Hợp nhất các Dấu Hiệu
Trong lò rèn thấp mái, Will đứng quay lưng ra cửa, chăm chú nhìn ngọn lửa. Cùng với những cái kéo tay cầm bễ lò rèn của bác John Smith, ngọn lửa lúc màu cam, lúc màu đỏ, lúc màu trắng vàng; hơi ấm tỏa ra khiến Will thấy rất dễ chịu, cảm giác dễ chịu đầu tiên mà cậu có được trong ngày hôm đó. Với một Cổ Nhân thì bị ướt sũng dưới dòng sông băng không phải là vấn đề, nhưng dù sao cậu vẫn cảm thấy phấn chấn hơn khi thấy xương cốt đã bắt đầu ấm áp trở lại. Và khi ngọn lửa thắp sáng căn phòng, nó cũng tỏa sáng tâm trí cậu.
Tuy nhiên ngọn lửa vẫn không làm không gian sáng lên hoàn toàn, vì tất cả những gì Will thấy dường như đều không có hình thù cố định. Không gian như lay động. Dường như chỉ ngọn lửa là hữu hình, còn mọi thứ đều là ảo ảnh.
Cậu thấy ông Merriman nhìn mình với vẻ như mỉm cười.
“Cháu lại có cảm giác đang ở giữa hai thế giới,” Will lên tiếng. “Giống như hôm ở Trang Viên, khi chúng ta cùng lúc ở trong hai lớp Thời Gian.”
“Đúng vậy. Chính là cảm giác đó. Và chúng ta cũng đang trong hoàn cảnh như vậy đấy.”
“Nhưng chúng ta đang trong thời đại của bác thợ rèn,” Will nói. “Chúng ta đã xuyên qua Cánh Cửa.”
Họ đã làm như vậy; cậu, ông Merriman, Cụ Geoge và chú ngựa Pollux khổng lồ. Khi Đàn Chó Săn đã xua Bóng Tối khỏi bầu trời, họ đã rời Quảng Trường mịt mùng ướt át, vượt qua Cánh Cửa để bước vào thời kỳ của sáu thế kỷ trước, nơi xuất xứ của Hawkin, và cũng chính là nơi Will đã bước vào trong buổi sáng sinh nhật tĩnh mịch đầy tuyết rơi. Họ đã đưa Hawkin trở lại thời kỳ của mình lần cuối cùng trên lưng chú ngựa Pollux; và khi tất cả bọn họ đều đã qua Cánh Cửa, cụ Geogre dẫn chú ngựa mang thi thể Hawkin về phía nhà thờ. Và Will biết rằng tại thời của cậu, ở một nơi nào đó trong nghĩa địa làng, đã bị che phủ hoặc bởi các ngôi mộ mới hoặc những tấm bia đã nát vụn gần như không thể đọc nổi, sẽ có nấm mồ của một người tên Hawkin, người đã chết từ thế kỷ mười ba và nằm yên nghỉ tại đó từ bấy đến giờ.
Ông Merriman kéo cậu tới phía trước lò rèn, nơi có một con đường đất cứng nhỏ chạy xuyên qua Thung Lũng Thợ Săn, Đường Cổ. “Hãy lắng nghe,” ông nói.
Will nhìn con đường mấp mô, khu rừng rậm rạp phía bên kia, và màn sương xám lạnh trên bầu trời mới hửng. “Cháu nghe thấy tiếng nước sông,” cậu ngạc nhiên nói.
“À,” ông Merriman thốt lên.
“Nhưng con sông cách đây hàng mấy dặm, tít bên kia Quảng Trường kia mà.”
Ông Merriman nghiêng đầu về phía tiếng nước chảy rì rầm. Đó là âm thanh của một dòng sông đầy nước nhưng không bị ngập, một con sông sau trận mưa to. “Tiếng chúng ta nghe thấy,” ông giải thích, “không phải là tiếng sông Thames mà là âm thanh của thế kỷ hai mươi. Cậu thấy đấy, Will à, các Dấu Hiệu phải được John Wayland Smith hợp nhất tại lò rèn này, ở thời kỳ này - vì không lâu sau đó, lò rèn đã bị phá hủy. Tuy nhiên các Dấu Hiệu vẫn chưa được tập hợp lại cho đến khi có hành trình tìm kiếm của cậu, được tiến hành trong thời đại của cậu. Vì thế sự hợp nhất này phải được thực hiện vào một khoảnh khắc Thời Gian giao giữa hai thời đại, khi những Cổ Nhân có thể nhìn thấy và nghe được cả hai. Cái chúng ta đang nghe thấy không phải là tiếng của một dòng sông thực sự. Đó là tiếng nước chảy trong thời của cậu, dọc theo đường Thung Lũng Thợ Săn do tuyết đang tan đấy.”
Will nghĩ đến tuyết, đến gia đình mình đang bị đe dọa bởi lũ lụt, và bỗng nhiên cậu lại trở thành một chú bé khát khao được ở nhà. Đôi mắt đen thẳm của ông Merriman nhìn cậu đầy cảm thông. “Không lâu nữa đâu,” ông nói.
Tiếng búa thình thịch phát ra từ phía sau; hai người quay đầu lại. John Smith đã thổi xong ống bễ cho ngọn lửa bùng lên trắng-đỏ; ông chuyển sang chỗ chiếc đe trong lúc cái kẹp đã nằm sẵn sàng trước lò lửa sáng rực. Bác không dùng cái búa nặng thông thường của mình, mà dùng một cái búa trông nhỏ đến mức buồn cười trong bàn tay to sù ấy; một dụng cụ nhỏ nhắn giống như những cái Will vẫn thấy bố sử dụng cho đồ trang sức. Tất nhiên rồi, món đồ bác John đang rèn tinh xảo hơn nhiều so với những chiếc móng ngựa mà; một sợi dây bằng vàng, gồm các mắt xích lớn gắn với nhau, dùng để treo các Dấu Hiệu. Các mắt xích đã được xếp thành hàng cạnh tay bác John.
Bác ngước lẽn, mặt hồng lên vì ánh lửa. “Sắp hoàn thành rồi.”
“Rất tốt.” Ông Merriman bỏ họ lại, bước ra con đường bên ngoài. Ông đứng đó một mình, cao và oai nghiêm trong chiếc áo choàng dài màu xanh da trời, mũ trùm bỏ ra sau để lộ mái tóc trắng dày lấp lánh như tuyết. Nhưng ở đây không có tuyết, và mặc dù Will vẫn nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, ở đây cũng không có cả nước nữa…
Rồi sự thay đổi bắt đầu. Ông Merriman dường như bất động. Ông đứng đó quay lưng lại phía họ, tay buông thõng hai bên sườn, im phăng phắc, không hề cử động. Nhưng quanh ông, mọi thứ đều bắt đầu chuyển động. Không gian sôi lên, run rẩy, cây cối, mặt đất và cả bầu trời cùng rung chuyển, nhòa đi, tất cả những gì có thể nhìn thấy được cũng dường như quay tít và hòa vào nhau. Will đứng nhìn thế giới đang chao đảo đó, cảm thấy hơi chóng mặt, rồi dần dần cậu nghe thấy, bên trên tiếng róc rách của con đường-sông vô hình, tiếng rì rầm của vô số giọng nói. Giống như nhìn qua một luồng hơi nóng lung linh, không gian run rẩy xung quanh bắt đầu tách ra thành những vật có thể nhìn thấy được, và cậu thấy một đám đông lờ mờ hiện lên chật ních trên đường, trên những khoảng trống giữa cây cối và khoảng sân trước lò rèn. Họ trông có vẻ không thực, không vững vàng; như những bóng ma có thể tan biến khi chạm vào. Họ mỉm cười với ông Merriman, hướng về nơi ông đang đứng để chào, mặt ông vẫn không quay về phía Will. Đám đông vây quanh ông, háo hức chăm chú nhìn về phía lò rèn như khán giả đợi xem kịch, tuy nhiên, dường như chưa ai trong số họ nhìn thấy Will và bác thợ rèn.
Họ mang đủ vẻ mặt - vui tươi, u sầu, già, trẻ, trắng như giấy, đen như than, đủ các cấp độ màu da màu hồng và nâu; có gương mặt trông hơi quen thuộc, có gương mặt hoàn toàn xa lạ. Will nghĩ cậu nhận ra mấy gương mặt ở bữa tiệc tại trang viên của cô Greythorne, bữa tiệc Giáng sinh thế kỷ mười chín đã đưa Hawkin tới thảm họa và đưa cậu đến với Cuốn Sách Pháp Thuật - và cậu hiểu ra. Tất cả những người này, cái đám đông vô tận được ông Merriman gọi đến bằng cách nào đó, đều là Cổ Nhân. Từ mọi vùng miền, từ khắp nơi trên thế giới họ đã quy tụ về đây để chứng kiến sự hợp nhất của các Dấu Hiệu. Will đột nhiên cảm thấy sợ hãi khao khát được chui xuống đất để chạy trốn khỏi thế giới pháp thuật mới mẻ này của mình.
Cậu nghĩ: họ là bằng hũu của mình, là gia đình mình, giống hệt như gia đình thực sự của mình. Những Cổ Nhân. Mỗi người chúng ta đều được liên kết với nhau vì mục đích cao cả nhất của thế giới. Rồi cậu nhìn thấy đám đông chuyển động, tản ra như một gợn sóng chạy dọc con đường và một vài người bắt đầu di chuyển, tránh sang bên, như để dọn đường. Rồi cậu nghe thấy tiếng nhạc: âm thanh réo rắt, thình thịch của sáo và trống, gần như khôi hài bởi sự đơn điệu của nó, âm thanh cậu từng nghe thấy trong giấc mơ mà có lẽ cũng không phải là mơ. Cậu đứng cứng đờ, hai tay nắm chặt, chờ đợi, và ông Merriman xoay người bước đến đứng cạnh cậu, trong khi một đám diễu hành nhỏ giống hệt trước đây xuyên qua đám đông và bước về phía họ. Xuyên qua đám người đông đúc, một nhóm diễu hành nhỏ gồm những cậu bé đi tới, và thật lạ lùng, nom họ thật hơn những người khác nhiều: vẫn là những cậu thiếu niên trong chiếc áo dài thắt ngang lưng và xà cạp xù xì kỳ lạ, tóc dài ngang vai, mũ vải túm lại lạ mắt. Những người đi trước vẫn mang theo gậy và hàng bó cành bulô, còn những người đi sau vẫn chơi những giai điệu buồn tẻ lặp đi lặp lại của sáo và trống. Ở giữa hai nhóm lại có sáu cậu thiếu niên vác trên vai một cái kiệu kết từ cành cây và lau sậy, mỗi góc có một túm cây nhựa ruồi.
Ông Merriman khẽ nói: “Đầu tiên là vào ngày thánh Stephen, ngày sau Giáng sinh. Sau đó là vào Đêm thứ Mười Hai. Nếu là năm đặc biệt, năm đó sẽ có hai buổi Săn Hồng Tước.”
Nhưng giờ đây. Will đã có thể nhìn rõ chiếc kiệu, và lần này, thậm chí ngay từ đầu trên đó đã chẳng có con chim hồng tước nào hết. Thay vào đó, nằm trên kiệu là một dáng hình mảnh dẻ, chính là Quý Bà, mình khoác áo choàng xanh, tay đeo một chiếc nhẫn lớn màu hồng. Những cậu bé tiến về phía lò rèn và hết sức nhẹ nhàng đặt chiếc kiệu xuống đất. Ông Merriman cúi người chìa tay ra và Quý Bà mở mắt, mỉm cười. Ông đỡ bà xuống kiệu. Tiến về phía Will, bà nắm cả hai tay cậu trong tay mình. “Giỏi lắm, Will Stanton,” bà nói, và từ trong đám đông Cổ Nhân đang tụ tập trên đường nổi lên tiếng rì rầm tán đồng như tiếng gió xào xạc trên cành lá.
Quý Bà quay mặt về phía lò rèn, nơi John đang đứng đợi. Bà hô lớn: “Trên gỗ và trên sắt, hãy để các Dấu Hiệu hợp nhất.”
“Lại đây, Will,” John Smith gọi. Họ cùng nhau tiến đến chỗ cái đe. Will đặt chiếc dây lưng có treo tất cả những Dấu Hiệu mà họ đã tìm được xuống. “Trên gỗ và sắt ư?” Cậu thì thầm.
“Sắt là cái đe,” người thợ rèn khẽ nói. “Gỗ là bệ đe. Cái bệ đe to này luôn được làm bằng gỗ sồi - đúng hơn là gốc sồi, phần khỏe nhất của cây. Chẳng phải trước đây tôi đã nghe thấy ai đó nói cho cháu biết về đặc tính của gỗ sồi rồi đấy ư?” Đôi mắt xanh của bác lấp lánh nhìn Will, rồi bác quay lại với công việc của mình. Bác lấy từng Dấu Hiệu một ra, ghép chúng lại với các mắt xích vàng. Ở chính giữa bác đặt Dấu Hiệu Lửa và Nước; một bên là sắt và Đồng còn bên kia là Gỗ và Đá. Ở mỗi đầu bác gắn thêm một đoạn dây bằng vàng chắc chắn. Bác làm rất nhanh nhẹn và khéo léo, trong lúc Will chăm chú nhìn. Bên ngoài, đám đông Cổ Nhân vẫn đứng im lìm như cỏ đang mọc. Đằng sau tiếng búa gõ của bác thợ rèn và thỉnh thoảng là tiếng rít của ống bễ lò rèn, chẳng còn âm thanh gì khác trừ tiếng nước chảy vọng về từ một dòng sông vô hình; cách xa hàng thế kỷ trong tương lai và lại gần ngay bên cạnh.
“Xong rồi,” cuối cùng bác John thốt lên.
Bác trịnh trọng đưa cho Will chuỗi Dấu Hiệu lấp lánh, khiến Will thở hổn hển trước vẻ đẹp của chúng. Giờ đây khi cầm các Dấu Hiệu trên tay, cậu đột nhiên cảm thấy chúng truyền cho mình một cảm giác dữ dội kỳ lạ như một cơn sốc điện: sự tự tin mạnh mẽ đến mức kiêu ngạo vào uy lực của mình. Will thấy khó hiểu: hiểm nguy đã qua đi, Bóng Tối đã bỏ trốn, vậy mục đích của vật này là gì? Cậu bước tới chỗ Quý Bà, lòng vẫn đầy thắc mắc, đặt những Dấu Hiệu vào tay bà, rồi quỳ xuống phía trước.
Bà nói: “Nhưng cái đó dành cho tương lai, Will ạ, cháu không thấy sao? Đó chính là mục đích của những Dấu Hiệu này. Chúng là yếu tố thứ hai trong bốn Pháp Vật, vốn đã thiếp ngủ hàng trăm năm qua, và chúng là một phần quan trọng trong sức mạnh của chúng ta. Mỗi Pháp Vật được tạo ra ở một thời điểm khác nhau trong Thời Gian bởi những nghệ nhân khác nhau của Ánh Sáng, để đợi cho đến ngày chúng được dùng đến. Đó là một chiếc chén bằng vàng, được gọi là Chén Thánh; một Vòng Tròn Dấu Hiệu; một thanh gươm pha lê và một chiếc đàn hạc vàng. Chén Thánh, cũng như các Dấu Hiệu, đã được tìm thấy an toàn. Chúng ta phải tìm hai vật còn lại, những hành trình tìm kiếm khác vào những thời gian khác. Một khi chúng ta đã hợp chúng lại với những vật này, thì khi Bóng Tối trỗi dậy trên trái đất này trong nỗ lực cuối cùng và cũng là nguy hiểm nhất, chúng ta sẽ có hy vọng và sự đảm bảo rằng chúng ta có thể chiến thắng.”
Bà ngẩng đầu, nhìn ra ngoài đám đông Cổ Nhân vô tận, mờ mờ ảo ảo. “Khi Bóng Tối trỗi dậy,” bà đọc, giọng không để lộ chút cảm xúc gì, và nhiều giọng nói khác khẽ khàng, rì rầm đáp lại như phán truyền một lời sấm, “sáu vật đẩy lùi ngay.”
Rồi bà lại nhìn xuống Will, những nếp nhăn trên đôi mắt không tuổi tác của bà nheo lại đầy yêu thương. “Hỡi Người Tìm Dấu Hiệu,” bà nói, “cháu đã đón nhận sứ mệnh của mình vào ngày sinh nhật. Và vòng tròn Cổ Nhân đã được hoàn thành, bây giờ và mãi mãi. Và nhờ sự sử dụng khôn ngoan Món Quà Pháp Thuật, cháu đã hoàn thành một sứ mệnh vĩ đại và chứng tỏ mình mạnh mẽ hơn sự thử thách. Cho đến khi chúng ta gặp lại nhau, mà chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau, chúng ta sẽ nhớ về cháu với niềm tự hào.”
Đám đông trải dài tít tắp lại rì rầm, một lời đáp khác, ấm áp hơn, và Quý Bà cúi xuống, đôi tay gầy gò nhỏ nhắn với chiếc nhẫn hồng lấp lánh đặt chuỗi Dấu Hiệu đã được liên kết vòng quanh cổ Will. Bà hôn lên trán cậu, một cái hôn nhẹ như cái chạm khẽ của một chiếc lông chim. “Tạm biệt cháu, Will Stanton.”
Tiếng rì rầm vang lên, và thế giới quanh Will quay cuồng trong một đám hỗn độn đầy cây cối, lửa, và nổi bật lên trên tất cả là âm thanh trong trẻo như tiếng chuông của bản nhạc diệu kỳ cậu thường nghe thấy, to và vui nhộn hơn bao giờ hết. Nó ngân vang trong đầu cậu, làm cậu ngập tràn niềm vui đến mức cậu nhắm mắt lại và thả hồn mình chìm trong vẻ đẹp của nó; trong khoảnh khắc cậu chợt hiểu rằng tiếng nhạc ấy chính là linh hồn và cốt lõi của ánh sáng. Nhưng rồi nó nhỏ dần, trở nên xa cách, mời gọi và thoáng một chút buồn, như nó vốn vậy, chìm dần vào hư vô, chìm dần đi, chìm dần đi, trong khi tiếng nước chảy nổi lên to hơn để thay thế. Will đau buồn buột ra một tiếng kêu, rồi cậu mở mắt ra.
Và cậu đang quỳ trên mặt tuyết lạnh cóng dưới ánh sáng xám xịt ảm đạm buổi sớm tại một nơi cậu không biết là đâu, cạnh đường Thung Lũng Thợ Săn. Những thân cây trần trụi vươn lên từ những hố tuyết ẩm ướt bên kia đường. Mặc dù mặt đường lát đá đã sạch sẽ trờ lại, nước vẫn còn chảy xối xả qua rãnh nghe như tiếng suối, hay thậm chí là tiếng một dòng sông… Con đường vắng tanh; không thấy bóng dáng một ai hiện ra giữa đám cây. Will gần như phát khóc với cảm giác trống vắng mất mát; tất cả nào là đám đông những người bạn nồng hậu, nào là sự rực rỡ của ánh sáng và buổi lễ, cả Quý Bà nữa: tất cả đã biến mất, đã ra đi, bỏ cậu lại một mình.
Cậu sờ tay lên cổ. Các Dấu Hiệu vẫn còn đó.
Đằng sau cậu, vang lên giọng nói trầm trầm của ông Merriman: “Đã tới lúc về nhà rồi, Will ạ.”
“Ồ,” Will rầu rĩ nói, chẳng buồn quay đầu lại. “Cháu thấy mừng là ông vẫn còn đây.”
“Cậu nghe có vẻ vui mừng thật đấy,” ông Merriman mỉa mai đáp lại. “Xin cậu hãy kiềm chế bớt sự vui sướng của mình lại đi.”
Ngồi xổm, Will liếc qua vai nhìn ông Merriman. Ông Merriman chăm chú cúi xuống nhìn cậu với một ánh nhìn vô cùng trang trọng, đôi mắt đen hết sức nghiêm nghị, và bỗng dưng những cảm xúc đang dồn nén trong lòng Will bỗng tuôn trào, vỡ vụn và cậu cười phá lên. Khóe miệng ông Merriman hơi giật giật. Ông chìa tay ra và Will loay hoay đứng dậy, vẫn còn lắp bắp.
“Chỉ là vì…” Will nói rồi dừng lại, không chắc là mình đang khóc hay đang cười.
“Đó là… một sự thay đổi,” ông Merriman nhẹ nhàng nói. “Bây giờ cậu có thể đi được rồi chứ?”
“Tất nhiên là cháu đi được,” Will cáu kỉnh đáp lại. Cậu trố mắt nhìn quanh. Tại nơi trước đó là lò rèn, chỉ còn một ngôi nhà gạch đổ nát trông giống như cái gara, quanh đó cậu có thể nhìn thấy dấu vết những lồng kính ươm cây non và những luống rau trên đám tuyết đang tan. Cậu vội ngước lên và trông thấy hình dáng của ngôi nhà quen thuộc. “Đó là Trang Viên!” Cậu kêu lên.
“Lối cửa sau,” ông Merriman đáp lại. “Gần làng. Chủ yếu dành cho thương nhân… và quản gia.” Ông mỉm cười với Will.
“Đây có thật là nơi trước đây có chiếc lò rèn cũ không ạ?”
“Trên bản đồ của ngôi nhà cổ nó được gọi là Cổng Thợ Rèn,” ông Merriman nói. “Những sử gia Burkinghamshire viết về Thung Lũng Thợ Săn rất thích suy đoán lý do tại sao lại có cái tên ấy. Lúc nào họ cũng đoán sai.”
Will nhìn qua đám cây về phía những ống khói kiểu Tudor cao ngất trong khuôn viên lâu đài và những mái nhà có đầu hồi. “Bà Greythorne ở đó ạ?”
“Phải, bây giờ bà ấy đang ở đó. Nhưng cậu không nhìn thấy bà ấy ở trong đám đông khi nãy sao?”
“Đám đông ư?” Will nhận ra miệng mình đang há hốc một cách ngớ ngẩn, liền ngậm lại. Những hình ảnh hỗn độn nối tiếp nhau vụt qua đầu cậu. “Ông muốn nói bà ấy cũng là Cổ Nhân ạ?”
Ông Merriman nhướn mày. “Nào Will, linh tính mách bảo cậu điều đó lâu rồi mà.”
“Vâng ạ… đúng thế. Nhưng cháu không biết chính xác bà Greythorne nào thuộc về giới của chúng ta, người của ngày hôm nay hay người của bữa tiệc Giáng sinh. Ờ, phải, cháu nghĩ là cháu cũng biết cả điều này nữa.” Cậu ngước nhìn ông Merriman thăm dò. “Họ là cùng một người, phải không ạ?”
“Khá hơn rồi đấy,” ông Merriman trả lời. “Bà Greythorne có đưa cho ta hai món quà cho Đêm thứ Mười Hai, trong khi cậu và Wayland Smith đang bận làm việc. Một món quà cho anh Paul của cậu, và một món quà cho cậu.” Ông cho Will thấy hai cái gói nhỏ, không rõ hình thù, được bọc bằng thứ gì đó giống như lụa; sau đó lại đút chúng vào dưới tấm áo choàng của mình. “Ta nghĩ của Paul chỉ là một món quà bình thường thôi. Đại loại như vậy. Còn món quà của cậu thì trong tương lai cậu sẽ phải sử dụng nó, khi nào lý trí mách bảo.”
“Đêm thứ Mười Hai,” Will nói. “Đêm nay phải không ạ?” Cậu ngước mắt nhìn lên bầu trời xám buổi sớm. “Ông Merriman, ông đã làm thế nào để gia đình cháu không thắc mắc là cháu đang ở đâu? Mẹ cháu thật sự ổn chứ?”
“Tất nhiên bà ấy ổn,” ông Merriman trả lời. “Còn cậu thì đã ở lại Trang Viên một đêm, để ngủ… Thôi nào, đây chỉ là những vấn đề nhỏ nhặt. Ta biết mọi câu hỏi. Cậu sẽ có mọi câu trả lời, ngay khi cậu về nhà, và dù sao thì cậu cũng đã biết chúng rồi.” Ông cúi xuống Will, mắt chăm chú nhìn cậu như một con mãng xà. “Đi nào, Cổ Nhân,” ông nhẹ nhàng nói, “hãy ghi nhớ cậu là ai. Cậu không còn là một cậu bé nữa rồi.”
“Vâng,” Will đáp. “Cháu biết.”
Ông Merriman nói: “Nhưng đôi khi, cậu sẽ cảm thấy cuộc sống dễ chịu hơn biết bao nếu như cậu là một cậu bé đấy.”
“Đôi khi,” Will nói. Cậu toét miệng cười. “Nhưng không phải lúc nào cũng vậy.”
Họ rẽ sang và bước qua rãnh nước bên đường, cùng nhau đi dọc đường Thung Lũng Thợ Săn về phía ngôi nhà của gia đình Stanton.
•§•
Trời sáng dần, ánh sáng đã bắt đầu lan tỏa từ chân trời trước mặt họ, nơi mặt trời sắp mọc. Một màn sương mỏng phủ trên mặt tuyết hai bên lề đường, quấn quít quanh những thân cây trơ trọi và những dòng nước nhỏ. Đó là một buổi sáng đầy hứa hẹn, với một bầu trời nhiều sương, không một gợn mây và thoáng một chút xanh, một bầu trời mà vùng Thung Lũng Thợ Săn chưa hề thấy trong nhiều ngày qua. Họ sánh bước bên nhau như những người bạn lâu năm, không cần nói nhiều, chia sẻ một sự im lặng như một kiểu trò chuyện không lời. Tiếng bước chân của họ vang lên trên con đường ẩm ướt, thi thoảng có tiếng quạ kêu, và xa xa là tiếng ai đó đang đào đất. Cây cối in những hình thù đen sẫm và khẳng khiu lên lề đường, và Will nhận ra họ đang đứng ở góc đường dẫn qua Rừng Quạ. Cậu ngước nhìn lên. Không một tiếng động nào phát ra từ khu rừng hay từ những tổ chim lớn bù xù trên những cành cây mờ sương.
“Lũ quạ im ắng thật,” cậu nói.
Ông Merriman đáp: “Chúng không ở đó đâu.”
“Không ở đó ư? Tại sao không? Thế thì chúng ở đâu ạ?”
Ông Merriman khẽ cười, một nụ cười nghiêm khắc. “Khi Đàn Chó Săn lùng sục con mồi trên bầu trời, không một con thú hay loài chim nào có thể đứng trước mặt chúng mà không bị chúng làm cho khiếp sợ đến mức phát điên. Khắp cả vương quốc này, dọc theo con đường Herne và Đàn Chó Săn đã đi qua, sẽ chẳng ông chủ nào còn tìm lại được bất kỳ con vật nào đã được thả rông đêm qua. Ngày xưa, người ta hiểu biết về chuyện này hơn nhiều. Dân quê đều nhốt các con vật vào chuồng trong đêm trước Đêm thứ Mười Hai phòng khi Đoàn Săn xuất hiện.”
“Nhưng chuyện gì đã xảy ra ạ? Chúng đã bị giết sao?” Will thấy bất chấp việc lũ quạ là tay sai của Bóng Tối, cậu không muốn nghĩ rằng tất cả bọn chúng đã bị tiêu diệt.
“Ồ, không,” ông Merriman trả lời. “Chi tan tác thôi. Bị săn đuổi khắp trời, chừng nào mà những con chó săn bám sát nhất vẫn còn muốn săn đuổi chúng. Những con Chó Săn Hủy Diệt không phải là loài chuyên ăn thịt hay giết hại loài vật… Rồi lũ quạ sẽ quay trở lại. Từng con một, rã rời, mệt mỏi, xót xa cho só phận của mình. Những loài chim thông minh hơn không dính líu gì với Bóng Tối đã lẩn trốn từ tối qua dưới những cành cây hay trên những mái hiên để không bị nhìn thấy. Chúng vẫn còn ở đây, không bị thương tổn gì. Nhưng phải mất một thời gian nữa thì những người bạn quạ của chúng ta mới phục hồi lại được. Ta nghĩ cậu sẽ không gặp rắc rối với chúng nữa đâu, Will ạ, tuy nhiên nếu ta là cậu thì ta sẽ không bao giờ tin một con quạ nào nữa.”
“Ông nhìn kìa,” Will nói, chỉ tay về phía trước. “Hai người bạn có thể tin tưởng được kìa.” Giọng cậu đầy tự hào, vì từ trên đường, hai chú chó nhà Stanton, Raq và Ci đang vừa nhảy nhót vừa lao về phía họ. Chúng chồm lên người cậu, sủa nhặng lên và kêu ư ử vì mừng rỡ, liếm tay chào đón như thể cậu đã đi đâu đó cả tháng trời. Will cúi xuống nói chuyện với chúng và lập tức bị bao bọc bởi hai cái đuôi ve vẩy, cái đầu hổn hển, ấm áp và đôi chân to bè sũng nước của hai chú chó. “Tránh ra nào, lũ ngốc này,” cậu mắng yêu.
Ông Merriman nói khẽ: “Thôi nào.” Ngay lập tức, hai con chó trở nên bình thản và đứng yên, dù còn cái đuôi vẫn ve vẩy vô cùng phấn khởi; cả hai đều quay về phía ông Merriman, nhìn ông một lúc, rồi im lặng, ngoan ngoãn chạy cạnh Will. Rồi con đường dẫn vào nhà gia đình Stanton hiện ra ở phía trước, tiếng xẻng xúc đất lớn dần, và ở góc đường họ thấy Paul và ông Stanton, mặc quần áo ấm, đang dọn tuyết mềm, lá và những cành nhỏ trên rãnh nước.
“Chà, chà,” ông Stanton nói, đứng dựa vào cái xẻng.
“Chào bố,” Will reo lên mừng rỡ rồi chạy lại ôm chầm lấy bố mình.
Ông Merriman lên tiếng: “Chào buổi sáng.”
“Cụ George nói với tôi ông sẽ đến sớm,” ông Stanton đáp lại, “nhưng tôi không nghĩ là lại sớm thế này. Làm sao ông gọi được thằng bé dậy thế?”
“Con tự dậy mà,” Will trả lời “Chính thế. Sang năm mới con phải lật sang một trang mới chứ. Bố với anh đang làm gì đấy?”
“Lật lại đống lá cũ[26],” Paul đáp.
“Hô, hô, hô.”
“Đúng thế mà. Băng tuyết tan nhanh quá làm mặt đường vẫn còn đóng băng và chẳng thoát được nước. Bây giờ ống dẫn nước cũng mới bắt đầu tan tuyết, trận lụt đã khiến cho mọi thứ rác rưởi tắc nghẽn lại. Như thứ này này.” Cậu xóc một bó rác sũng nước lên.
Will nói: “Em sẽ đi kiếm một cái mai và giúp anh với bố nhé.”
“Em có muốn ăn sáng trước không?” Paul hỏi. “Mary đang chuẩn bị bữa sáng đấy, em có tin nổi không. Đúng là vào dịp đầu năm này có nhiều người lật sang trang mới thật.”
Will chợt nhận ra là lâu lắm rồi cậu chưa ăn gì, và cảm thấy đói khủng khiếp. “Mmmm,” cậu chép miệng.
“Mời ông vào nhà dùng bữa sáng, uống trà hoặc ăn chút gì đã,” ông Stanton quay sang nói với ông Merriman. “Đi từ Trang Viên về đây vào lúc sáng sớm thế này lạnh lắm. Tôi thật sự cảm kích vì ông đã đưa thằng bé về đây, chưa kể ông còn trông nom nó suốt tối qua nữa.”
Ông Merriman lắc đầu, mỉm cười và kéo cao cổ chiếc áo mà Will thấy đã thay đổi rất tinh vi từ một chiếc áo choàng thành chiếc áo khoác dày của thế kỷ hai mươi. “Cảm ơn ông, nhưng tôi phải về bây giờ.”
“Will!” Một giọng lảnh lót vang lên, và Mary bay ra lối đi. Will chạy đến chỗ chị, cô trượt chân đâm sầm vào cậu, rồi đấm vào bụng cậu một cái. “Ở Trang Viên vui chứ? Có đúng là em đã ngủ trên chiếc giường bốn cọc không?”
“Không hẳn vậy ạ,” cậu đáp. “Chị ổn chứ?”
“Tất nhiên rồi. Chị đã được cưỡi con ngựa của cụ George, tuyệt lắm, đó là một trong những con ngựa to nhất của bác Dawson, những con ngựa để biểu diễn ấy. Nó đã đón chị ở chỗ đường Thung Lũng, ngay sau khi chị ra ngoài. Cứ như đã rất lâu rồi chứ không phải chỉ mới hôm qua ấy.” Cô nhìn Will vẻ hơi ngượng nghịu. “Chị nghĩ lẽ ra chị không nên ra ngoài như thế sau khi anh Max đã đi, nhưng mọi việc đã xảy ra quá nhanh, và chị lo là mẹ không có ai giúp…”
“Mẹ ổn chứ chị?”
“Ừ, mẹ sẽ bình phục, bác sĩ nói vậy. Chân mẹ không gãy mà chỉ bị bong gân thôi. Mẹ đã bị ngất lúc ngã xuống, nên cần nghỉ ngơi một hoặc hai tuần nữa. Nhưng mẹ vẫn vui vẻ lắm, rồi em sẽ thấy.”
Will nhìn ra lối cho xe chạy. Paul, ông Merriman và bố cậu đang cười nói với nhau. Cậu nghĩ có lẽ bố mình đã coi vị quản gia Lyon là một ông già đáng mến chứ không chỉ đơn thuần là một vật cảnh trang trí cho Trang Viên nữa.
Mary nói: “Xin lỗi vì chuyện em bị lạc trong rừng. Tất cả là lỗi của chị. Em và anh Paul có lẽ ở rất gần phía sau chị. Cụ George đã rất giỏi khi đoán được tất cả mọi người đang ở đâu. Thật tội nghiệp Paul, phải lo lắng cho cả hai chị em bị lạc, thay vì một mình chị.” Cô cười khúc khích rồi lại cố tỏ ra hối lỗi, nhưng không có vẻ cố gắng lắm.
“Will!” Paul nhảy ra khỏi chỗ bố và ông Merriman đang nói chuyện, chạy lại với hai chị em, giọng đầy phấn khích. “Nhìn này! Bà Greythorne bảo là cho anh mượn đến hết đời, Chúa phù hộ bà ấy… Xem này!” Mặt cậu đỏ bừng vì vui sướng. Cậu giơ ra cái gói mà ông Merriman vẫn giữ từ nãy, giờ đã mở ra, và Will nhìn thấy trong đó là cây sáo cổ của Trang Viên.
Cảm thấy trên mặt mình nở một nụ cười kéo dài chậm rãi, cậu ngước nhìn ông Merriman. Đôi mắt đen thẫm của ông cũng đang nhìn cậu nghiêm nghị, và ông giơ món quà thứ hai ra. “Còn đây, là món quà Quý Bà ở Trang Viên dành cho cháu.”
Will mờ gói quà. Ở trong là một chiếc tù và đi săn nhỏ, sáng lấp lánh, đã mòn đi theo thời gian. Cậu ngước nhìn ông Merriman một thoáng rất nhanh, rồi lại nhìn xuống.
Mary nhảy lên, cười phấn khích. “Nào, Will, thổi lên đi. Em có thể thổi vang đến tận Windsor ấy chứ. Nào!”
“Để sau đi chị,” Will nói. “Em phải học cách thổi đã chứ. Ông hãy nói với bà ấy là cháu rất cảm ơn, được không ạ?” Cậu nói với ông Merriman.
Ông Merriman gật đầu. “Giờ đã đến lúc tôi phải đi rồi,” ông nói.
Ông Roger Stanton cất tiếng: “Tôi rất biết ơn về sự giúp đỡ của ông. Về tất cả mọi thứ; trong cái thời tiết quái quỷ này… và bọn trẻ nữa… ông thật vô cùng…” Bố nghẹn lời, giơ tay bắt lấy tay ông Merriman, lắc lên lắc xuống một cách nồng nhiệt đến mức Will có cảm tưởng ông sẽ không bao giờ buông ra.
Gương mặt thô ráp với những nét dữ dằn dịu xuống; ông Merriman trông có vẻ rất hài lòng, pha chút ngạc nhiên. Ông cười và gật đầu, nhưng chẳng nói lời nào. Paul bắt tay chào ông, cả Mary cũng vậy. Sau đó tay Will cũng nằm trong bàn tay mạnh mẽ của ông, trong một thoáng ông khẽ siết tay cậu chặt hơn, và đôi mắt đen sâu thẳm của ông có một ánh nhìn đầy ý nghĩa. Ông Merriman nói: “Au revoir[27], Will.”
Ông đưa tay chào từ biệt tất cả mọi người rồi rảo bước xuống đường Thung Lũng Thợ Săn. Will thơ thẩn đi theo ông. Mary nhảy chân sáo bên cạnh Will và hỏi: “Tối qua em có nghe thấy tiếng bầy ngỗng hoang không?”
“Ngỗng à?” Cậu đáp lại cộc lốc. Cậu không chú ý lắng nghe. “Ngỗng à? Trong lúc bão như thế sao?”
“Bão nào?” Mary hỏi, rồi tiếp tục nói khi cậu chưa kịp phản ứng gì. “Ngỗng hoang, phải có đến hàng nghìn con ấy chứ. Chắc bọn chúng đang di trú, chị đoán thế. Cả nhà không nhìn thấy chúng - chỉ có một âm thanh nghe rất hay, thoạt tiên là những tiếng kêu quang quác của lũ quạ dở hơi trong khu rừng, sau đó là một thứ tiếng ăng ẳng ngân vang, vang khắp trời, ở trên cao lắm. Thật rùng cả mình.”
“Phải,” Will đáp lại. “Phải, chắc là vậy.”
“Chị nghĩ em vẫn chưa tỉnh ngủ đâu,” Mary bực mình nói, rồi nhảy chân sáo đến cuối lối đi. Bỗng nhiên cô dừng lại và đứng sững sờ. “Lạy Chúa! Will! Nhìn này.”
Cô nhìn vào một vật gì đó sau một cái cây, bị phủ dưới một đống tuyết đang tan. Will chạy lại, và cậu thấy, nằm giữa đám cây bụi ướt sũng, là chiếc đầu hóa trang với đôi mắt cú, khuôn mặt người, và những chiếc sừng hươu. Cậu nhìn mãi, trân trối, không thốt lên được lời nào. Chiếc đầu vẫn sặc sỡ, cứng cáp và khô ráo, như nó vẫn như thế và mãi là như thế. Trông nó giống khuôn mặt của Herne Thợ Săn mà cậu đã từng thấy in lên nền trời, nhưng lại không giống hẳn.
Cậu vẫn nhìn chiếc đầu chằm chằm, không nói được lời nào.
“Thế đấy,” Mary vui vẻ nói. “Em rõ là may vì nó đã mắc ở đây đấy nhé! Mẹ sẽ mừng lắm cho mà xem. Mẹ đã bị đánh thức lúc trận lụt bất chợt dâng lên. Tất nhiên là khi ấy em không có ở đó; nước tràn khắp nhà và rất nhiều thứ đã bị nước cuốn trôi ra khỏi phòng khách trước khi mọi người biết. Cái đầu hóa trang này cũng nằm trong số đồ bị cuốn đi… Mẹ đã rất buồn vì mẹ biết là em cũng sẽ buồn lắm. Thế mà, nhìn xem, nó lại ở đây…”
Cô ngắm chiếc đầu gần hơn, miệng vẫn huyên thuyên một cách hoan hỉ, nhưng Will thì không còn lắng nghe nữa. Cái đầu nằm rất gần bức tường của khu vườn bị vùi trong tuyết giờ đang bắt đầu ló ra khỏi lớp băng tan ở hai bên. Và trên lớp băng phía bờ mặt ngoài, phủ trên lề con đường và nhô ra khỏi dòng nước đang chảy dưới rãnh có rất nhiều dấu vết. Đó là vết vó ngựa, do một con ngựa dừng lại, dừng chân làm trụ, lấy đà để nhảy qua đống tuyết. Thế nhưng không có dấu vết nào cho thấy có hình móng ngựa. Đó chỉ là những hình tròn được chia làm tư: những dấu vết của đôi móng mà John Wayland Smith đã từng đóng cho con ngựa của Ánh Sáng ngay từ lúc mọi chuyện mới bắt đầu.
Will nhìn những dấu vết đó, nhìn chiếc đầu hóa trang, rồi khó khăn nuốt nước bọt. Cậu tiến thêm vài bước về phía cuối lối đi dành cho xe rồi nhìn xuống đường Thung Lũng Thợ Săn; cậu có thể nhìn thấy cái lưng của ông Merriman, khi cái dáng cao cao trong bộ đồ đen đang sải bước. Thế rồi, tóc cậu bỗng dựng lên, mạch như ngừng đập, bởi từ phía sau cậu vang lên một âm thanh ngọt ngào không tả xiết, ngân lên trên bầu trời buổi sớm lạnh căm u ám. Đó là âm thanh nhẹ nhàng, êm ái, khắc khoải phát ra từ chiếc sáo cổ của Trang Viên; Paul, có lẽ không ghìm lòng được, đã lắp ống sáo để thổi thử. Anh cậu lại đang thổi khúc “Greensleeves”. Giai điệu quyến rũ, lạ kỳ ấy ngân lên dìu dặt trong không gian tĩnh mịch của buổi sớm; Will thấy ông Merriman ngẩng mái đầu bạc trắng lên khi nghe thấy điệu nhạc, nhưng vẫn không ngừng sải bước.
Trong lúc vẫn đang nhìn xuống cuối con đường, với điệu nhạc ngân vang bên tai, Will thấy ở nơi ông Merriman đang đi tới, rừng cây, màn sương và dải đường phía trước rung rinh, chuyển động theo một cách mà cậu biết rất rõ. Thế rồi, dần dần, ở phía xa đó, cậu nhìn thấy Cánh Cửa lớn dần hiện ra. Chúng đứng đó, cũng như những lần trước đây cậu đã nhìn thấy trên sườn đồi và tại Trang Viên: hai cánh cửa chạm trổ đồ sộ dẫn ra ngoài Thời Gian, vươn lên trơ trọi, thẳng đứng trên Đường Cổ giờ đây được biết đến với tên đường Thung Lũng Thợ Săn. Rất chậm rãi, hai cánh cửa mở ra. Đâu đó đằng sau Will, điệu “Greensleeves” đã tắt, vang lên tiếng cười và một vài tiếng nói nho nhỏ của Paul; nhưng điệu nhạc trong đầu Will vẫn không hề tắt, vì giờ đây nó đã chuyển thành tiếng nhạc như tiếng chuông ngân huyền ảo luôn luôn xuất hiện khi Cánh Cửa mở hay khi có những chuyển biến lớn nào đó, có thể thay đổi cuộc sống của những Cổ Nhân. Will nắm chặt bàn tay trong khi cậu lắng nghe, dõi theo cái âm thanh ngọt ngào đang mời mọc, âm thanh vốn là khoảng không giữa cõi mơ và thực, giữa hôm nay và hôm qua, giữa ký ức và tưởng tượng. Nó bồng bềnh nhẹ nhàng ttong tâm tưởng cậu, rồi xa dần, tắt dần, khi trên Đường Cổ bóng dáng cao lớn của ông Merriman, giờ khoác bên ngoài lại là chiếc áo choàng xanh, bước qua những Cánh Cửa đang mở. Đằng sau ông, hai cánh cửa cao ngất bằng gỗ sồi chạm trổ chầm chậm khép lại cho đến khi chúng lặng lẽ đóng chặt. Thế rồi, khi âm hưởng cuối cùng của bản nhạc diệu kỳ tắt lịm, Cánh Cửa biến mất.
Và trong sắc vàng trắng rực rỡ, mặt trời nhô lên trên vùng Thung Lũng Thợ Săn và thung lũng sông Thames.