa chọn đâu. Những kẻ như các ngươi vốn rất giỏi mạo hiểm tính mạng của người khác,” cái miệng già nua chua chát nhếch lên khinh bỉ, “nhưng ta không nghĩ là Will Stanton lại muốn chứng kiến chị mình chết.”
Will nói: “Ta không thấy chị ấy đâu cả. Ta vẫn không tin chị ấy đang ở đây.”
Hawkin nhìn Will chằm chặp và cất tiếng gọi vào không gian trống trải: “Chủ nhân?” Ngay lập tức tiếng hát không lời lại vút lên, đẩy Will trở lại trạng thái đờ đẫn ấm áp và dễ chịu như ánh mặt trời mùa hạ nhưng đồng thời cũng vô cùng đáng sợ khi vòng kẹp êm ái của nó bám chặt vào óc cậu không rời. Khi cậu lắng nghe, tiếng hát đã làm cậu thay đổi, khiến cậu quên đi những căng thẳng trong cuộc chiến giành lại Ánh Sáng, và lần này làm cậu mải mê ngắm nghía những cái bóng và những hố sâu tạo thành hoa văn trên một mảng tuyết gần chân cậu. Cậu đứng đó, toàn thân thả lỏng và thư giãn, mắt hết dán chặt vào một điểm băng trắng ở chỗ này, lại chăm chăm nhìn một hố đen ở chỗ kia, và tiếng hát rên rỉ bên tai cậu như tiếng gió luồn qua những khe hở của một căn nhà đổ nát.
Rồi nó lại ngưng bặt, không còn gì nữa, và choáng váng như bị dội một gáo nước lạnh, Will phát hiện ra cái mà cậu đang nhìn chăm chăm không phải những chiếc bóng in trên tuyết mà chính là những đường nét trên khuôn mặt chị Mary của cậu. Cô nằm đó trên tuyết, trong bộ quần áo đã mặc khi Will nhìn thấy cô lần cuối; dù vẫn sống và không bị thương tích gì, nhưng cô nhìn cậu trân trân đờ đẫn, không có bất kỳ dấu hiệu gì cho thấy cô nhận ra cậu hay biết mình đang ở đâu. Thực ra, Will buồn bã nghĩ, chính cậu cũng không biết Mary đang ở đâu, vì dù cậu đang nhìn thấy hình hài của cô nhưng rất có thể vật đang nằm trên tuyết đó không phải chị cậu. Cậu bước đến để chạm vào người chị, và đúng như cậu đã dự đoán, cô hoàn toàn biến mất, nơi cô vừa nằm chỉ còn lại những cái bóng in trên tuyết như lúc trước.
“Ngươi thấy đấy,” Hawkin lên tiếng, lão vẫn đứng cạnh gốc sồi. “Có những điều Bóng Tối có thể làm được, rất nhiều thứ, mà ngươi và các chủ nhân của ngươi không thể kiểm soát được.”
“Điều đó thì đã quá rõ rồi,” Will nói. “Nếu không thì đã chẳng còn sự tồn tại của cái gọi là Bóng Tối nữa, phải không? Chúng ta chỉ việc bảo chúng xéo đi cho khuất mắt thôi.”
Hawkin mỉm cười, không hề nao núng. Lão nhẹ nhàng nói: “Nhưng Bóng Tối sẽ không bao giờ rời đi. Một khi đã xuất hiện, nó sẽ phá tan mọi thứ cản trở bước đi của nó. Và Bóng Tối sẽ luôn xuất hiện, anh bạn trẻ của ta ạ, và sẽ luôn chiến thắng. Như ngươi thấy đấy, chúng ta đã có chị ngươi. Giờ thì ngươi sẽ đưa những Dấu Hiệu cho ta.”
“Đưa chúng cho ngươi ư?” Will khỉnh bỉ nói. “Đưa cho một kẻ đê tiện đã bán mình cho kẻ địch ư? Không đời nào!”
Trong một thoáng, cậu thấy hai nắm tay của lão siết chặt lại dưới cổ tay áo choàng bằng nhung xanh. Nhưng lão Hawkin này đã già, già lắm rồi, không dễ bị xúc động nữa, lão biết tự kiềm chế bản thân vì giờ đây lão không còn là một Kẻ Lang Thang vơ vẩn nữa mà là sứ giả của Bóng Tối. Trong giọng nói của lão dù có một thoáng giận dữ: “Tốt hơn hết hãy chấp nhận trao đổi với sứ giả của Bóng Tối đi, nhóc con. Nếu không những thứ ngươi gọi đến sẽ vượt xa những gì ngươi muốn nhìn thấy đấy.”
Chớp nhập nhoằng và sấm nổ ầm ầm trên bầu trời, một ánh sáng rực rỡ vụt lóe lên giữa vùng nước tối đen đang gào réo, rọi vào cây sồi cổ thụ sừng sững trên hòn đảo nhỏ và cái vóc dáng trong chiếc áo choàng xanh đang cúi xuống bên cạnh. Will nói: “Ngươi là tay sai của Bóng Tối. Ngươi đã chọn con đường bội phản. Ngươi chẳng là gì hết. Ta sẽ không thỏa thuận với ngươi.”
Mặt Hawkin méo đi khi lão chòng chọc nhìn cậu một cách nham hiểm; rồi lão quay ra phía Quảng Trường im ắng đang chìm trong bóng tối và gọi lớn: “Chủ nhân!” Rồi lão gọi tiếp, tiếng gọi lần này biến thành một tiếng thét đầy giận dữ: “Chủ nhân!”
Will đứng đó, bình thản, chờ đợi. Ở rìa đảo, cậu thấy con bạch mã của Ánh Sáng, gần như lẫn vào trong tuyết, ngẩng đầu hít một hơi rồi nhẹ nhàng thở ra. Nó nhìn Will như thể định nói gì đó với cậu; rồi quay về hướng lúc trước họ đã đi đến và phi nước kiệu biến mất.
Chỉ vài giây sau, một cái gì đó xuất hiện. Không có bất kỳ âm thanh nào ngoài tiếng sông chảy ầm ầm và tiếng sấm rền vang báo hiệu giông tố sắp nổi lên. Vật đó tiến đến không một tiếng động. Một cột sương đen khổng lồ như vòi rồng, xoáy thẳng đứng giữa bầu trời và mặt đất với tốc độ kinh hoàng. Hai đầu cột đen ấy có vẻ rộng và đặc, còn phần trung tâm thì lại thay đổi liên tục, lúc mỏng lúc dày; nó uốn mình đi tới, tựa như đang nhảy một vũ điệu tử thần. Nó là một hố đen trên trái đất, con ma đen sì đang xoáy tít ấy; hiện thân của một phần trong cõi hư vô vĩnh cửu của Bóng Tối. Trong lúc cái cột khổng lồ ấy uốn lượn tiến đến gần hòn đảo hơn, Will không thể không lùi lại, mọi phần trên cơ thể cậu đều hoảng hốt thét lên câm lặng.
Chiếc cột đen lắc lư trước mặt Will, bao trùm lên toàn bộ hòn đảo. Màn sương lặng lẽ xoáy tít của nó không hề thay đổi, mà tách ra làm đôi, và giữa lớp sương ấy hiện ra tên Kỵ Sĩ Bóng Tối. Hắn đứng đó, sương quấn quýt quanh đầu và hai bàn tay, mỉm cười với Will: một nụ cười nhạt thếch lạnh tanh, với hai hàng lông mày rậm nhíu lại một cách đáng sợ. Hắn vẫn mặc toàn màu đen, nhưng quần áo lại hiện đại đến không ngờ; hắn mặc một chiếc áo đi mưa màu đen to sụ và chiếc quần bằng vải bò thô cũng màu đen.
Hắn nhích người sang một bên, nụ cười lạnh tanh không hề thay đổi, và con ngựa của hắn lao ra từ cái cột khói đen ngoằn ngoèo đó, một con quái vật khổng lồ màu đen với đôi mắt rực lửa, và trên lưng nó là Mary.
“Chào Will,” Mary hớn hở nói.
Will nhìn cô. “Chào chị.”
“Chị đoán là em đang tìm chị,” Mary nói. “Hy vọng không ai lo lắng quá. Chị chỉ ra ngoài cưỡi ngựa một chút, khoảng một, hai phút thôi. Chị muốn nói là khi chị đi tìm Max ấy mà, chị đã gặp chú Mitothin và biết được bố đã nhờ chú ấy đi tìm chị, ờ, rõ ràng là mọi việc đều đã ổn cả. Chị đã có một cuộc dạo chơi trên lưng ngựa rất thú vị. Nó quả là một con ngựa tuyệt vời… và hôm nay là một ngày tuyệt vời…”
Tiếng sấm rền vang dưới đám mây xám đen đang ùn ùn chất thành đống. Will buồn bã cựa mình. Tên Kỵ Sĩ nhìn cậu, lớn giọng: “Ở đây có một ít đường cho con ngựa này, Mary. Chú nghĩ là nó xứng đáng được ăn chỗ đường này, phải không nào?” Và hắn giơ tay lên, bàn tay trống không.
“Ô, cảm ơn chú,” Mary vui vẻ nói. Cô vươn người về phía trước qua cổ ngựa và nhận lấy những viên đường tưởng tượng từ tay tên Kỵ Sĩ. Rồi cô đưa tay xuống miệng con ngựa, và con vật liếm nhanh lòng bàn tay cô. Mary cười rạng rỡ. “Đó,” cô nói. “Có ngon không?”
Tên Kỵ Sĩ Bóng Tối vẫn nhìn Will chằm chằm, miệng nhếch thêm một chút. Hắn mở lòng bàn tay nhại lại cử chỉ của Mary, và Will nhìn thấy trong bàn tay ấy một chiếc hộp trắng nhỏ, làm bằng kính mờ, trên nắp khắc nổi những dòng chữ rune.
“Ta đã nắm được chị ngươi trong chiếc hộp này rồỉ, hỡi Cổ Nhân,” tên Kỵ Sĩ nói, vẻ đắc thắng thoáng hiện trong cái giọng mũi lơ lớ ấy. “Bị giam giữ bởi những dấu hiệu Lời Thần Chú Cổ của Lir, những lời thần chú đã được viết trên một chiếc nhẫn nào đó cách đây rất lâu rồi và sau đó thì bị thất lạc. Lẽ ra ngươi phải xem xét kỹ càng hơn cái nhẫn của mẹ ngươi, ngươi và tên thợ kim hoàn ngốc nghếch bố ngươi, và cả Lyon ông thầy bất cẩn của ngươi nữa. Thật là bất cẩn… Bằng lời thần chú đó ta đã khống chế được chị ngươi bằng pháp vật, và khống chế cả ngươi nữa, ngươi sẽ không thể nào giải cứu được chị mình đâu. Xem đây!”
Hắn mở chiếc hộp nhỏ ra, Will trông thấy bên trong là một miếng gỗ tròn chạm trổ tinh tế, xung quanh cuốn một sợi chỉ vàng mỏng mảnh. Cậu thất đảm nhớ lại vật trang trí duy nhất bị mất khỏi bộ sưu tập quà Giáng sinh chính là tác phẩm được Trại chủ Dawson khắc chạm dành tặng gia đình Stanton. Và sợi tóc vàng mà Mitothin, ông khách của bố cậu, đã nhặt trên ống tay áo của Mary bằng một cử chỉ lịch sự rất đỗi thông thường.
“Một dấu hiệu ngày sinh và một sợi tóc là những pháp vật tuyệt vời,” Kỵ Sĩ nói. “Ngày xưa khi tất cả chúng ta ít tinh vi hơn, thì tất nhiên pháp thuật này có thể được thực hiện thậm chí cả bằng mặt đất nơi bàn chân người đó đã đặt lên.”
“Hoặc nơi mà bóng của anh ta đã đi qua,” Will tiếp lời.
“Nhưng Bóng Tối không có bóng,” tên Kỵ Sĩ khẽ nói.
“Và một Cổ Nhân thì không có dấu hiệu ngày sinh,” Will nói.
Cậu thấy sự nghi ngờ thoáng hiện trên khuôn mặt trắng bệch dữ dằn. Kỵ Sĩ đóng chiếc hộp trắng lại và bỏ vào trong túi. “Vớ vẩn,” hắn sẵng giọng.
Will trầm ngâm nhìn hắn. Cậu lên tiếng: “Những người thầy Ánh Sáng không làm bất kỳ điều gì mà không có lý do, Kỵ Sĩ ạ. Dù lý do ấy có thể phải mất rất nhiều năm mới khám phá ra được. Mười một năm trước đây, Trại chủ Dawson của Ánh Sáng đã khắc một dấu hiệu cho ngày sinh của ta - và nếu ông ấy đã khắc dấu hiệu ấy với chữ cái đầu tên của ta, theo truyền thống, thì có lẽ ngươi đã có thể sử dụng nó để chế ngự ta bằng sức mạnh của ngươi. Nhưng ông ấy đã khắc nó theo dấu hiệu của ánh sáng, một vòng tròn bị cắt bởi chữ thập. Và như ngươi biết đấy, Bóng Tối không thể dùng dấu hiệu đó cho mục đích riêng của chúng. Đó là điều cấm kị.”
Will ngước nhìn Kỵ Sĩ. Cậu nói: “Ta nghĩ ngươi lại đang cố lừa ta, ngài Mitothin ạ. Ngài Mitothin, Kỵ Sĩ Bóng Tối cưỡi ngựa đen.”
Kỵ Sĩ quắc mắt. “Nhưng ngươi vẫn hoàn toàn bất lực,” hắn nói. “Vì ta đã có chị ngươi. Và ngươi không thể cứu nó trừ khi trao cho ta các Dấu Hiệu.” Vẻ nham hiểm một lần nữa lại lộ rõ trong mắt hắn. “Cuốn Sách quý giá và vĩ đại của ngươi có thể đã dạy ngươi rằng ta không thể làm hại những người có cùng huyết thống với một Cổ Nhân - nhưng hãy nhìn cô ta đi. Nó sẽ làm bất kỳ điều gì ta nói. Thậm chí nhảy xuống sông Thames đang cuồn cuộn chảy này. Ngươi biết đấy, có những mánh khóe mà các ngươi đã bỏ qua. Thật đơn giản khi thuyết phục người ta lao vào những tình thế khiến họ tự gây tai nạn cho mình. Như mẹ ngươi chẳng hạn, thật vụng về.”
Hắn lại mỉm cười với Will. Will ném trả lại bằng cái nhìn chất chứa căm thù; rồi cậu quay nhìn khuôn mặt hớn hở vô thức của Mary và đau đớn vì chị mình phải ở trong tình trạng ấy. Cậu nghĩ: và tất cả chỉ vì chị ấy là chị mình. Tất cả là tại mình.
Nhưng một giọng nói câm lặng vang lên trong đầu cậu: “Không phải vì cậu. Vì ánh sáng. Vì tất cả điều đó phải diễn ra để ngăn Bóng Tối trỗi dậy.” Will sung sướng biết rằng cậu không còn một mình nữa, biết rằng vì tên Kỵ Sĩ đã lên đường, nên ông Merriman lại ở bên cậu, sẵn sàng giúp đỡ khi cần.
Tên Kỵ Sĩ chìa tay ra. “Will Stanton, đã đến lúc thỏa thuận rồi. Hãy trao các Dấu Hiệu cho ta.”
Will hít một hơi thật sâu, hơi thở sâu nhất trong đời cậu, rồi từ từ thở ra. Cậu trả lời: “Không.”
Sự sửng sốt là một cảm giác mà tên Kỵ Sĩ Bóng Tối đã quên từ lâu rồi. Đôi mắt xanh sáng quắc nhìn Will với vẻ hoàn toàn không tin nổi. “Nhưng ngươi biết ta sẽ làm gì chứ?”
“Có,” Will đáp. “Ta biết. Nhưng ta sẽ không trao các Dấu Hiệu cho ngươi.”
Suốt một lúc lâu tên Kỵ Sĩ nhìn Will qua cột sương đen khổng lồ vẫn đang xoáy tít quanh chỗ hắn đứng; trên mặt hắn nét kinh ngạc và giận dữ trộn lẫn vẻ tôn trọng đầy nham hiểm. Rồi hắn quay ngoắt về phía con ngựa đen và Mary rồi hét lớn mấy tiếng bằng một thứ ngôn ngữ mà bằng vào cảm giác ớn lạnh xuyên suốt qua xương khi chúng vang lên, Will đoán đó hẳn là thần chú của Bóng Tối, vốn rất ít khi được đọc to lên. Con ngựa khổng lồ lắc mạnh đầu, hàm răng trắng ởn nhe ra, và chồm về phía trước mang theo cả Mary ngơ ngẩn đang bám chặt lấy chiếc bờm cười thích thú. Nó lao đến chỗ bờ tuyết nhô ra bao quanh dòng sông và dừng lại.
Will siết chặt những Dấu Hiệu trên thắt lưng, lo sợ đến thắt tim vì sự liều lĩnh của mình, và lấy hết sức triệu tập sức mạnh của ánh sáng đến hỗ trợ.
Con ngựa đen hí vang trời và lao vào khoảng không trên dòng Thames. Đang ở giữa chừng cú nhảy, nó bất ngờ vặn mình, nhảy chụm bốn vó, và Mary thét lên kinh hoàng, cuống cuồng bám lấy cổ con ngựa. Nhưng cô mất thăng bằng và rơi xuống.
Will đã tưởng cậu sẽ ngất đi khi cô lộn vòng trong không trung, sự liều lĩnh của cậu đang biến thành tai họa; thế nhưng thay vì rơi tõm xuống dòng sông, Mary lại ngã vào bãi tuyết mềm ẩm ướt gần bờ. Tên Kỵ Sĩ Bóng Tối điên cuồng chửi rủa, lao người về phía trước. Nhưng hắn không kịp chạm vào Mary. Hắn chưa bước hết một bước thì một luồng chớp cực mạnh bỗng xuất hiện từ trong cơn giông vốn vẫn đang âm ỉ và giờ gần như đã trùm khắp bầu trời, cùng với một tiếng sấm rền vang, và trong ánh chớp cùng tiếng ầm ầm ấy, một bóng trắng sáng sà xuống hòn đảo, lao về phía Mary, nhấc cô lên, và chỉ trong tích tắc cô đã biến mất, được đưa đến một nơi an toàn. Will hầu như không kịp nhìn thấy dáng người gầy gầy của ông Merriman trong chiếc áo choàng có mũ, cưỡi trên con bạch mã của Ánh Sáng, ôm lấy Mary với mái tóc vàng tung bay. Rồi dông bão nổ ra, và cả thế giới quay cuồng trong ánh lửa rừng rực quanh đầu cậu.
Trái đất rung chuyển. Trong giây lát, cậu trông thấy lâu đài Windsor in bóng trên bầu trời sáng trắng. Ánh chớp làm lóa mắt cậu, sấm sét ầm vang dội vào đầu cậu. Rồi, xuyên qua tiếng hát vang lên trong đôi tai đã ù đặc, cậu nghe thấy có tiếng răng rắc, kẽo kẹt rất lạ ở gần đấy. Cậu quay phắt lại. Sau lưng cậu, cây sồi cổ thụ đã nứt làm đôi, cháy bừng bừng với những ngọn lửa khổng lồ, và cậu kinh ngạc nhận ra bốn dòng nước hung hãn trên hòn đảo đang càng lúc càng thu lại, nhỏ dần rồi biến mất. Cậu lo sợ ngước lên tìm cái cột đen của Bóng Tối, nhưng nó đã biến mất trong cơn thịnh nộ của dông bão, và sự kỳ dị của tất cả mọi thứ đang diễn ra xung quanh khiến Will quên bẵng nó.
Vì không chỉ cây sồi bị tách làm đôi và bật gốc. Chính hòn đảo cũng đang thay đổi, vỡ ra, chìm dần xuống sông. Will nhìn chằm chằm, không thốt nổi nên lời, giờ cậu đang đứng ở rìa một phần đất phủ tuyết lộ ra khi những dòng suối đã biến mất, trong khi quanh cậu tuyết và đất đá lở ra trôi tuột xuống dòng Thames đang gầm rú. Phía bên trên, cậu trông thấy một thứ kỳ lạ hơn hết thảy. Một cái gì đó đang hiện ra từ hòn đảo, khi tuyết và đất đổ xuống. Ở nơi mà lúc trước là phần cao hơn của hòn đảo, thứ nhô lên đầu tiên là một vật hình đầu hươu thô ráp với những chiếc gạc vươn cao. Nó có màu vàng kim, lấp lánh ngay cả trong ánh sáng lờ mờ lúc này. Thêm nhiều phần nữa hiện ra; bây giờ Will đã có thể trông thấy toàn bộ con hươu, một con vật vàng rực tuyệt đẹp, đang trong tư thế nhảy lên. Tiếp theo đó là cái bệ uốn cong lạ mắt nơi con hươu đang đứng, như thể để phóng đi; phía sau cái bệ này là một vật nằm ngang rất, rất dài, bằng chiều dài của cả hòn đảo, đang nhô dầu lên ở đầu bên kia thành một chóp nhọn cao vút, ánh vàng, lần này ở trên đầu có cái gì đó từa tựa hình xoáy ốc. Và đột nhiên Will nhận ra cậu đang nhìn một con tàu. Cái bệ là mũi thuyền vươn cao uốn cong, và con hươu chính là hình chạm ở mũi tàu.
Hết sức kinh ngạc, cậu tiến về phía nó, và con sông lẳng lặng kéo đến sau lưng cậu, cho tới khi không còn gì trên đảo ngoại trừ con tàu dài nằm trên mỏm đất cuối cùng và đống tuyết cuối cùng bao quanh nó. Will đứng nhìn không chớp mắt. Cậu chưa bao giờ thấy một con tàu nào như thế. Con tàu được làm từ những tấm ván gỗ dài gối chồng lên nhau giống như những thanh gỗ hàng rào, nặng và rộng bản; trông có vẻ giống gỗ sồi. Cậu không nhìn thấy cột buồm. Thay vào đó là hàng dãy, hàng dãy chỗ trống dành cho các tay chèo thuyền, phân bố suốt chiều dài thân tàu. Ở trung tâm là một căn phòng trên boong, khiến con tàu trông gần như giống hệt Thuyền Noah[22]. Con tàu không được đóng kín; các cạnh của nó dường như đã bị cắt bỏ, để lại những sống neo ở góc và mái tàu giống như cái vòm. Và bên trong con tàu, dưới mái vòm ấy, một ông vua đang nằm.
Will giật mình lùi lại một chút khi trông thấy vị vua. Cái thân hình mặc áo giáp ấy nằm bất động, thanh kiếm và chiếc khiên ở bên hông, còn châu báu thì chất thành từng đống lấp lánh xung quanh. Ông không đội vương miện. Thay vào đó là một chiếc mũ sắt khổng lồ chạm trổ công phu che kín đầu và gần hết khuôn mặt, trên chỏm mũ là hình một con vật lớn bằng bạc có mõm dài mà Will đoán là lợn rừng. Nhưng ngay cả khi không có vương miện thì đây rõ ràng vẫn là thi thể của một ông vua. Không một ai ở địa vị thấp hơn lại có thể sở hữu những chiếc đĩa bạc, những chiếc túi nạm đá quý, chiếc khiên khổng lồ bằng đồng và sắt, cái bao kiếm chạm trổ cầu kỳ, những chiếc sừng uống rượu viền vàng và hàng đống đồ trang sức. Như có điều gì đó xui khiến, Will quỳ xuống tuyết cung kính cúi đầu. Khi ngẩng đầu lên, cậu nhìn qua mép tàu thấy một vật mà lúc trước cậu không để ý.
Ông vua đang cầm một vật gì đó trong hai bàn tay lặng lẽ khép trên ngực. Đó là một món đồ trang sức khác, nhỏ và sáng lấp lánh. Và khi nhìn thấy vật đó rõ ràng hơn, Will đứng sững như hóa đá, tay bám chặt thành tàu cao bằng gỗ sồi. Món đồ trang sức trong đôi bàn tay bất động của ông vua nằm trên con tàu dài có hình tròn, chia tư bằng một chữ thập. Nó được chế tác từ thủy tinh óng ánh nhiều màu, khắc hình những con rắn, lươn, và cá, cả những con sóng, những đám mây và những gì thuộc về biển cả. Nó thầm lặng cất tiếng gọi Will. Không còn nghi ngờ gì nữa: đó chính là Dấu Hiệu Nước: Dấu Hiệu cuối cùng trong số sáu Dấu Hiệu Vĩ Đại.
Will trèo qua thành con tàu khổng lồ và tiến về phía ông vua. Cậu bước rất cẩn thận để không làm hỏng những công trình tuyệt vời này, những tấm áo choàng bằng da và vải dệt có họa tiết công phu, những đồ trang sức được tráng men và những đồ vàng bạc chạm lộng lẫy. Cậu đứng nhìn hồi lâu khuôn mặt trắng bệch đã bị chiếc mũ hoa văn che mất một nửa, rồi cung kính với tay ra để lấy Dấu Hiệu. Nhưng trước hết cậu phải chạm vào tay vị vua đã băng hà, bàn tay còn lạnh hơn bất kỳ hòn đá nào. Will chùn bước và lùi lại, lưỡng lự.
Giọng ông Merriman khe khẽ vang lên bên tai cậu, rất gần: “Đừng sợ Người.”
Will nuốt nước bọt. “Nhưng… ông ấy chết rồi.”
“Người nằm đây đã một nghìn năm trăm năm rồi, chờ đợi trong lăng tẩm của Người. Vào bất kỳ đêm nào khác trong năm, Người đều không hề có mặt ở nơi này, Người chỉ là cát bụi mà thôi. Đúng vậy Will ạ, hình hài này của Người đã chết rồi. Nhưng linh hồn Người đã thoát ra khỏi hạn định Thời Gian, từ rất lâu rồi.”
“Nhưng lấy cống phẩm của người chết là không đúng.”
“Đó là Dấu Hiệu. Nếu đó không phải là Dấu Hiệu, và nếu sứ mạng của cậu không phải là Người Tìm Dấu Hiệu, Người sẽ không ở đây để trao nó cho cậu. Cầm nó đi.”
Vậy là Will nhoài người qua chiếc quan tài và cầm Dấu Hiệu Nước từ đôi bàn tay lạnh cứng đang nắm hờ của người chết, và từ đâu đó xa xăm, tiếng nhạc của cậu lại thì thầm bên tai rồi biến mất. Cậu quay sang phía thành tàu. Cạnh con tàu là ông Merriman, đang ngồi trên lưng con bạch mã; ông khoác chiếc áo choàng màu xanh thẫm, mái đầu bạc phơ để trần; vẻ căng thẳng hằn lên những vết hõm trên khuôn mặt xương xẩu nhưng niềm vui vẫn rực sáng trong đôi mắt ông.
“Cậu đã làm rất tốt, Will ạ,” ông nói.
Will nhìn chằm chằm Dấu Hiệu trong tay mình. Ánh lấp lánh nó tỏa ra là ánh đa sắc của mọi miếng xà cừ, mọi dải cầu vồng; ánh sáng nhảy nhót trên nó như thể đang nhảy múa trên mặt nước. “Đẹp quá,” cậu thốt lên. Có phần miễn cưỡng, cậu nới lỏng đầu thắt lưng và gắn Dấu Hiệu Nước lên đó, ngay cạnh Dấu Hiệu Lửa đang tỏa sáng.
“Đó là một trong những Dấu Hiệu cổ nhất,” ông Merriman nói. “Và quyền năng nhất. Bây giờ nó đã thuộc về cậu, bọn chúng sẽ vĩnh viễn không thể điều khiển được Mary nữa - câu thần chú ấy đã bị vô hiệu hóa. Nào, chúng ta phải đi thôi.”
Sự lo âu làm giọng ông thêm sắc nhọn; ông đã thấy Will vội bám chặt vào một sống neo khi con tàu dài bất thình lình nghiêng sang một bên. Con tàu dựng đứng, chao đảo đôi chút rồi lật về phía bên kia. Khi loay hoay trèo qua thành tàu. Will thấy nước sông Thames đã dâng cao hơn trong lúc cậu không để ý. Nước vỗ quanh thân con tàu khổng lồ. Chỉ chốc nữa thôi vị vua đã qua đời sẽ yên nghỉ trên phần đất vốn là một hòn đảo.
Con ngựa phi về phía Will, khịt mũi tỏ ý chào, và ngay trong khoảnh khắc kỳ diệu, văng vẳng tiếng nhạc giống lúc trước, Will đã ở trên lưng con bạch mã của Ánh Sáng, ngồi ngay phía trước ông Merriman. Con tàu tròng trành, lắc lư, giờ thì nó đã hoàn toàn trôi nổi, và con bạch mã đứng sang bên quan s