THỜI KỲ THỨ HAI (1884-1890)-
Nam Bắc Kỳ hai xứ đã thất thủ, người Pháp đã dàn xếp thành cái trận thế ‘’rắn Thường Sơn’’ (Thường sơn thế trận) đầu đuôi cũng hưởng ứng nhau, cứ trên cao mà đè xuống dưới. Việc nước Việt Nam không còn làm gì được nữa, người Pháp bèn oai bức Nam Triều nhận nước Pháp làm nước bảo hộ đồng thời bức Triều Đình Mãn Thanh thủ tiêu cái ấn nhận nước Việt Nam là thuộc quốc, bắt đầu Pháp-Việt cùng ký Hòa Ước năm 1884 mà toàn cả nước Việt Nam làm miếng thịt béo trên thớt người Pháp, ký ước giữa Quốc Đô, ghi một vết quốc sỉ cho Việt Nam ta, ngàn năm khó chùi rửa sạch.
Lúc bấy giờ Đại Tướng là ông Tôn Thất Thuyết rất giàu tư tưởng bài ngoại, trước sau kiên trì chủ nghĩa kháng chiến quân Pháp, bao nhiêu điều người Pháp yêu cầu phi lý, đều cự tuyệt cả.
Đến đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885), ông củng tay chiến tướng trứ danh là Đề Soạn và quân tinh nhuệdưới tướng, đồng mưu đánh quân Pháp ở Huế. Giữa lúc triều nghi phân vân thì ông đã nhứt quyết làm theo định kiến của mình ‘’thà làm viên ngọc nát hơn làm tấm ngói toàn vẹn’’ (ninh vi ngọc toái, bất vi ngõa toàn) sắp lưng vào thành, phang cho quân Pháp một trận như đánh bạc liều một keo cuối cùng. Vì đó mà nước ta có cái nạn ‘’Kinh Thành thất thủ’’ năm Ất Dậu.
Kinh Thành thất thủ, ông Tường phò Vua Hàm Nghi chạy ra Cam Lộ, tờ chiếu Cần Vương ban ra, khắp cả nước phầng dậy, nào nghĩa binh, nào nghĩa hội nhóm dày như ong vỡ ổ. Những người trứ danh như:
a.- Phú Yên, Bình Định thì Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trọng Tri (Mai Công tử nạn trong lúc Đốc Phủ Lộc đem quân Pháp trong Nam Kỳ ra tiểu, ông Tăng thoát thân sang Tàu, sau đó vào Xiêm La, nào nước Nga, nước Nhật đều có vết chân, ông Tăng lại có theo Lưu Vĩnh Phúc ở Đài Loan, kế ông ta bôn tẩu ở nước ngoài trên 20 năm làm một tay kiện tướng sống sót thời Cần Vương, đến nay Cụ Phan Bội Châu mạo hiểm sang Nhật Bản, chính Tăng Công làm người hướng đạo, do ông Nguyễn Thành (Tán Hàm) trù hoạch và định kế (1905). Năm sau Tăng về nước, đau chết tại đất Huế, Cụ Sào Nam có chép truyện Tăng có biệt hiệu Điền Bát. (Xem ‘’Tự Phán’’)
b.- Quảng Ngãi thì Cử Nhân Lê Trung Đinh, Tú Tài Nguyễn Tân, Ấm Sinh Nguyễn Bá Loan (con Cụ Danh Thần Nguyễn Bá Nghi, làm tán tương hội Cần Vương, sau chết nạn cự thuế năm 1908). Cử Đinh, Tú Tân chết về tay Nguyễn Thân (Tiệu Phủ Sứ), Lê Khiết tán tương tiệu nghĩa đảng Quảng Nam, sau lại làm tán tương theo Nguyễn Thân tiệu đảng Cụ Phan Đình Phùng ở Nghệ Tịnh, rồi là đến Bố Chánh, bị bãi ở nhà, gặp phong triều tân học, có chịu khuynh hướng, nên chết về việc cự thuế, cũng là một chuyện thú.
c.- Quảng Nam thì ông Trần Ngọc Dư (Tấn Sĩlàm Sơn Phòng Sứ), ông Nguyễn Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành (tức Tán Hàm), Tú Dinh, Phan Văn Bình (thân sinh Cụ Tây Hồ), Lê Vinh Huy, sau việc hỏng đều chết với việc nghĩa, duy ông Nguyễn Thành nhà có mẹ già lại con một được khỏi chết, tiềm tám việc nước trên mười mấy năm, một nhà Cần Vương cựu đảng, kết giao bạn đồng chí sau làm một tay vận trù quyết sách trong cuộc ‘’Đông Đô Nhật Bản’’ của Cụ Sào Nam chiếm một vị trí rất trọng yếu trong cả tân giới, cựu giới. Năm 1908 bị đày ra Côn Lôn rồi chết ngoài đảo, Cụ Sào Nam có làm truyện.
d.- Quảng Trị, Quảng Bình thì có ông Đoàn Chí Tuân (tức Bạch Xĩ). Lúc Vua Hàm Nghi chạy ra ngoài, có Dụ Cần Vương, Đoàn đến Sở Hành Tại hiến sách mà không được kiến dụng, bèn tự dựng một cờ trên miền Lào, không nhập vào phái nào. Đoàn gồm cả tài văn võ, thời ấy ít ai sánh mà làm việc không thành, sau bị tử nạn rõ là Vua Trần Thiệp trong dân nhà Tần vậy.
e.- Hà Tĩnh, Nghệ An thì các ông Phan Đình Phùng, Đinh Văn Chất, Nguyễn Xuân Ôn, Lê Ninh, Cao Thắng, Đội Chanh, Lãnh Đạt, Đốc Quỳnh v.v...
Ông Phan Đình Phùng chống với quân Pháp kéo dài trên 10 năm, Cao Thắng phỏng theo kiểu súng Tây, đúc được thứ súng tân thức, thường đánh bại quân Pháp, dũng mưu lại đánh giỏi, có tướng tài, dinh lũy đồn trại ở núi Vũ Quang, quân Pháp xem như kinh địch. Sau Cao, Phan chết đảng mới tan.
g.- Thanh Hóa thì các ông Tống Duy Tân, Phan Bành, Đinh Công Tráng, trận đánh ở Ba Đình, tiếng súng rung động các Tỉnh gần xa, là trận đánh kịch liệtcó danh nhất trong nghĩa binh. Ba Đình bị vây cầm cựu khá lâu, sau vì người chết nhiều quá, thây nằm ngổn ngang, không nước uống, Đinh Công Tráng mới thoát thân ra ngoài vòng vây, thu góp tàn quân đặng toan cử binh lần khác.
h.- Bắc Kỳ thì ông Nguyễn Quang Bích, Võ Hữu Lợi, Tản Cao, Tán Thuật, Đốc Ngữ, Đốc Tích, Đề Kiều, Đề Thám v.v...sau việc hỏng, kẻ chết người sang Tàu. Duy ông Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám) hùng cứ miền Phồn Xương, về sơn phần An Thế, thường đánh giết quân Pháp, nghiễm nhiên thành một xu vức độc lập sau Việt Nam đã mất nước. Đường thiết lộ Hà Nội-Vân Nam thường bị quân ông ta phá hủy, người Pháp không sao làm được, bèn cùng ông giảng hòa, nhường một huyện An Thế cho ông làm trại đồn điền, như một nước địch. Cụ Sào Nam có cùng ông đính ước, cùng đảng cách mạng Nghệ Tịnh làm ỷ dốc. Đảng ông Tú Ngôn ở Nghệ, có ra đây lập một cái đồn để luyện quân, gọi là đồn Tú Nghệ. Sau vì quân giới ở ngoài không du nhập được quân Cần Vương chống với quân Pháp, ông Đề thám cầm cự dài đến 20 năm, sau Hoàng chết đồn mới tan.
Như trên lược kể nghĩa đảng Cần Vương gần thì hai ba năm, lâu thì mười năm, hai mươi năm, tuy quân khi không địch lại quân Pháp, tay không, không thể làm sao, mấy mươi vạn trung thần nghĩa sĩ, chí sĩ nhân cùng đồng bào ái quốc đều dồn làm tiếng sấm nổ vang trời vùng biển Nam mà tan dần dần, song cái ‘’hồn tinh vệ lấp bể’’, cái ‘’độc ong bầy mến ổ’’, khiến nước Pháp, một cường quốc đứng hàng thứ nhất bên Âu Châu không sao dựa gối cao mà ngủ yên giấc được. Sanh khí của đồng bào, nghĩa đảng kể trên, vẫn dồn chứa ngui ngoai trong vùng núi Hoành, biển Quế, đến nay còn chưa dứt kia.
Đây là thời kỳ cách mạng thứ hai, chính con đẻ của tư tưởng ‘’trung quốc cứu quốc’’ phái Hán Học vậy.