ĐOẠN THỨ NHỨT - Kính đáp lời ủy vấn BỨC THƯ KÍNH ĐÁP LỜI ỦY VẤN-CỦA VỊ TRƯỞNG GIẢ QUỐC BÀO NGOÀI BIỂN-
Nhục cho bức thơ thăm hỏi ân cần và ủy thác tâm sự, tôi rất lấy làm cảm động và hổ thẹn.
Thơ viết ở Đông Kinh ngày 15 tháng 6 dương lịch 1942 mà đến trung tuần tháng 12 âm lịch năm Giáp Ngọ mới đến tay tôi. Ở đời đường thủy, đường lục và trên không, điện tín truyền đệ mau chóng như ngày nay mà dân tộc sa sút lại sau, người trong nước cùng người biển ngoài muốn thông nhau một cái tin, quanh co chậm trễ như thế, rõ là điều đáng buồn! Một tấm lòng đã soi nhau, dầu ngoài ngàn dặm, không khác gì gặp mặt, kính chúc Trưởng Giả gắng sức bảo trọng và chúc anh em tả hữu được khương hảo.
Vì mối quan hệ của tổ quốc, tiền đồ hạnh phúc của quốc dân cùng bạn thâm giao với hai bậc đại lão ái quốc tiên thời (Cụ Sào Nam cùng Cụ Tây Hồ), mà Trưởng Giả cùng tôi có một duyên ‘’tương tri chưa gặp nhau’’, đến nay đã 38 năm! (từ năm 1901).
Trong mấy mươi năm ấy, một người thì tếch xa ngoài muôn dặm bể khơi, một người lại sa mình dưới địa ngục mấy tầng, hình cách thể ngăn, tin tức không thông nhau. Kẻ sống sót trong vòng xiềng xích nầy, tự nghĩ trọn đời mãi thế, không mong có cái ngày mà hai bên cách mặt lại được giải lòng cùng nhau!
Nhịp đâu thình lình, ở Nam Kỳ có chuyện ‘’cáo quay đầu về đất cũ’’ (Cụ Phan Châu Trinh ở Pháp 14 năm, về chết tại Sài Gòn năm 1926, lại thình lình ở Kinh Đô Huế có chuyện ‘’chim trở về ở nhành Nam’’ (Cụ Sào Nam trở về Bến Ngự). Nhân đó mới xây ‘’ổ kén buộc tằm’’ ở đường Đông Ba (nay là đường Hàng Bè)Huế (Công ty nhà in và báo Tiếng Dân).
Trên mười mấy năm nay, ở giữa chỗ trời gai đất gốc, đầy mặt bụi đen, một trường say ngủ, lưa có hai lão đầu có đôi bạn lẻ loi, sớm chiều cùng qua lại nhau, mỗi lần nhắc lại chuyện cũ là mơ tưởng đến xứ bồng lai, tấm thân khi nào cũng lẩn quẩn bên Trưởng Giả.
Bởi ngày nay mà nhớ lại ngày xưa, hai bạn già cùng nhau suy nghĩ, không có việc gì mó tay vào được, trừ ra có một việc là: Trong đám tro tàn giữ gìn một đóm lửa ‘’nhiệt thành ái quốc’’ của đồng bào, mong kéo dài ra, có một ngày thổi cháy lại, hoặc giả trời già theo như ý nguyện ‘’người Á Châu của người Á Châu’’, chống gậy lại sang nước Phù Tang, hỏi thăm bạn đồng bào liều ngụ bên ấy có còn ai không? Và dấu in móng Hồng như ‘’Bính Ngọ Hiên’’, mộ Trần Đông Phong, tấm bia Thiện Vũ Hỷ Thái Lang v.v...(Xem quyển ‘’Tự Phán’’ của Cụ Sào Nam) để tỏ chút lòng thành ‘’uống nước nhờ nguồn’’, ngoài ra không có hy vọng gì khác.
Rủi thay! Thời cơ vừa mới xoay thì Cụ Sào Nam bệnh già qua đời mà tôi thành lẻ loi chiếc bóng, trong cảnh mồ côi lại mồ côi thêm, một tiếng khóc dài gần dứt hơi thở, nghĩ rằng trong đời không còn kẻ tri âm. muốn đập nát đàn cầm đã mấy lần (1939, 40 và 41)
Đứng giữa lúc đầy trời đông sấm, bốn phía quạnh hiu, tự khóc tự cười, dở sống dở chết, bỗng tiếp đượcthơ ngoài biển khơi từ nơi Trưởng Giả gởi đến. Rửa ta mở thư ra đọc đi đọc lại, giấy vắn tình dài, mương tượng nhìn thấy khối lòng ái quốc của Trưởng Giả, khẳng khái phát một cách nồng nàn, so với ngày mạo hiểm xuất dương, một chiếc thuyền tếch ngay sang nước Mặt Trời Mọc lúc xưa (1906) không kém chút nào, tôi lấy làm cảm xúc hết sức.
Tôn ý trong thơ, tôi đã lãnh được cả. Duy gọi tôi hai chữ ‘’Hiền Khanh’’ cùng ủy tác mọi việc ‘’liên lạc’’ và ‘’sào mũi’’ v.v...Tự xét tuổi già tài kém, không lấy gì đáp lại, lấy làm hổ thẹn, trước hết định giữ thái độ tịnh mặc, thầm nghĩ lòng suy một hồi lâu, một tia điểm sáng đâu trong đầu óc rọi ra, trông lên ngó xuống dưới một bóng đèn, tưởng tượng như có trăm vị thần linh ở trên, cùng vong hồn của ức muôn đời báo ái quốc, nhóm lại chung quanh mà ban lời mắng trách nghiêm trọng:
‘’Mầy dầu bất tài cũng là một trái lớn còn sót sau mùa Đông, đối với nước Tổ cùng chung một giây quan hệ, huống gặp khoảng thời cơ ‘’ngàn đời một thở’’ nầy mà quên lãng cái nghĩa vụ một phần tử ‘’kẻ thất phu có trách nhiệm’’ cùng ‘’bạn bè với đồng bào’’ hay sao?’’
Một tiếng sư tử vừa gầm thì muôn mối ruột tằm đều bùng ra, không tự ngăn được, cầm bút viết những điều trong đáy lòng muốn nói, thay cho bức thơ trả lời, trộm dựa vào cái nghĩa ‘’cử những chỗ mầy biết’’ của Cụ Khổng Tử, một bầu máu nóng rưới ra mực đọng ngàn giòng. Hoàng Thiên Hậu Thổ hãy soi lòng cho. Ngu chăng? Điên dại chăng? Có một điều được gì trong muôn ngàn điều chăng? Tôi không tự biết, chỉ trông anh em đồng bào trong nướcvà ngoài biển cùng các bậc người quân tử nước Mặt Trời biết nước Việt Nam nầy còn có tên thơ sanh già là tôi, dung thứ chỗ nói điên cuồng nói quấy mà chọn lặt lấy những điều có thể chọn lặt được, tôi lấy làm minh cảm vô cùng.
ĐOẠN THỨ HAI Tông đáp đại ý trong thơTrong thơ có nói ‘’liên lạc’’, ‘’hy sanh’’, ‘’sào mủi’’ cùng ‘’lạc quan’’, ‘’thái bình’’ v.v...Tôi đối vời tình hình nước ngoài cùng việc ngoài bể, bên kia sông, chưa hiểu rõ được bao, mà xem đi xem lại trong thơ của Trưởng Giả, hình như cách biệt nước nhà đã nhiều năm, đối với tình hình trong nước, không khỏi có chỗ ngăn lấp, hơn nữa bọn kia (người Pháp) sở trường cái ngôn ‘’thả mù tuôn mây’’, trăm cách che dấu sự thật, cái chân tướng ở trong không sao tỏ ra ngoài được. Xin nói thực trạng:
Dĩ vãng và hiện tạiHiện trong nước bọn tiên thời cũ còn sót lẻ tẻ như sao buổi mai, không kể bọn thay mặt đổi lòng, tức có kẻ sau trận đau rồi còn ghi nhớ sự đau, vẫn giữ tấm lòng như xưa, song vì hoàn cảnh ác liệt, sanh kế khuẩn bức, nên nếu tạm được yên trước mắt là giữ lấy cái thái độ quan vọng. Tựu trung cũng có đôi người chí khí còn quật cường như xưa mà tên họ đã ghi vào sổ đen, mang cái dấu vết hiềm nghi, thành ra cái quái vật đáng ghê tởm trong xã hội, không ai dám lại gần. Bởi thế hạng khá còn sót nầy, sánh khí bồi dưỡng chỉ lựa cái nóng tinh thần trống không, không có thực lực gì.
Đến như bọn từ trong trường học ‘’nô lệ’’ đúc ra, lớp cao chiếm được cái địa vị ‘’quan lớn bổng nhiều’’, thôi thời dựa hơi lỗ mũi kẻ khác, sợ được mất, nếu làm cách gì mà giữ được cái hà bao thì không việc gì mà không làm.
Thứ nữa bọn viết thuê nói mướn, mãi biện kế toán trong trường quan lại hay nhà buôn kiếm được cái ghế có bát cơm, đã lên mặt tự đắc ăn uống sung sướng, áo quần bảnh bao, ngoài bộ mặt ‘’văn minh’’ ra không có tư tưởng gì.
Thứ nữa phần đông bọn tuổi trẻ biết gần những thuyết ‘’tự do bình đẳng’’, ‘’duy vật’’ đã được thổi vào làm ‘’chủ nhân ông’’ trong óc thôi thời say đắm cái bã vật chất, tiên nhiễm lấy cái độc tiểu thuyết lãng mạn, xem luân lý như rơm rác, chê đạo đức là hủ mục, thậm nữa truyện phong tình phụng làm sách tổ truyền, tuồng trăng gió chuộng làm quốc túy, sẩy chân sỉa bước, nối gót nhau sa vào vực trụy lạc.
Trong đám thanh niên vẫn có một đôi phần tử ưu tú, bị cái phản động lực sau cuộc Âu chiến (1914-1918) xô đẩy, người thì nhận là tín đồ Mã Khắc Tư, kẻ thì xưng là học trò Lê-Ninh, mỗi người đều vỗ ngực phô là anh hùng, đồng chí khắp ngoài bốn biển, một lầm với phong triều bề ngoài, hai là lầm khiêu dục ở trong nước (có người Pháp thò tay vào cho bùng ra), theo mù chạy quấy, bị tội tù đày giết, gần nhốt vào một lưới mà quét sạch (1930-1936), có kẻ lọt ra ngoài lưới tội tù, đã trải qua sụp ngã nhiều phen, như giấc mộng mới tỉnh, dần dần quay đầu lại mà mù mờ ngơ ngác, chưa nhận ra đường nào mà đi.
Tình trạng dĩ vãng đại khái như đã nói trên.
Đến hiện tại lại càng sa, càng thấp hèn hơn nữa, vợt, banh khoe giỏi, xe đạp đua tài, đã là sự nghiệp anh hùng tột bực, mà ngoài ra không phải bàn nữa.
Đến cái thủ đoạn chia rẽ của người Pháp lại càng hiểm ác đáo để khiến cho cái khoảng giữa ‘’tân và cựu’’, ‘’già với trẻ’’ cách biệt nhau thành cái hào rất sâu không sao gần gũi dung hợp được. Xem như Cụ Sào Nam về nước, trải trên mười mấy năm mà một chắc thân mồ coi vẫn mồ côi, chưa nói chuyện khác. Núi Ngu Sơn không phải không có cây tốt, mà nay trọc trơn như thế là do mấy mươi năm búa rìu của tay thợ ác hằng ngày chặt phá thành ra núi trọc đó. Vậy nên giữa hiện trạng nước Việt Nam ngày nay mà nói liên lạc nhân tài cũng như gieo giống lúa vào đám ruộng cỏ làn rậm rạp, tưới nước trong vào cái ao bùn rác chất chứa dơ bẩn, mà mong có hiệu quả trong mai chiều, dầu có người đàn bà khéo giỏi đến đâu, không gạo cũng không sao nấu ra cơm được.
Tình trạng dĩ vãng và hiện tại nói trên, kẻ thức giả đều than dài, không phải lời nói ‘’bi quan’’ riêng một mình tôi, nên tôi không cần dấu che để dối bác Trưởng Giả. Song le đối với hiện tại và tương lai mà tôi trước sau vẫn ôm mối hy vọng cho đến một hơi thở còn ngày nào là nuôi ngày ấy, không chịu giữ cái thái độ ‘’tiêu cực’’. Vì theo chỗ suy trắc trong tâm não cùng một ít kinh nghiệm trên lịch sử, tôi có một có một điều xác tín mà ngày nay đã thấy trưng triệu:
‘’Nhân tài vì dùng mà sinh ra, vì không dùng mà tiêu diệt đi’’. Tôi tin các danh ngôn ấy đã lâu. Xưa nay bậc anh hùngtạo thời thế tạo nên cùng bọn anh hùng không tên trong rừng sâu, ngoài đồng nội, không xứ nào không có. Non sông Hồng Lạc nầy, núi cao nước sâu không hề thay đổi, khi thiêng chất chứa ngày nay vẫn như xưa, dân tộc con Rồng cháu Tiên, chiếm cái vinh dự ‘’ngàn năm văn hiến’’ trên lịch sử Á Đông, đánh quân Tống, đuổi quân Hồ Nguyên và đồng hóa cả dân tộc Chiêm Thành cùng Thủy Cân Lạp. Võ công oanh liệt và sức hấp dẫn mạnh mẽ là đường nào, trên sử sách còn chói soi như việc trước mắt. Con cháu giòng thần minh một mặt cùng truyền bá là người bỏ đi cả sao? Khốn vì hoàn cảnh ác liệt, không khí ô trọc độc hại bao bọc áp bức bốn phía chung quanh, bao nhiêu thứ giống tốt bị chặt phá vùi dập nên không trồi lên được đấy thôi. Nếu một mai giữa đất bằng thanh không mà có một tiếng nổ đùng, hiện ra một trận gió to thổi bụi, sấm sét quét mây, làm cho non sông đổi sắc, yêu ma dẹp bóng, bao nhiêu hang hùm ổ rắn, hầm chuột ngách chồn, nương dựa ẩn núp trong và ngoài trên mấy mươi năm quét sạch sành sanh, thì vùng mặt trời dọi khắp một phía, muôn vật tươi sống, trận mưa dông rưới xuống, trăm bông đua nở. Dưới quyền trung ương chân chính đã thống nhất, người nước đều vui lòng ra dùng, kẻ mạnh ra sức, người khôn dâng mưu, theo tài mà dùng, tưởng cũng không thiếu. Duy cần nhất là tay chủ trì cùng một ít nhà cao cấp khoa học chuyên môn, hoặc có thiếu người, mà đã là một phần tử trong vùng trật tự mới Đại Đông Á thì nhà Đại Nhật Bản giúp sức vào, tưởng không lẽ hẹp hòi gì với ta.
Điều tôi nói trên tuy là lời dự trắc theo ý kiến riêng tôi, song không phải là không có thực sự làm bằng chứng, trên mấy mươi năm nay, bao nhiêu bộ phận các cơ quan trọng yếu trong nước, đứng chỉ huy chẳng qua năm, ba người Âu, ngoài ra chia đường giúp sức, đa số đều là người nước Việt Nam chúng ta cả. Trong bọn ấy vẫn nhiều tay tránh Hồ, song không phải không có một số ít (rất ít) mình làm tôi Nhà Hán, mà lòng vẫn không quên nước Hán như Nguyễn Trọng Hiệp, Trần Đình Phác, gần đây như Nguyễn Hữu Bài v.v...dấu mình để chờ cơ hội, khổ vì ở dưới cái thế đè ép đã lâu và trung với áo cơm không làm sao đặng, đành phải chịu vậy đó thôi.
Một mai mà có cuộc xoay chuyển, thay chầu đổi chợ thi nhân tài nước Sở mà nước Tần dùng, dại với nước Ngu mà khôn với nước Tấn, xoay một cái trở nên người giỏi, đội quân dưới cờ Đại Thống Soái Quách Tử Nghi, dùng Lý Trung Bật thay chức Thống Soái mà cổ xúy đổi sắc, hiệu lệnh nghiêm minh, nghiễm nhiên thành một đạo quân mới tinh. Đó là cái chứng ‘’đổi tướng không đổi quân’’, gương trước rõ ràng, đó là nước cờ cơ cảnh nhứt trong cuộc, cũng là nước cờ trước nhất. Xưa nay trong khoảng đổi cũ thay mới, dùng oai hơn dùng ái mới làm nên việc (uy khắc quyến ái nãi hữu tế) mà trừ kẻ cừ khôi, tha kẻ hiệp tùng, tự nhiên thu cái hiệu quả ‘’cỏ bồng sanh trong đám cây dâu, không cần dỡ mà nó tự đứng thẳng’’ (bồng sanh tang trung, bất phù tự trực). Huống chi nhà binh lúc cầndầu kẻ tham kẻ trá cũng sai khiến được là việc thường. Duy cần yếu nhất là nước cờ ‘’cơ cảnh’’ hạ cây cờ Nhà Triệu xuống mà dựng cây cờ Nhà Hán lên (thụ Hán xi dịch Triêu xi), phải tay thủ đoạn lão luyện mới làm nổi, không phải bọn người sanh sống không thạo việc binh mà làm được việc ấy.
Vả chăng tôi còn có chỗ chưa hiểu là thuyết ‘’đứng mũi chịu sào’’. Xưa nay công việc hàng hải tất cần có tay thạo nghề, mà tài liệu nhu cầu trong tàu chỉnh bị ra sao? Phương hướng tấn hành và địa điểm qua lại, hạ neo đổ bộ nơi nào? Chủ thuyền cùng tay lái phải trù tính trước mà bọn cầm sào đứng mũi nghe theo lệnh người chỉ huy. Vậy người trong tàu ấy phải không nói mà hiểu nhau mới mong nên việc. Không thế, sóng gió ngoài khơi, lố gành nơi lồi nơi sũng, ẩn núp khó dò, mà nếu hiểu lầm một tý là sai một ly đi một dặm, di hại không phải là ít. Ba mươi năm lại đây đồng bào ta hy sinh vì nước đã nhiều phen không phải một lần, mà chỉ là chuyện ‘’hoa Quỳnh nở trong một chốc’’ (Quỳnh ba nhất hiện). Tại sao? Chỉ tại trước việc không dự bị sẵn sàng cùng sau lưngkhông có gì làm hậu thuẫn. Nay xem như trong thơ đã nói thì thành toàn đã sẵn, kế hoạch đã định trước. Tôi đối với việc binh vẫn là người đứng ngoài cửa, không dám bàn suông trên mặt giấy, duy có công hiệu đôi câu danh ngôn đời xưa: ‘’Biết mình biết người’’ (tri kỷ tri bỉ) ‘’quân ra đúng luật’’ (sư xuất dĩ luật). E lời sao có nhàm tai bậc cao minh chăng.
Đáp đoạn cuối trong thơTrong thơ, đoạn sau có bảo ‘’như yêu cầu điều gì cứ nói ngay, không ngại gì v.v...’’
Trước 30, 40 năm kia, đương lúc thế lực Âu Mỹ tràn ngập phương Đông. Việt Nam nước chúng ta nằm co dưới bàn chân sắt cường quyền người Pháp, bốn mặt màu đen, vượt biển ra ngoài lại là điều luật cấm rất nghiêm nhặt mà cuộc ‘’Nhật-Nga chiến tranh’’ (1904), ảnh hưởng vang dội đến nước chúng ta, đã xác nhận Nhật Bản là vị cứu tinh có một không hai, sẽ cởi ách nô lệ Âu-Mỹ cho giống da vàng, tếch mình mạo hiểm, một chiếc thuyền vượt thẳng sang tận xứ Phù Tang, đem tình trạng thảm khổ nước nhà tỏ bày với Thượng quốc. Theo gương xưa như Thân Bao Tự, tôi nước Sở sang cầu cứu khóc nơi sân Vua Nhà Tần. Tuy thời cơ chưa đến, thêm chỗ quan hệ đến quốc tế, Nhà Tần chưa ca bài thơ Vô Y (có ý nói đồng tâm nhất trí) xuất viện binh giúp Sở, mà dưới địa ngục hắc ám mấy tầng được trổ ra một sợi bóng sáng, người nước ta lần lượt nối gót sang đất Phù Tang, phong triều Đông Học rung động khắp cả nước. Về việc tìm học lại được các nhà yết nhân cùng các quân tử Nippon giàu lòng hào hiệp, tán trợkhá nhiều, như Đạo Ôi Trùng Tín, Khuyển Dưỡng Nghị, Bá Nguyên Thiện Vũ Hỷ Thái Lang vân vân...các nhà danh nhân cùng cái tên ‘’Chấn Võ Học Hiệu’’, ‘’Đông Á Đồng Văn’’ in vào gân óc người Việt Nam chúng ta, đến nay còn bài nói nhắc nhở không dứt (xem Tự Phán).
Huống chi gần đây từ cuộc chiến tranh ‘’Đại Đông Á’’ mở màn, mới một năm, bao nhiêu nới căn cứ quân sự của Anh-Mỹ lần lượt quét sạch (Tân Gia Ba, Diến Điện, Phi Luật Tân, Nam Dương quần đảo v.v...) Đông Dương đất thuộc địa của Pháp, Hoàng Quân Nippon cũng đã chiếm các yếu điểm, chặn họng đè lưng, đại biểu Thiên Hoàng ở gần bên cạnh, vùng Mặt Trời với xứ Trường An nầy, chỉ trong gang tấc. Tôi một người dân Nam Việt, không phải cây đá, lòng nào giữ cái thái độ trầm mặc, dầu không như ngựa già nằm chuồng hý lên một tiếng, há lại khọng vì chỗ đau khổ của đồng bào một chết một sống, ngấc đầu lên kêu dài một hơi dài sao?
Song tôi sở dĩ trù trì thận trọng là vì tầng đọc câu sử Nippon, phàm việc ngoại giao và quân sự, trước việc đã dự trù hẳn hòi, điều tra khảo sát, trăm việc không hở một điều gì. Nay đối với tình thế nước Việt Nam chúng tôi hẳn đã thấu rõ mười phần, xấp mấy điều biết của người nước chúng tôi. Vả lại tôi để lòng xét kỹ thái độ của nhà đại gia ngoại giao, quân nhân và chính trị Nippon về chính sách đối với Đông Dương, trong thời kỳchiến cuộc kéo dài nầy, hình như còn giữ cái ý kiến ‘’duy trì hiện trạng’’, ý kiến tôi e không hợp thời, và hoặc giả có chỗ phòng ngại đến những quy trình đã dự định, nên tôi phải trịnh trọng không dám bày tỏ một cách đường đột.
Nay thì thời cơ đã bức xúc đến nơi, dân Việt Nam đã lâm vào cái tình cảnh nguy ngập không thể chờ đợi ngày nay ngày mai nữa. Ông già 67 tuổi đầu, ngọn đèn trước gió cùng tờ báo Tiếng Dân, gạo giấy cào kiệt, đình bản nay mai, đến sa vào cái tình thế ‘’gấp rút không thể chờ lâu’’, vừa tiếp được bức thơ của Trưởng Giả, mấy điều trong não tôi bị xô đẩy một cách quá mạnh, bao nhiều dấu vết đã in trong bộ não cả cũ lấn mới đều hiện ra một trật, xin ráp thành tập bổn như dưới:
Điều ấn tượng mới. ĐOẠN THỨ BAXứ Việt Nam với vùng thạnh vượng chung Đại Đông Á trên nền trật tự mới cùng thực trạng khốn khổ hiện tại.
(Dưới này có giới thuyết trước nên thanh minh: ‘’Đông Pháp’’, ‘’Đông Dương’’ là danh từ người Pháp quen dùng gốm cả Lào, Cao Mên, Quảng Châu Loan vào trong, tôi, quốc dân nước Việt Nam xin nói nước Việt Nam).
Một cơn giận phầng dậy, đứng ra khai chiến với Anh-Mỹ, ‘’Trận Chiến Tranh Thái Bình Dương’’ nầy, mục đích độc nhất là kiến trúc một nền trật tự mới Đại Đông Á giải phóng cái xiềng xích Anh-Mỹ cho các dân tộc Á Châu, lập thành ‘’Vùng thạnh vượng chung’’. Huấn Lệnh Thiên Hoàng cùng các nhà yếu nhân đương cuộc các giới Đại Nhật Bản đã tuyên ngôn, nhân sĩ cả thế giới đều nghe biết, không chỉ dân giống da vàng Á Châu. Hơn nữa, cái phạm vi vùng thạnh vượng chung Đại Đông Á mà nét bút đã vặt rõ, nước Việt Nam chúng ta ở trong phạm vi ấy, không điều gì nghi ngờ nữa. Mà điều cảm kích nhứt là từ tâm của Thiên Hoàng cùng thẳng toán của Hoàng Quân, đối với một cõi Đông Dương, chỉ dùng chiến lược ngoại giao mà không dùng võ lực, biện chiết trong tiệc trà chém rượu mà ngồi thu cái công hiệu mau chóng, ‘’không dành mà quân người chịu khuất phục’’ khiến cho toàn cõi Việt Nam được ra ngoài vòng lửa binh và chiến tuyến, so với các xứ Phi Luật Tân, Diến Điện, Mã Lai v.v...là nơi trận địa, Việt Nam được có cái may phúc ấy rất lớn Dân Tộc Việt Nam ngày sau nầy được làm một phần tử mạnh mẽ trong vùng thạnh vượng chung Đại Đông Á, tiếng nhân ‘’lấy đức phục lòng người’’ trên bộ sử sống còn của con Hồng cháu Lạc sau nầy sẽ ghi chữ lớn muôn đời không quên.
Tuy vậy, việc trên đời, không có cái gì gọi là toàn lợi tuyệt đối mà không có một điều hại cùng đi một bên, đây cũng là cái trường ‘’nên hư được mất’’ trên lịch sử Đông Tây xưa nay vậy. Phi Luật Tân, Diến Điện, Mã Lai, các miền trận địa, binh hỏa đến đâu, gai gốc mọc ra đấy, dước mưa bom mây đạn vẫn không tránh khỏithảm họa trong một khoảng thời gian. Song trải qua một cuộc võ lực chinh phục, dấm sét xếp oai, hoa cỏ đổi sắc, dưới chủ quyền độc nhứt quân chính phủ, dân tộc bổn thổ hiện cùng các giới Nippon gần gũi, tùy sức đến đâu làm đến đó, người trí bày mưu, người mạnh dâng sức, cùng dăng tay nhau bước lên con đường trật tự mới trong công cuộc ‘’cọng đồng phòng thủ, cọng đồng kiến trúc’’ không có gì trở lực.
Xứ Việt Nam hiện tình lại khác thế, hiện cảnh xứ nầy đã lâm vào chỗ ‘’nửa trên sa xuống’’ (bán thượng lạc hạ). Hoàng Quân đặt chân đến xứ nầy đã hai năm, mà cái khoảng giữa nhân dân Việt Nam cùng Hoàng Quângần trong gang tấc mà cách xa như mấy lớp đèo ải núi non, khoảng ngăn rẽ ấy vạch một địa giới Hồng Cầu không vượt qua được. Tình thế nước Pháp kia như cục ung đã vỡ. Cái ổ đã vỡ thì trứng trong ổ ấy khó giữ cho trọn vẹn. Đối với xứ Đông Dương bên nầy, nêu cái khẩu hiệu ‘’Vichy’’, ‘’phục hưng’’ làm như tôn giáo, hằng ngày tuyên truyền cho đặng kéo lòng người trong lúc đã rời tán, cũng như cái chuông nặng muôn cân, treo dưới hòn đá lớn gập ghền sắp lặn trên dốc hãm, mà xa ngoài ngàn dặm, lấy một sợi chỉ to để dằn lại, cái chuông chưa chuồi đổ đó, chỉ là vấn đề thời gian thôi (thuộc địa Pháp như Tân Thế Giới, Phi Châu, cái gương không xa).
Tuy vậy trên thể diện quốc tế chính phủ Đông Pháp nhờ có hiệp ước quân sự và kinh tế, còn ‘’duy trì hiện trạng’’, cội gốc đã khô dứt mà nhành lá chưa có hại (bản thiện tiên bác, chi diệp vị hữu hại) uy quyền thế lực sẵn có từ xứ này, dùng vào công việc đối ngoại, áp bứcđè đạp giống dân Việt Nam hai bàn tay trắng nầy thì có thừa. Vả lại mượn cái cớ phòng thủ, trăm chước bóc lột ngàn cách che đậy bề ngoài trương tấm bảng ‘’Pháp-Việt thân thiện’’ mà bề trong thì ngấm ngầm thực hành cái chiến lược ‘’cháy đất’’, dẻo xương lóc da, rán dầu ép mỡ, ngoài việc ‘’bủa vây bắt chim sẻ’’, đào hang tìm chuột không có cái gì gọi là chánh sách. Bởi thế, người Việt Nam ở dưới mấy lớp đè nén càng ngày càng nặng, khỏi vương cái họa chiến tranh, may không có vết thương tạm thời trước mắt mà khối thịt trong đáy lòng bị cắt nạo không biết là bao. Ở dưới dao thớt, cá thịt có còn là bao nhiêu đâu.
Theo như thực chứng kể trên, hiện trạng mà còn duy trì ngày nào là dân Việt Nam thêm một ngày khổ ách, người bệnh da bọc xương, nằm rên trên giường đều trông mong cốt thiết nhất là nhờ tay danh y quốc thủ cứu đời giúp người, sớm sớm đủ lòng từ bi, cho một tể thuốc ‘’khi tử hoàn sanh’’ mà thu cái kiệu trả ơn’’ kết cỏ ngậm vành’’ sau ngảy đã mạnh dậy. Như vậy may có giải thoát cái khổ nầy chăng. Nếu không thế, thứ dân sống sót nửa mình Nhà Chu, cái hơi thừa ngấp ngỏi như cả phương đã nhọc, không có khí lựcthu đủ làm phần tử kiện toàn trong vòng thạnh vượng chung Đại Đông Á sau nầy, cái đó đã phần, mà trên con đường ‘’trật tự’’ Đông Á mà Thượng quốc đương tấn hành, hoặc giả vì cớ ‘’bất triệt để’’, biết đâu chắc cho điều bất trắc ý ngoại không xẩy ra ‘’chơi ong có độc, nuôi hùm để họa’’, như điều lo xa của hiền triết phương Đông đã từng nói sao? (lý do sẽ nói sau).
Như điều bày tỏ trên, chính tôi đã phạm vào câu trong thơ Tưởng Giả đã nói: ‘’để người khác chịu phần hy sinh mà mình ngồi hưởngcái may phúc vô sự’’. Điều ấy giống như không nên cho người ngoài nghe biết, song tôi không dám che dối mà nói thực như thế, không phải tiếng kêu rên của người không đau đâu.
Hiện tình người nước Việt Nam ta ngày nay, như kiến xua tanh, như cá trong vạc sôi, như chim sô ná, như trâu ngựa mang ách ngậm hàm thiếc, lửa nóng phỏng da mà không biết đau, sấm sét đánh ngang đầu không biết sợ, tức gia cho cái tên ‘’cái nước tử bệnh’’ không thể cứu chữa, vẫn không chối cãi được. Song sở dĩ đến thế, đều do cái chánh sách ‘’diệt quốc’’ rất mới cùng quỷ thuật ‘’tỉa giống tốt để thứ xấu’’ cùng tay độc ‘’chinh hùm thuế rắn’’ (chính hồ phú xà) gồm với không khi ô trọcngộp thở un hầm mà thành hư hèn đến thế, chứ tuyệt nhiên không phải mặt mũi chân chính cùng tính chất cố hữu của dân tộc Việt Nam, tôi dám nói chắc thế.
Tôi là một người trong nước từ bệnh ấy, trên vai mươi năm nay, hằng ngày cùng người bệnh gần gũi, nguyên do gây thành cái bệnh ấy, viễn nhân thế nào, cận nhân thế nào, cho đến tay bọn thầy lang đầu độc, phường phù thủy đồng bóng ếm bùa, thu hồn v.v...mắt thấy tai nghe kinh hồn khiếp vía, song tôi trước sau hy vọng ‘’sống lại’’, không giây phút nào quên lãng trong đáy lòng là vì cái điều đã nghiệm thấy trên 80 năm tại đây, trải qua biết bao nhiêu lầnhạo kiếp, mạng người trùn dế, sông núi tan tành, nhưng trái gốc sau mùa lạnh (trái giống sót nẩy bở ra cây mùa xuân sau) tiêu rụng gần hết, mà cái giống ‘’cách mạng kháng Pháp’’, một mạch truyền nối nhau núp sâu dấu kín, hễ có cơ hội là bùng ra, lớp trước ngã xuống lớp sau trồi lên, trước sau không khi nào dứt. Thử dở đoạn cận sử ‘’Việt Nam Pháp thuộc’’, quay đầu xem lại, tôi không sao không tuôn một bụm nước mắt đồng tình vì ức muôn vạn đồng bào dĩ vãng trôi mất vì nước mà lớn tiếng kêu nan, cũng vì đồng bào tương lai mà cung một tể thuốc phấn khởi tinh thần, đồng thời đánh đổ cái y án ‘’Nước bệnh không chữa được’’ mà chỉ rõ cái chứng thực ‘’Chứng bệnh có thuốc chữa’’.
Những ấn tượng cũ ĐOẠN THỨ TƯ Lịch sử cách mạng dưới thời Việt Nam Pháp thuộc(1853-1942 Nhâm Tý đến Quý Vị, cả thảy 80 năm)
Người không có nước mà bàn việc nước, đó là nỗi đau thương như kim châm vào lòng, mà càng đau hơn nữa là nhắc lại chuyện một nước ‘’gặp nhau đừng nói câu đau xót, việc cũ buồn tanh chả muốn nghe’’. Cái dĩ vãng như cái chết ngày hôm qua, nhắc lại giống không có chút bổ ích gì. Song muốn biết việc sau, cần phải xem việc trước, mà ‘’Tịch Đàm vong tổ’’ (Tịch Đàm người Tấn đời Xuân Thu, qua nước Chu, Chu Vương hỏi lịch sử nước Tấn, y không biết, người ta chê y là người vong tổ) là cái thông bệnhcủa đồng bào ta. Vì thế không từ rườm tai phần đông, lược thuật một đoạn cận sử.
Từ ngọn triều Âu Tây tràn sang phương Đông người Pháp đặt chân đến giãi đất hình chữ S nầy, đến nay đã 80 năm, Cao Mên, Ai Lao, nước nhỏ không phải nói, nước Việt Nam chúng ta nghiễm nhiên một dân tộc lớn, có tiếng là nước văn hiến tự chủ, có lịch sử và ngàn năm, nuôi cái đau nòi giống tiêu mòn, cưu mối lo đất nước chìm đắm, tuy mạnh được yếu thua, cái công lệ thiên diễn không chỗ tránh, mà cái giống cách mạng kháng Pháp hơn 80 năm nay, không khi nào dứt và có một thế lực ngấm ngầm vẫn theo thời thế mà diễn tấn, khi trồi khi sụt, lúc ẩn lúc hiện, ngoài mặt trông cái hình như dứt như nối, mà ở trong vẫn kế tiếp nhau như chỉ luồn dưới tro, rắn bò trong cỏ, rõ ràng có cái dấu vết trước sau một mối, có thể chia làm bốn thời kỳ.