THỜI KỲ THỨ NHẤT (1854-1884) -
Từ tàu binh nước Pháp bén mảng tới xứ nầy, đầu tiên tiếng súng nổ ở cửa biển Đà Nẵng và Cần Giờ thì phong triều nhương di sôi nổi khắp trong nước, triều dã trên dưới bồng bột cùng dậy. Nam Kỳ sáu Tỉnh thất thủ, Quan Kinh Lược Phan Thanh Giản tử tiết (1808), sĩ dân trong Nam khí lên chống với quân Pháp, danh tiếng lừng lẫy nhất là ông Trương Công Định, Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Đạt v.v....nghĩa sĩ trong Nam dựng cờđốn cây như mây tuôn nước nổi, kháng cự quân Pháp nơi nào cũng có (Ông Nguyễn Thông trong ‘’Kỳ Xuyên Văn Tập’’ có chép truyện mấy nhà nghĩa sĩ, ông Đồ Chiểu có bài văn quốc âm tế nghĩa sĩ).
Kế đó chiến sự khởi ra ngoài Bắc, Thành Hà Nội hai lần thất thủ (lần thứ nhất năm 1873, lần thứ hai năm 1883), Quan Thành Trấn ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, trước sau giữ Thành cự với quân Pháp, Thành bị hãm, đều tử tiết không chịu nhục.
Từ đó sĩ phu Trung Bắc Kỳ, lòng trung phẫn bừng dậy, ngoài Bắc thì ông Nguyễn Cao (Tán Bắc) hỏng việc mổ bụng tự tử, ông Nguyễn Thiện Thuật (Tán Đông) sau sang Tàu không chịu hàng Pháp, cùng Thông Binh Hoàng Tá Viêm hợp với Tướng quân Cờ Đen Tàu Lưu Vĩnh Phúc đánh với quân Pháp, trận Lạng Sơn, Cầu Giấy giết được tướng cầm đầu (Henri Rivièra chết trận năm 1873, Francis Garnier chết trận năm 1883, người Pháp có đúc tượngvà bia kỷ niệm), trận oanh liệt trên làm cho quân Pháp xiểng liểng không dám khinh dễ quân Việt Nam.
Ngoài ra như Đảng Văn Thân ở Nghệ An, Hà Tĩnh (Trần Tấn, Dương Như Mai, Hoàng Phan Thái) bài hịch gọi là ‘’Hịch Văn Thân’’ truyền tụng khắp trong nước, trong có những câu:
‘’Tưởng thuở thái bình tài vũ, bể Khuông tương để mặc khách thiên chung
Đến nay si dịch loạn hoa, lòng tiết nghĩa phải xướng lời lục quán...
Xưa cũng có Hồ Di Kiệt ngạo.
Trời lại sanh quân tử kinh luân
Lỗ Trọng Liên nghĩa bất đế Tần, phản nho giả mở lòng lo vũ trụ.
Văn Thừa Tướng trung thờ chúa Tống, bước lưu ly mà vai gánh cung thường’’.
Giáo đồ thì Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu (Tây học mà thân Hán lòng Hán, Trường Tộcó mấy bài điều trần, Hậu có giao thiệp với người Anh ở Hương Cảng, tha dân ta bị bắt đem nhốt ở Hương Cảng.
Văn Thân thì ông Lê Tuân, ông Trần Hy Tăng ông bị vua vời đi sứ sang Pháp thương thuyết cho trả Nam Kỳ lại, giảng hòa, biết việc không xong, thà ôm lòng trung với vua mà chết, uống thuốc tự tử, không chịu sang Pháp, cho là nhục. Cái tiếng ‘’Bình Tây! Bình Tây!’’ muôn miệng một lời, phong triều ‘’nhương di’’ sôi nổi khắp trong nước (như thời kỳ ‘’nhương di’’ bên Nhật Bản), chỉ tiếc một điều là thời đại ‘’bế quan tỏa cảng’’, người trong nước mù với việc nước ngoài cùng đại cuộc thế giới, chỉ biết độc nhứt là con đường cầu cứu với nước Tàu (thường năm phái công sứ sang Tàu, sang Hương Cảng cầu thông với nước Anh và phái Đại Thần Phạm Thận Duật cùng Nguyễn Thuật (không nên lộn với Cụ Nguyễn Thiện Thuật) sang Thiên Tân cùng Thủ Tướng Mãn Thanh Lý Hồng Chương thương nghị việc cầu viện và ngoại giao, các việc trọng yếu, nhưng vô hiệu về không. Mà đường đường một nước lớn như Trung Hoa, không giúp cho Việt Nam một viên đạn, một tay mồ côi không kêu gọi ai được, cho nên toàn bàn đều hỏng.
Đó là Việt Nam kháng Pháp về thời kỳ thứ nhất, con đẻ của tư tưởng trung quân và bài ngoại vậy.