← Quay lại trang sách

Chương 1 Trong chương này, chúng ta sẽ được biết về ngôi làng Bức Tường, -và những điều kỳ lạ xảy ra ở đó cứ chín năm một lần.

Ngày xửa ngày xưa, có một chàng thanh niên mong mỏi đạt được Mộng Ước Trái Tim.

Và mặc dù, giống như các khởi đầu khác, đây không phải toàn bộ nội dung cuốn tiểu thuyết (vì mọi câu chuyện về mọi chàng thanh niên đều đã hoặc sẽ có thể được bắt đầu theo một cách tương tự), có rất nhiều điều kỳ thú về chàng thanh niên này và những chuyện xảy ra với anh thật chẳng bình thường, nhưng đến cả anh cũng không bao giờ biết được trọn vẹn.

Câu chuyện bắt đầu, như nhiều câu chuyện khác đã bắt đầu, ở Bức Tường.

Thị trấn Bức Tường ngày hôm nay vẫn tọa lạc đúng y như nó vẫn từng tọa lạc suốt sáu trăm năm qua trên một dải đá hoa cương cao giữa một khoảnh rừng nhỏ. Các ngôi nhà ở Bức Tường đều cũ và vuông vắn, được xây bằng đá xám, với những mái ngói đá đen và các ống khói vươn cao; tận dụng đến từng phân diện tích trên đá, các ngôi nhà tựa sát vào nhau, nhà xây trước làm điểm tựa cho nhà xây sau, và đây đó lại có một bụi rậm hay một cái cây nhô ra từ một sườn nhà.

Có một con đường chạy từ Bức Tường, một đường mòn uốn khúc đột ngột đâm thẳng từ khu rừng ra, hai bên mép đường lổn nhổn đá tảng và đá dăm. Cách một đoạn tương đối xa về phía Nam, bên ngoài khu rừng, con đường mòn trở thành một con đường hẳn hoi, được rải nhựa đường; càng đi xa đường càng nở rộng, lúc nào cũng ken đặc xe con và xe tải chạy như thoi đưa từ thành phố này sang thành phố khác. Cuối cùng, con đường ấy sẽ dẫn ta tới London, nhưng London nằm cách Bức Tường trọn một cuốc lái xe thâu đêm.

Cư dân ở Bức Tường có bản tính lầm lì, ít nói, thuộc hai kiểu người khác hẳn nhau: một là dân Bức Tường gốc, cao lớn, chắc nịch và da dẻ nhợt nhạt, chẳng khác gì lớp đá hoa cương nơi thị trấn của họ được xây dựng lên; và một là những người đã dần dần theo thời gian biến Bức Tường trở thành quê nhà của mình, cùng với con cháu đời sau của họ.

Bên dưới Bức Tường, về phía Tây là khu rừng; phía Nam là một hồ nước yên ả xảo trá được hợp thành bởi những dòng nước chảy về phương Bắc từ dãy đồi đằng sau Bức Tường. Những cánh đồng trải dài trên đồi, nơi cừu thường được thả đi ăn cỏ. Phía Đông lại là vùng rừng.

Ngay phía Đông của Bức Tường, có một bức tường cao bằng đá xám, nguồn gốc cái tên của thị trấn này. Bức tường này đã lâu năm, được xây từ những tảng đá hoa cương đẽo thành khối vuông xù xì, xuất phát từ khu rừng và rồi lại lộn ngược trở về rừng. Chỉ có duy nhất một khe hở trên tường; một lỗ hổng rộng chừng mét tám, nằm hơi chếch về phía Bắc ngôi làng.

Qua cái lỗ trên tường, có thể thấy một đồng cỏ rộng xanh ngắt; phía bên kia đồng cỏ có một dòng sông; và phía bên kia dòng sông là cây cối. Thỉnh thoảng, cũng có thể nhìn thấy những bóng dáng này hình thù nọ, giữa đám cây cối, ở xa xa. Những hình thù to lớn cùng những bóng dáng kỳ dị và những thứ nhỏ bé chập chờn lóe sáng, lấp lánh và rồi biến mất. Mặc dù nơi này là địa điểm hoàn hảo để chăn thả gia súc, nhưng chưa từng có một dân làng nào cho vật nuôi lai vãng đến đồng cỏ phía bên kia bức tường. Họ cũng không hề trồng trọt gì trên đó.

Thay vào đó, từ hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn năm nay, họ vẫn cử người canh gác hai bên lỗ hổng trên bức tường, đồng thời cố hết sức để loại bỏ nó ra khỏi tâm trí.

Thậm chí đến tận ngày nay, hai người dân thị trấn vẫn đứng canh hai bên lỗ hổng, cả ngày lẫn đêm, đổi ca tám tiếng một lần. Họ cầm theo những cây gậy tày nặng trịch bằng gỗ. Họ trấn giữ lỗ hổng từ bên phía thị trấn.

Nhiệm vụ chủ yếu của họ là ngăn sao cho đám trẻ con thị trấn không chui qua lỗ hổng vào trong đồng cỏ và đi xa hơn nữa. Thỉnh thoảng, họ lại được cậy đến để cản bước một kẻ lang thang cô độc hay một trong số những vị khách ít ỏi ghé thăm thị trấn, không để họ đi qua cánh cổng ấy.

Với đám trẻ con, họ ngăn cản bằng cách đơn giản là trưng cây gậy tày ra. Còn với những kẻ lang thang và du khách thì họ sáng tạo hơn nhiều, chỉ dụng đến sức mạnh cơ bắp như phương án cuối cùng nếu những câu chuyện về cỏ mới trồng hay một con bò nguy hiểm đang bị thả rông không đủ sức thuyết phục.

Hiếm hoi lắm mới có một người biết rõ mình đang tìm kiếm gì khi đến Bức Tường, và những người này thỉnh thoảng cũng được phép cho đi qua. Họ có kiểu ánh mắt mà một khi đã nhìn vào thì không ai có thể nhầm lẫn về nó được.

Theo những gì người dân thị trấn được biết, trong suốt thế kỷ hai mươi, không có bất kỳ ai lén mang được gì từ bên này sang bên kia bức tường và họ lấy làm hãnh diện về điều đó.

Người canh gác được nghỉ xả hơi chín năm một lần, vào Lễ Lao động, khi một hội chợ được tổ chức trên cánh đồng.

Các sự kiện được kể đến sau đây đã xảy ra từ nhiều năm về trước. Nữ hoàng Victoria đang ngự trên ngai vàng nước Anh, nhưng Người vẫn chưa trở thành goá phụ áo đen của Windsor: đôi má Người hây hây bầu bĩnh, chân bước rộn ràng, và Huân tước Melbour thường xuyên có lý do để mà khiển trách, một cách nhẹ nhàng, nữ hoàng trẻ tuổi về những hành động bồng bột của ngài. Người cũng chưa lập gia đình dẫu đang đắm chìm trong men say tình ái.

Ngài Charles Dickens đang trích đăng từng kỳ cuốn tiểu thuyết Oliver Twist của mình; ngài Draper vừa chụp bức ảnh đầu tiền về mặt trăng, đóng băng khuôn mặt nhợt nhạt của nàng trên tờ giấy mát lạnh; ngài Morse mới công bố cách truyền tin thông qua đường dây kim loại.

Nếu lúc này bạn nhắc đến phép thuật hay Xứ Tiên với bất kỳ ai trong số họ, thể nào họ cũng sẽ trao cho bạn một nụ cười mỉm khinh thường, có lẽ chỉ trừ ngài Dickens, hồi bấy giờ còn đang là một chàng thanh niên, và không có râu. Chàng trai ấy hẳn sẽ nhìn bạn bằng ánh mắt đăm chiêu.

Mùa xuân năm đó, mọi người đang lục tục kéo đến quần đảo Anh. Họ đến đơn lẻ từng người, họ đến theo đôi theo cặp, và họ đổ bộ vào Dover, London hay Liverpool: những người đàn ông và đàn bà với nước da trắng nhợt như tờ giấy, nước da đen như đá núi lửa hay nước da màu quế, nói bằng vô số ngôn ngữ khác nhau. Họ kéo đến trong suốt tháng Tư bằng tàu hơi nước, bằng ngựa, bằng xe moóc hay xe ngựa, và trong số họ, có rất nhiều người đi bộ.

Hồi đó, Dunstan Thorn mười tám tuổi, và anh không phải típ người lãng mạn.

Anh có mái tóc màu nâu sẫm, mắt màu nâu sẫm, và những đốm tàn nhang màu nâu sẫm. Anh có vóc người tầm thước, không thuộc kiểu hoạt ngôn. Trên môi anh luôn thường trực một nụ cười tươi tắn khiến khuôn mặt anh sáng bừng từ trong ra ngoài, và những khi mơ mộng vẩn vơ trên cánh đồng của cha mình, anh lại tưởng tượng đến tương lai được rời khỏi ngôi làng Bức Tường cùng toàn bộ sức mê hoặc không thể đoán trước được của nó, để rồi lên đường tới London, hoặc Edinburgh, hoặc Dublin, hoặc một thành phố lớn nào đó nơi chẳng có bất kỳ thứ gì bị lệ thuộc vào chiều gió thổi. Anh làm việc trên trang trại của cha mình và chẳng có tài sản gì ngoài một mái nhà tranh nhỏ bé giữa một cánh đồng xa xôi được thừa kế từ cha mẹ.

Tháng Tư đó, các vị khách kéo đến Bức Tường dự hội chợ, và Dunstan không khỏi bực mình vì họ. Quán trọ của ông Bromios, quán Chim Ác Là Thứ Bảy, bình thường nhan nhản phòng trống, nay đã kín khách từ một tuần trước, và giờ thì các vị khách lạ đã bắt đầu kiếm phòng ở các trang trại và nhà dân, trả tiền trọ bằng những đồng tiền xa lạ, bằng thảo mộc và gia vị, thậm chí bằng cả đá quý. Càng gần đến ngày hội chợ, bầu không khí phấn khích càng tăng cao. Người ta dậy sớm hơn, đếm từng ngày từng phút. Những người canh gác cổng, ở cả hai phía của bức tường, đều bồn chồn lo lắng không yên. Các hình thù và bóng dáng di chuyển giữa đám cây cối ở bên rìa đồng cỏ.

Trong Chim Ác Là Thứ Bảy, Bridget Comfrey, vốn được đông đảo mọi người công nhận là cô hầu bàn xinh đẹp nhất họ từng gặp trong đời, đang khơi mào mâu thuẫn giữa Tommy Forester, anh chàng từng bị bắt gặp hẹn hò cùng cô nàng hồi năm ngoái và một người đàn ông cao lớn mắt đen mang theo một con khỉ nhỏ đang kêu ầm ĩ.

Người đàn ông chỉ nói tiếng Anh bập bẹ, nhưng hễ Bridget lảng vảng quanh đấy là anh ta lại cười toe toét.

Trong quầy rượu của quán, khách quen ngồi sát sạt đến mức vướng víu với các khách lạ, bàn tán những chuyện kiểu như:

“Cứ chín năm mới có một lần đấy.”

“Nghe bảo hồi xưa nó được tổ chức thường niên, vào khoảng giữa hè.”

“Cứ hỏi ông Bromios đi. Ông ấy thể nào cũng biết đấy.”

Ông Bromios có dáng người cao, nước da màu ô liu; mái tóc đen của ông xoăn tít trên đầu; đôi mắt ông màu xanh lục. Khi các cô gái trong làng lớn lên, họ đã để mắt đến ông Bromios, nhưng ông không đáp lại sự chú ý của họ. Nghe nói, ông đã đến làng từ khá lâu trước đây, ban đầu chỉ là một vị khách. Nhưng ông đã ở lại làng; và ông có rượu ngon, vậy nên dân làng đều tán thành.

Một cuộc tranh cãi ầm ĩ bùng nổ trong phòng khách giữa Tommy Forester và người đàn ông tóc đen, có vẻ như tên là Alum Bey.

“Ngăn họ lại đi! Nhân danh thiên đàng! Ngăn họ lại đi!” Bridget hét lên. “Họ sắp ra đằng sau để đánh nhau vì tôi đấy!” Và cô ta hất đầu, một cách đầy duyên dáng, để ánh đèn dầu bắt trọn những lọn tóc xoăn vàng hoàn hảo của mình.

Không ai buồn nhúc nhích để ngăn cản hai người đàn ông kia, mặc dù không ít người, cả dân làng lẫn các vị khách mới đến, đã ra ngoài hóng chuyện. Tommy Forester cởi áo sơ mi và dứ dứ hai nắm đấm trước mặt. Người khách lạ bật cười, nhổ một bãi nước bọt lên đám cỏ rồi tóm lấy bàn tay phải của Tommy và ném bổng anh ta xuống mặt đất, đập cằm xuống trước. Tommy bò dậy và chạy về phía người khách lạ. Anh ta đấm sượt qua má người đàn ông kia, rồi sau đó nhận ra chính mình đã bị cắm mặt xuống đất, mặt anh ta đập bẹt vào giữa đống bùn, hơi thở bị tống ra khỏi buồng phổi. Alum Bey ngồi trên người anh ta, cười khùng khục và nói gì đó bằng tiếng Ả Rập.

Chóng vánh đến thế, nhẹ nhàng đến thế, cuộc ẩu đả kết thúc.

Alum Bey đứng dậy khỏi người Tommy Forester và khệnh khạng bước tới chỗ Bridget Comfrey, cúi thấp người trước mặt cô ta rồi toét miệng cười, khoe hàm răng trắng lóa.

Phớt lờ anh ta, Bridget chạy tới chỗ Tommy “Này, hắn đã làm gì với anh vậy, anh yêu?” cô ta hỏi và lấy tạp dề lau vết bùn trên mặt anh ta, gọi anh ta bằng đủ các cách gọi âu yếm hết mực.

Alum Bey, cùng với đám khán giả, quay trở lại phòng khách của quán trọ, và đến khi Tommy Forester quay trở lại thì ân cần mua cho anh này một chai Chablis của ông Bromios. Cả hai người họ đều chẳng dám chắc ai thắng ai thua.

Tối hôm đó, Dunstan Thorn không có mặt ở Chim Ác Là Thứ Bảy: anh là một chàng trai thực tế, trong sáu tháng vừa qua vẫn đang theo đuổi Daisy Hempstock, một phụ nữ trẻ cũng có tính thực tế y hệt. Vào những buổi tối đẹp trời, họ thường đi dạo quanh làng, trao đổi về lý thuyết luân canh, về thời tiết, cũng như các vấn đề thực tế kiểu thế; và trong những chuyến đi dạo ấy, vốn luôn luôn có sự đồng hành phía sau của bà mẹ và cô em gái Daisy ở khoảng cách lành mạnh là sáu bước chân, thỉnh thoảng họ lại chăm chăm nhìn nhau đắm đuối.

Đến cửa nhà Hempstock, Dunstan sẽ dừng chân, cúi người chào tạm biệt.

Và Daisy Hempstock sẽ bước vào trong nhà, cởi chiếc mũ bon nê ra rồi nói, “Con chỉ mong sao anh Thorn quyết định ngỏ lời cầu hôn. Con dám chắc cha sẽ không phản đối chuyện đó đâu.”

“Quả thật, mẹ tin chắc ông ấy sẽ không phản đối,” mẹ Daisy nói tối hôm đó, y như bà vẫn nói vào mọi buổi tối giống như vậy, và bà cởi mũ bon nê cùng găng tay ra rồi dẫn hai cô con gái tới phòng khách, nơi một quý ông cao lênh khênh râu đen dài lượt thượt đang ngồi chọn lọc đống đồ của mình. Daisy, cùng mẹ và em gái cô, duyên dáng nhún gối cúi chào quý ông (ông này chỉ nói bập bẹ tiếng Anh và mới vừa đến được vài ngày). Đến lượt mình, vị khách trọ tạm thời bèn đứng dậy cúi đầu chào họ, rồi sau đó quay trở lại với đống đồ gỗ lặt vặt, chọn chọn, lọc lọc, sắp xếp và đánh bóng.

Tháng Tư đó, trời lạnh căm, với sự thất thường đến mức khó chịu của mùa xuân nước Anh.

Khách khứa từ phương Nam đi xuyên rừng trên con đường hẹp; họ lấp kín các phòng trống, họ ngủ trong các chuồng bò và chuồng ngựa. Một số người dựng những chiếc lều sặc sỡ, một số lại đến trên xe moóc riêng được kéo bằng những con ngựa xám to lớn hoặc những chú ngựa lùn nhỏ bé lông bờm xờm.

Trong rừng, có một thảm hoa cát cánh.

Vào buổi sáng ngày 29 tháng Tư, Dunstan Thorn nhận nhiệm vụ canh gác ở chỗ tường hở, cùng Tommy Forester. Họ đứng mỗi người một bên lỗ hổng, và họ đợi.

Dunstan đã không ít lần đảm nhiệm vai trò canh gác, nhưng từ trước đến giờ, nhiệm vụ của anh chỉ đơn giản là đứng đó, và thỉnh thoảng là xua bọn trẻ con đi chỗ khác.

Hôm nay, anh cảm thấy tầm quan trọng của bản thân: anh nắm cây gậy tày bằng gỗ, và mỗi khi có vị khách phương xa lạ mặt nào tiến đến chỗ lỗ hổng trên bức tường, Dunstan hoặc Tommy lại nói, "Mai nhé, mai nhé. Hôm nay không ai đi qua được đâu, các quý ngài.”

Vậy là các vị khách kia thoái lui một chút, rồi chăm chăm nhìn xuyên qua cái lỗ hổng trên tường, hướng ánh mắt về phía đồng cỏ khiêm tốn bên kia, về phía những cái cây hoàn toàn bình thường nằm rải rác trên cánh đồng, về phía khu rừng có phần u ám đằng sau nó. Vài người trong số họ cố tìm cách bắt chuyện với Dunstan hoặc Tommy, nhưng hai chàng trai trẻ, ấp ủ niềm tự hào với vai trò canh gác của mình, từ chối chuyện trò, tự thỏa mãn bản thân bằng cách ngẩng cao đầu, mím chặt môi và nhìn chung toát lên vẻ ta đây là người quan trọng.

Đến giờ ăn trưa, Daisy Hempstock mang cho cả hai một nồi bánh nhân thịt nhỏ phủ khoai tây nghiền, còn Bridget Comfrey mang cho mỗi người một vại bia gia vị.

Và, lúc chạng vạng, hai trai làng lực lưỡng khác đến đổi phiên cho họ, mỗi người mang theo một cái đèn lồng, còn Tommy và Dunstan tới quán trọ, được ông Bromios thết đãi mỗi người một vại bia thượng hạng - và bia thượng hạng của ông quả thật rất ngon - để tưởng thưởng cho họ vì đã làm nhiệm vụ canh gác.

Quán trọ, giờ đã đông đến mức không tin nổi, chìm trong bầu không khí ồn ào phấn khích. Quán đông nghịt các vị khách đổ về làng từ mọi quốc gia trên thế giới, hoặc nó có vẻ là thế trong ấn tượng của Dunstan, người chẳng hề có khái niệm nào về khoảng cách phía bên kia khu rừng bao quanh làng Bức Tường. Vậy nên anh nhìn quý ông cao lớn đội mũ đen chóp cao ngồi ở bàn bên cạnh, vốn đã lặn lội từ tận London đến đây, với sự ngưỡng mộ ngang ngửa khi anh nhìn quý ông còn cao lớn hơn, da đen bóng, khoác áo choàng dài màu trắng, đang ăn tối cùng ông ta.

Dunstan biết rõ cứ trân trân nhìn người khác thì thật thô lỗ, và rằng, với tư cách một cư dân làng Bức Tường, anh có đầy đủ mọi quyền hạn để cảm thấy mình đang ở trên tất cả những “kẻ ngoại quốc”. Nhưng anh có thể ngửi thấy những thứ mùi khác lạ trong không khí, nghe thấy những người đàn ông đàn bà nói chuyện với nhau bằng hàng trăm thứ tiếng, và anh cứ thế trố mắt ra nhìn chăm chăm chẳng hề kiêng dè.

Để ý thấy mình đang bị Dunstan chiếu tướng, người đàn ông đội mũ lụa đen chóp cao bèn ra dấu gọi chàng trai lại gần. “Anh thít bánh pudding mật đường hông?” ông ta đột ngột hỏi, thay lời giới thiệu “Mutanabbi bị gọi đi chỗ khác rồi, và một người thì chẳng thể xử lý hết chỗ bánh pudding ở đây được”

Dunstan gật đầu. Món bánh pudding mật đường đang bốc hơi đầy mời gọi trên đĩa. “Vậy thì,” người bạn mới của anh nói “Cứ tự nhiên đi nhé.” Ông ta đẩy sang cho Dunstan cái bát sứ sạch cùng một cái thìa. Chẳng cần phải được khuyến khích gì thêm, Dunstan bắt đầu càn quét món bánh pudding.

“Này, chàng trai,” quý ông cao lớn đội mũ lụa đen chóp cao nói với Dunstan, khi cả hai cái bát của họ lẫn đĩa bánh pudding đều đã sạch trơn, “có vẻ như quán trọ hông còn phòng nữa; mọi phòng trọ trong làng cũng đều đã bị thuê hết rồi.”

“Vậy hả?” Dunstan hỏi, không hề ngạc nhiên.

“Đúng thế đấy,” quý ông đội mũ chóp cao nói. “Và hông biết liệu anh có biết nhà nào có lẽ vẫn còn phòng hông nhỉ?”

Dunstan nhún vai. “Đến giờ thì chẳng còn phòng nào đâu,” anh nói. “Tôi nhớ hồi tôi chín tuổi, cha mẹ đã tống tôi đi ngủ suốt một tuần trong chuồng bò, nhường phòng tôi lại cho một quý bà từ phương Đông cùng với gia đình và người hầu của bà ấy. Bà ấy tặng tôi một con diều để cảm ơn, và tôi vẫn thả nó bay trên đồng cỏ cho mãi tới một hôm con diều đứt dây bay lên trời.”

“Giờ anh sống ở đâu?” quý ông đội mũ chóp cao hỏi.

“Tôi có một căn nhà tranh ở bên rìa khu đất của cha tôi,” Dunstan đáp. “Nó vốn là nhà người chăn cừu của chúng tôi cho tới khi ông ấy chết, đúng đợt hội mùa hồi hai năm trước, và cha mẹ chuyển giao nó cho tôi.”

“Đưa tôi đến đó nhé,” quý ông đội mũ nói, và Dunstan không hề nghĩ đến chuyện từ chối ông ta.

Mặt trăng mùa xuân sáng tỏ, treo cao trên bầu trời, và bầu không khí buổi đêm thật trong lành. Họ đi bộ từ làng đến cánh rừng phía dưới nó, và họ đi bộ xuyên suốt con đường băng qua nông trại của gia đình Thorn (tại đây, quý ông đội mũ chóp cao đã phát hoảng trước một con bò đang ngủ giữa đồng cỏ và khụt khịt trong cơn mơ) cho tới khi đến được căn nhà tranh của Dunstan.

Căn nhà có một phòng và một lò sưởi. Người khách lạ gật đầu. “Tôi nghĩ thế này là đủ lắm rồi” ông ta nói. “Nào, Dunstan Thorn, tôi sẽ thuê chỗ này của anh trong ba ngày tới nhé.”

“Ông sẽ trả gì cho tôi?”

“Một đồng sovereign (1) vàng, một đồng sáu xu bạc (2), một penny đồng (3) và một farthing (4) mới coóng bóng loáng” người đàn ông nói.

(1. Sovereign: Tiền vàng của Anh trước đây, có giá trị 1 bảng.

2. Pence, đồng xu mới của Anh, có giá trị 1/100 bảng.

3. Penny đồng xu cổ của Anh, có giá trị 1/240 bảng.

4. Farthing, có giá trị bảng 3 pence.)

Vào cái thời người nông dân có lẽ chỉ mong kiếm mười lăm bảng cho một năm được mùa thì một đồng sovereign vàng đúng là cái giá quá hời cho hai đêm thuê trọ. Tuy nhiên, Dunstan vẫn lưỡng lự “Nếu ông đến đây vì phiên chợ,” anh nói với người đàn ông cao lớn, “vậy thì hẳn là ông sẽ buôn bán các phép mầu và điều kỳ diệu.”

Người đàn ông cao lớn gật đầu. “Vậy là anh theo đuổi các phép mầu và điều kỳ diệu hả?”

Ông ta lại nhìn một lượt căn nhà một phòng của Dunstan. Lúc đó, trời bắt đầu đổ mưa, những giọt mưa rơi lộp độp êm ái lên mái tranh phía trên đầu họ.

“Ôi, được rồi,” người đàn ông cao lớn nói, giọng hơi bực mình, “một phép mầu, một điều kỳ diệu. Ngày mai, anh sẽ đạt được Mộng Ước Trái Tim của mình. Này, tiền của anh đây,” và ông ta lấy nó ra từ tai Dunstan bằng một động tác đơn giản. Dunstan gõ nhẹ nó lên cái đinh sắt ở cửa căn nhà tranh, kiểm tra thứ vàng tiên, rồi anh cúi thấp người chào quý ông kia và bước ra màn mưa ngoài trời. Anh buộc món tiền vào trong chiếc khăn tay.

Dunstan băng qua màn mưa như trút tới chuồng bò. Anh leo lên vựa cỏ khô và chẳng mấy chốc đã chìm vào giấc ngủ.

Trong đêm, mặc dù không hề tỉnh dậy, anh vẫn nhận thấy tiếng sấm và ánh chớp; rồi mới sớm tinh mơ, anh đã bị đánh thức vì ai đó đang vụng về giẫm lên bàn chân anh.

“Xin lỗi,” một giọng nói vang lên. “Ý tôi là xin thứ lỗi cho tôi nhé.”

“ Ai đấy? Ai ở kia đấy?” Dunstan hỏi.

“Là tôi đây,” giọng nói đáp lời. “Tôi ở đây vì phiên chợ. Lúc tối, tôi ngủ trong một cái cây rỗng ruột, nhưng sét đã đánh gãy nó, đập nó nứt toác ra như đập trứng và quất vào nó như một cái roi, rồi mưa rơi xuống cổ tôi, đe dọa thấm vào hành lý của tôi, mà trong đó lại có nhiều thứ nhất thiết phải giữ cho khô cong như bụi, và tôi đã giữ nó an toàn như ở nhà suốt hành trình đến đây, mặc dù nó ướt...”

“Như nước chăng?” Dunstan gợi ý.

“Vô cùng luôn,” giọng nói tiếp tục trong bóng tối. “Vậy nên tôi không biết,” nó tiếp tục, “liệu anh có phiền không nếu tôi ở lại đây dưới mái nhà của anh vì tôi không to lớn gì cho lắm, và tôi sẽ không làm phiền anh hay gì cả.”

“Chỉ cần đừng có giẫm lên tôi là được,” Dunstan thở dài. Đúng lúc đó, một tia chớp chiếu tỏ chuồng bò, và trong ánh sáng ấy, Dunstan nhìn thấy một sinh vật nhỏ bé lông lá đang ở góc chuồng, đội một cái mũ mềm to tướng. Và rồi, chỉ còn bóng tối.

“Hy vọng tôi không làm phiền anh,” giọng nói lên tiếng, mà giờ nghĩ lại thì Dunstan thấy chắc chắn nó có phần thô ráp.

“Không đâu,” Dunstan nói, lúc này đã mệt rũ cả ra.

“Vậy thì được,” giọng nói thô ráp cất lời, “vì tôi không muốn làm phiền anh”

“Làm ơn” Dunstan van vỉ, “để yên cho tôi ngủ với. Làm ơn.”

Tiếng khịt mũi vang lên, rồi bị thay thế bởi tiếng ngáy khe khẽ.

Dunstan lăn mình trên đống cỏ khô. Người kia, cho dù đó là người nào hay cái thứ gì đi chăng nữa, xì hơi, gãi mình sồn sột và lại bắt đầu ngáy.

Dunstan lắng nghe tiếng mưa rơi trên mái chuồng bò, nghĩ đến Daisy Hempstock, và trong dòng tưởng tượng của anh, họ đang đi dạo bên nhau, đi bộ đằng sau cách họ sáu bước chân là một người đàn ông cao lớn đội mũ chóp cao cùng một sinh vật nhỏ bé lông lá mà Dunstan không sao nhìn rõ mặt. Họ lên đường để gặp Mộng Ước Trái Tim của anh...

Ánh mặt trời rực rỡ chiếu lên mặt anh, và chuồng bò vắng hoe. Anh rửa mặt rồi đi tới nhà trang trại.

Anh mặc chiếc áo khoác đẹp nhất của mình, cùng chiếc sơ mi đẹp nhất và cái quần ống túm đẹp nhất. Anh lấy con dao nhíp cạo bùn ra khỏi đôi bốt. Rồi anh vào trong bếp, hôn má mẹ, tự lấy cho mình một ổ bánh mì tròn và một khoanh bơ tươi to tướng.

Rồi sau đó, với đống tiền buộc trong chiếc khăn tay đẹp nhất bằng vải lanh mịn, anh lên đường đến làng Bức Tường và chào hỏi hai người canh gác ở cổng.

Qua lỗ hổng trên tường, anh có thể nhìn thấy các căn lều sặc sỡ đã được dựng lên, các quầy hàng đã được lắp đặt, cờ rực rỡ sắc màu, và người người đi qua đi lại.

“Chúng tôi sẽ không cho bất kỳ ai đi qua trước buổi trưa đâu,” người gác cổng nói.

Dunstan nhún vai, rồi đi đến quán rượu, ngẫm nghĩ xem sẽ mua gì với món tiền tiết kiệm của mình (đồng nửa curon sáng bóng anh để dành được, cùng với đồng sáu xu may mắn được đục một cái lỗ ở giữa để xỏ qua một sợi dây da đeo quanh cổ) cộng với một chiếc khăn cài túi ngực đựng đầy nhóc tiền xu. Trong một thoáng, anh chẳng còn nhớ đến bất kỳ thứ gì khác đã được hứa hẹn vào đêm trước đó. Đến trưa, Dunstan sải bước tới chỗ bức tường, và bồn chồn lo lắng như thể đang phạm vào điều cấm kị nghiêm trọng nhất, anh bước qua bức tường cùng một người mà anh nhận ra là quý ông đội mũ lụa đen chóp cao, và ông này gật đầu chào anh.

“ Ái chà. Chủ nhà của tôi. Hôm nay ngài thế nào, thưa ngài?”

“Ổn lắm,” Dunstan nói.

“Đi với tôi nào,” người đàn ông cao lớn nói “Chúng ta đi cùng nhau nhé.”

Họ băng qua đồng cỏ, tiến về khu lều. “Anh đã đến đây bao giờ chưa?” người đàn ông cao lớn hỏi.

“Tôi đã đến dự phiên chợ trước, cách đây chín năm. Hồi đó tôi mới chỉ là một thằng nhóc,” Dunstan thú nhận.

“Chậc,” người khách trọ của anh nói, “nhớ cư xử lịch sự nhé, và đừng nhận quà cáp gì. Hãy nhớ anh là một người khách. Còn bây giờ, tôi sẽ trao cho anh phần phí thuê nhà còn lại mà tôi vẫn nợ anh. Vì tôi đã tuyên thệ. Và món quà tôi tặng sẽ có giá trị lâu dài. Anh và đứa con đầu của anh và đứa con đầu của người con cả của anh... Đó là một món quà sẽ luôn còn giá trị chừng nào tôi còn sống”

“Và nó là gì vậy, thưa ngài?”

“Mộng Ước Trái Tim của anh, nhớ nhé,” quý ông đội mũ chóp cao nói. “Mộng Ước Trái Tim của anh.”

Dunstan cúi đầu lắng nghe, rồi họ tiếp tục đi về phía hội chợ.

“Mắt đây, mắt đây! Mắt mới cho người già đây!” một người phụ nữ nhỏ thó hét lên phía trước một cái bàn chất đầy các chai lọ đựng đầy oặp các con mắt đủ loại đủ màu.

“Nhạc cụ trăm miền đây!”

“Huýt sáo một xu! Ngân nga hai xu! Nhạc vui đồng ca ba xu đây!”

“Thử vận may nào! Hãy bước lên đây nào! Trả lời một câu đố đơn giản và giành giải thưởng là một bông cỏ chân ngỗng nào!”

“Oải hương trường cửu đây! Khăn trải bàn hoa cát cánh đây!”

“Ước mơ đóng chai một shilling một chai đây!”

“Áo choàng làm bằng đêm! Áo choàng làm bằng hoàng hôn! Áo choàng làm bằng chạng vạng đây!”

“Gươm tài lộc! Đũa phép quyền lực! Nhẫn vĩnh hằng! Bộ bài ân huệ đây! Đến đây nào, đến đây nào, bước theo đường này nào!”

“Dầu xoa thuốc mỡ, bùa mê thuốc chữa đây!”

Dunstan dừng chân trước một quầy hàng bày kín những món đồ trang trí nhỏ xíu bằng pha lê; anh ngắm nghía những bức tượng động vật nhỏ, cân nhắc tìm một món cho Daisy Hempstock. Anh nhấc lên một con mèo pha lê, to không quá ngón tay cái của anh. Con mèo pha lê nghiêm nghị chớp mắt với anh, và anh giật mình đánh rơi bức tượng; nó tự chỉnh lại tư thế giữa không trung và rơi xuống trên bốn chân, y như một con mèo thật. Rồi nó oai vệ tiến đến góc quầy, bắt đầu tự vệ sinh cơ thể.

Dunstan tiếp tục bước đi, xuyên qua khu chợ chật ních.

Khu chợ tấp nập người qua lại; tất cả các vị khách đã đến Bức Tường từ vài tuần trước đều có mặt ở đây, cộng thêm rất nhiều cư dân của thị trấn Bức Tường. Ông Bromios đã dựng một lều rượu và lúc này đang bán rượu cùng bánh nướng nhân thịt cho dân làng, những người thường xuyên bị cám dỗ bởi các loại đồ ăn do cư dân ở Phía Bên Kia Bức Tường bán nhưng lại nhận được lời dặn dò từ các bậc ông bà của họ, vốn được truyền lời từ ông bà của ông bà họ, rằng sẽ vô cùng, tuyệt đối sai lầm nếu ăn thức ăn tiên, xơi trái cây tiên, uống nước tiên và nhấp rượu tiên.

Cứ chín năm một lần, người dân Phía Bên Kia Bức Tường và trên khắp ngọn đồi lại dựng các quầy hàng lên, rồi suốt một ngày một đêm, đồng cỏ đóng vai trò địa điểm tổ chức cho Phiên Chợ Tiên; và ở đó, trong một ngày một đêm cứ chín năm một lần, hoạt động buôn bán giữa các nước lại diễn ra.

Người ta bán các điều kỳ diệu, các kỳ tích, các phép mầu; người ta bán những điều không ngờ và những thứ không tưởng (thế quái nào, Dunstan băn khoăn, mà có người lại cần đến những vỏ trứng chứa đầy bão nhỉ?). Anh xóc xóc món tiền đựng trong cái túi tiền làm bằng khăn tay, tìm kiếm một món đồ lặt vặt không mấy đắt đỏ nào đó để làm vui lòng Daisy.

Anh nghe thấy một tiếng chuông ngân khe khẽ trong không trung, vang lên trên nền những âm thanh ồn ã của phiên chợ; vậy là anh tiến về phía đó.

Anh băng qua một gian hàng có năm người đàn ông khổng lồ đang nhảy múa theo tiếng đàn quay sầu thảm được tấu lên bởi một chú gấu đen với vẻ mặt u sầu; anh băng qua một gian hàng có một người đàn ông hơi hói đầu mặc kimono sáng màu, vừa đập vỡ các đĩa sứ rồi ném chúng vào một cái bát phừng phừng cháy đang không ngừng tuôn khói màu, vừa hô vang mời gọi khách qua đường.

Tiếng chuông lanh canh càng lúc càng to hơn.

Đến chỗ gian hàng phát ra âm thanh này, anh nhận thấy nó vắng hoe. Gian hàng được trang trí bằng đủ loại hoa: hoa cát cánh và mao địa hoàng, hoa chuông lá tròn và thủy tiên hoa vàng, ngoài ra còn có cả violet và hoa loa kèn, cùng những bông tầm xuân đỏ tía nhỏ tí xíu, những bông tuyết điểm trắng nhạt, những bông lưu ly xanh và vô số các loài hoa khác Dunstan không biết tên. Mỗi bông hoa đều được làm bằng thủy tinh hoặc pha lê, được thổi hoặc chạm khắc, anh không thể nói chắc được: chúng giống thật đến mức hoàn hảo. Và chúng ngân rung leng keng y như những chiếc chuông thủy tinh ở chốn xa xăm.

“Xin chào?” Dunstan cất tiếng gọi.

“Chúc ngài buổi sáng Phiên Chợ tốt lành” người trông coi quầy vừa nói vừa leo xuống từ chiếc xe moóc sơn màu đỗ phía sau quầy, và cô rạng rỡ cười với anh, khoe hàm răng trắng tinh trên khuôn mặt ngăm ngăm. Cô là một cư dân đến từ Phía Bên Kia Bức Tường, anh có thể biết ngay lập tức dựa vào đôi mắt của cô, cũng như dựa vào đôi tai đang lộ ra bên dưới mái tóc đen lượn sóng. Mắt cô màu tím sẫm, còn tai cô có lẽ là đôi tai của một con mèo, hơi cong và phủ một lớp lông đen mượt mà. Cô khá đẹp.

Dunstan nhấc một bông hoa từ trên quầy lên. “Nó đẹp quá,” anh nói. Đó là một bông violet, và nó leng keng reo vang trong bàn tay anh, phát ra một âm thanh tương tự như khi ta lấy một ngón tay thấm nước nhẹ nhàng chà xát quanh ly rượu. “Giá bao nhiêu đây?” Cô nhún vai, và đó là một cái nhún vai đầy quyến rũ.

“Không ai vừa bắt đầu đã bàn đến vấn đề giá cả,” cô bảo anh. “Có khi nó đắt hơn nhiều so với mức anh sẵn lòng chi trả; vậy thì anh sẽ bỏ đi, và cả hai ta đều sẽ rầu lòng vì thế. Chúng ta hãy bàn đến món hàng này theo một cách thông dụng hơn nhé.”

Dunstan ngập ngừng do dự. Đúng lúc đó, quý ông đội mũ lụa đen chóp cao đi ngang qua quầy.

“Đấy nhé,” người thuê nhà của Dunstan lầm bầm. “Món nợ của tôi với cậu đã giải quyết xong, tiền thuê nhà của tôi đã được trả đủ.”

Dunstan lắc đầu, như muốn thoát khỏi một giấc mơ, rồi quay lại với người phụ nữ trẻ. “Vậy những bông hoa này từ đâu ra?” anh hỏi.

Cô mỉm cười, vẻ thông hiểu. “Có một lùm hoa thủy tinh mọc trên triền núi Calamon. Hành trình đến đó vô cùng gian nan, và hành trình quay trở lại còn trắc trở hơn nhiều.”

“Chúng được dùng cho mục đích gì?” Dunstan hỏi.

“Công dụng và chức năng của những bông hoa này trước hết là trang trí và tiêu khiển; chúng mang đến khoái lạc; chúng có thể được tặng cho một người yêu dấu như biểu tượng của sự ngưỡng mộ và tình cảm mến, và âm thanh chúng tạo ra giúp cho tai được thư giãn. Thêm nữa, chúng bắt ánh sáng một cách thú vị bậc nhất.”

Cô giơ một bông cát cánh lên trước ánh sáng; và Dunstan không thể không nhận thấy màu sắc của ánh nắng đang lấp lánh xuyên qua lớp pha lê màu tím chẳng thể so được với tia sáng trong mắt cô, xét về cả màu sắc lẫn sắc thái. “Tôi thấy rồi,” Dunstan nói.

“Chúng còn được dùng trong một số câu thần chú và bùa phép. Nếu ngài là một phù thủy…?”

Dunstan lắc đầu. Anh để ý thấy ở người phụ nữ trẻ này có một điều gì đó rất đặc biệt.

“À. Cho dù thế đi nữa, chúng vẫn rất thú vị” cô nói, và lại mỉm cười.

Điều đặc biệt chính là một sợi xích mỏng manh bằng bạc chạy từ cổ tay của người phụ nữ trẻ xuống tới mắt cá chân cô và biến mất vào trong chiếc xe moóc sơn màu đằng sau cô.

Dunstan nhắc đến nó.

“Sợi xích à? Nó trói tôi vào gian hàng. Tôi là nô lệ riêng của mụ phù thủy sở hữu gian hàng này. Mụ ta đã bắt tôi từ nhiều năm trước - khi tôi đang chơi bên thác nước trên khu đất của cha tôi, tít trên núi cao - đội lốt một con ếch xinh đẹp cứ mãi dụ dỗ tôi nhưng lúc nào cũng cách xa tầm với của tôi một đoạn, cho đến tận khi tôi đã vô tình rời khỏi đất của cha tôi, đến lúc đó mụ mới quay trở về hình dạng thật và chụp lấy tôi nhốt vào một cái bao tải.”

“Cô là nô lệ của mụ vĩnh viễn à?”

“Không phải vĩnh viễn,” và nói đến câu này, cô gái tộc tiên mỉm cười. “Tôi sẽ giành được tự do vào ngày mặt trăng mất con gái, nếu chuyện đó xảy ra trong tuần có hai Thứ Hai đồng thời xuất hiện. Tôi sẽ kiên nhẫn chờ đợi ngày đó. Còn trong lúc chờ đợi, tôi làm theo các mệnh lệnh được đưa ra, đồng thời mơ mộng. Nào, ngài sẽ mua giùm tôi một bông hoa chứ, ông chủ trẻ?”

“Tôi tên là Dunstan.”

“Và nó cũng là một cái tên giản dị,” cô nói kèm theo một nụ cười toe tinh nghịch. “Cái kìm của anh đâu rồi, ông chủ Dunstan (1)? Anh sẽ kẹp mũi quỷ chứ?”

1. Dunstan là tên vị thánh bảo trợ cho các thợ vàng. Theo truyền thuyết, có lần, con quỷ đã biến thành một người phụ nữ xinh đẹp định dụ dỗ thánh Dunstan nhưng không thành công, bèn biến trở lại thành hình dạng thật nhưng ngay sau đó đã bị thánh Dunstan dùng một cái kìm nung đỏ vặn mũi, khiến nó phải đau đớn kêu la vang trời.

“Còn tên cô là gì?” Dunstan hỏi, mặt đỏ tưng bừng.

“Tôi không còn tên nữa. Tôi là một nô lệ, và cái tên tôi từng mang đã bị tước mất rồi. Tôi đáp lại những tiếng gọi ‘ê này!’ hoặc ‘gái!′ hoặc ‘con đàn bà ngu ngốc!’ hoặc đủ các cách chửi mắng khác.”

Dunstan không khỏi để ý đến cái cách chiếc váy lụa dán sát vào cơ thể cô; anh ý thức rõ những đường cong duyên dáng, cùng với việc đôi mắt tím của cô đang dán lên người anh, và anh nuốt nước bọt.

Dunstan thò tay vào túi quần lôi cái khăn tay ra. Anh không thể nhìn người phụ nữ lâu hơn được nữa. Anh đổ đống tiền của mình lên trên mặt quầy. “Cứ lấy đủ cho món này đi,” anh nói, cầm một bông tuyết điểm trắng tinh từ bàn lên.

“Ở quầy này, chúng tôi không nhận tiền.” Cô đẩy những đồng xu quay trở lại phía anh.

“Không à? Vậy cô định lấy cái gì?” Đến lúc này, anh thấy khá bối rối, và nhiệm vụ duy nhất của anh là kiếm được một bông hoa cho... cho Daisy, Daisy Hempstock... là nhận lấy bông hoa và rời đi, vì thực lòng mà nói, người phụ nữ trẻ này đang khiến anh cảm thấy vô cùng không thoải mái.

“Tôi có thể lấy màu tóc của anh” cô nói “hoặc toàn bộ ký ức ba năm đầu đời của anh. Tôi có thể lấy thính giác ở tai trái của anh - không phải lấy hết, chỉ đủ để anh không thưởng thức được âm nhạc hay nhận thức được tiếng nước sông đang chảy hoặc tiếng gió thổi vi vu.”

Dunstan lắc đầu.

“Hoặc là một nụ hôn từ anh. Một nụ hôn, lên trên má tôi đây này.”

“Tôi rất sẵn lòng trả bằng thứ đó!” Dunstan nói, và cùng với câu nói này, anh ngả người qua quầy, giữa tiếng leng keng cùng ánh lấp lánh của những bông hoa pha lê, và đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên gò má mềm mại của cô. Rồi anh ngửi thấy mùi hương của cô, khiến anh ngất ngây, như bị bỏ bùa; nó lấp kín trán anh, ngực anh, tâm trí anh.

“Đây nhé,” cô nói và trao bông tuyết điểm cho anh. Anh đón nhận nó bằng hai bàn tay có vẻ như bỗng chốc trở nên to lớn vụng về và chẳng hề nhỏ nhắn hay hoàn hảo đến mức toàn diện giống như đôi bàn tay của cô gái tộc tiên. “Và hẹn gặp lại anh ở đây tối nay nhé, Dunstan Thorn, khi trăng đã lặn. Hãy đến đây và kêu như một chú cú con. Anh có làm thế được không?”

Anh gật đầu, loạng choạng bước tránh xa khỏi cô; anh không cần phải hỏi làm sao cô lại biết họ của anh; cô đã lấy nó khỏi anh cùng với nhiều thứ khác, tỷ như trái tim anh, khi anh hôn cô.

Bông hoa tuyết điểm ngân rung trong bàn tay anh.

“Sao thế, anh Dunstan Thorn,” Daisy Hempstock hỏi khi tình cờ gặp anh bên cạnh lều của ông Bromios, giữa lúc cô đang ngồi cùng gia đình và bố mẹ của Dunstan, ăn món xúc xích nâu bự chảng và uống bia đen, “có chuyện gì vậy?”

“Anh đã mua tặng em một món quà,” Dunstan lầm bầm, dúi bông tuyết điểm đang ngân rung về phía cô; nó sáng lên lấp lánh dưới ánh nắng chiều. Cô nhận nó từ tay anh, vẻ bối rối, những ngón tay cô vẫn bóng nhẫy mỡ xúc xích. Không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, Dunstan ngả người tới trước, và trước mặt bố mẹ cùng em gái cô, trước mặt Bridget Comfrey, ông Bromios và tất cả mọi người, anh hôn lên gò má trắng ngần của cô.

Hẳn nhiên hành động đó phải chịu không ít lời la ó; nhưng ông Hempstock, vốn chẳng hề sống một cách vô tích sự suốt năm mươi bảy năm nơi ranh giới Xứ Tiên và Vùng Đất Bên Kia, kêu lên,

“Này, im đi! Nhìn vào mắt cậu ấy mà xem. Chẳng lẽ các vị không nhận ra anh chàng tội nghiệp này đang mụ mị đầu óc à, mụ mị và rối loạn? Tôi dám cá là cậu ấy bị bỏ bùa rồi. Ê! Tommy Forester! Đến đây nào; hãy dẫn chàng trai trẻ Dunstan Thorn quay trở về làng và nhớ để mắt đến cậu ấy nhé; nếu cậu ấy thích thì cứ để mặc cho cậu ấy ngủ, còn nếu cậu ấy cần nói chuyện thì cứ kệ cậu ấy nói nhé...”

Tommy dẫn Dunstan rời khỏi chợ, quay trở lại làng Bức Tường.

“Nào, Daisy,” mẹ cô vuốt tóc cô và nói, “cậu ấy chỉ dính tí bùa phép, vậy thôi. Không cần phát hoảng lên thế làm gì.” Và bà lôi một cái khăn tay ren từ trong bộ ngực vĩ đại của mình ra, giặm giặm hai bên má vừa đột nhiên thấm đẫm nước mắt của cô con gái.

Daisy ngước lên nhìn bà, rồi giằng lấy cái khăn tay mà xì mũi, sụt sịt vào đó. Và bà Hempstock quan sát thấy, với một sự bối rối không hề nhỏ, rằng Daisy có vẻ như đang mỉm cười đằng sau những giọt nước mắt.

“Nhưng mẹ ơi, Dunstan đã hôn con đấy,” Daisy Hempstock nói, và cô gắn cho chắc bông tuyết điểm pha lê lên phía trước cái mũ bon nê, để nó tỏa sáng long lanh và ngân rung lên ở đó.

Sau một hồi tìm kiếm, ông Hempstock và bố của Dunstan đã tìm thấy quầy hàng bán những bông hoa pha lê; nhưng quầy hàng lúc đó đang được trông coi bởi một người phụ nữ đứng tuổi, cùng với một con chim kỳ lạ đẹp tuyệt trần bị buộc vào cây sào bằng một sợi xích bạc mỏng manh. Họ chịu không sao nói chuyện phải quấy với bà già này được, vì khi họ cố gắng hỏi bà ta xem đã có chuyện gì xảy ra với Dunstan, bà ta chỉ nhắc đến việc một trong những món hàng quý giá trong bộ sưu tập của bà ta đã bị một kẻ vô tích sự cho đi mất, và đó là một hành động xuất phát từ sự vô ơn bạc nghĩa, rồi bà ta nói về thời hiện đại đáng buồn này, về những người hầu thời nay.

Trong ngôi làng vắng hoe (vì ai lại ở trong làng giữa Phiên Chợ Tiên cơ chứ?), Dunstan được đưa vào quán Chim Ác Là Thứ Bảy, được đặt ngồi trên một cái ghế gỗ. Anh tì trán lên bàn tay, mắt nhìn đăm đăm vào cõi hư vô và thỉnh thoảng lại thở dài thườn thượt như con gió.

Tommy Forester cố gắng bắt chuyện với anh, bảo anh, “Nào, ông bạn ơi, phấn chấn lên, phải thế mới được chứ, cười lên một cái nào, nhé? Hay là ăn gì đó nhỉ? Hay là đi uống? Không à? Ôi trời, trông cậu kỳ quá, Dunstan, ông bạn ơi.” nhưng chẳng nhận được bất cứ sự hồi đáp nào hết, vậy nên Tommy bắt đầu mong ngóng được mau chóng đến phiên chợ một mình, vì lúc này ở đó (anh ta xoa tay lên quai hàm vẫn còn hơi đau của mình) cô nàng Bridget đáng yêu chắc chắn đang được hộ tống bởi một quý ông lực lưỡng bệ vệ mặc trang phục ngoại lai nào đó đi cùng với một con khỉ nhỏ chí chóe luôn mồm. Vậy là, sau khi đã yên tâm rằng người bạn của mình sẽ được an toàn trong quán trọ vắng vẻ, Tommy bèn băng ngược qua làng, quay lại lỗ hổng trên bức tường.

Khi Tommy trở lại khu chợ, anh ta nhận thấy nơi này đã trở nên vô cùng náo nhiệt: một chốn huyên náo với những chương trình múa rối, tung hứng, thú nhảy múa, đấu giá ngựa cùng đủ các thể loại buôn bán hay đổi chác.

Sau đó, lúc chạng vạng, lại xuất hiện những người thuộc kiểu khác hẳn. Có một anh mõ lớn tiếng rêu rao tin tức chẳng khác gì những tít báo in thời hiện đại - “Đức vua Stormhold mắc bệnh lạ!”, “Đồi Lửa đã bị chuyển đến thành trì Cồn Cát!”, “Người thừa kế duy nhất của điền chủ Garamond đã bị biến thành một con lợn con ủn à ủn ỉn!” - và sẽ tính thêm một đồng nếu ai muốn biết thêm chi tiết câu chuyện.

Mặt trời đã lặn, và vầng trăng mùa xuân khổng lồ đã treo cao chót vót giữa bầu trời. Cơn gió lạnh mơn man. Đến lúc này, các thương nhân đều đã rút vào bên trong lều riêng, còn các vị khách thì được rỉ tai, mời mọc thưởng thức vô số thứ kỳ thú, thứ nào cũng sẵn có, miễn là họ trả được cái giá đặt ra.

Và khi vầng trăng ngả dần về cuối đường chân trời, Dunstan Thorn lặng lẽ đi xuôi những con phố rải sỏi của làng Bức Tường. Chốc chốc anh lại đi lướt qua một ai đó vẫn đang ngất ngây trong men say hội hè - một vị khách phương xa hoặc một người ngoại quốc - tuy nhiên, chẳng mấy ai để ý đến anh.

Anh rón rén lẻn qua lỗ hổng trên tường - bức tường đến là dày - và Dunstan chợt thấy băn khoăn, y như cha anh ngày trước đã từng băn khoăn, không biết nếu anh leo lên trên bờ tường mà đi thì sẽ có chuyện gì.

Dunstan băng qua lỗ hổng, tiến vào trong đồng cỏ, và tối đó, lần đầu tiên trong đời, anh ấp ủ ý tưởng tiếp tục đi xuyên qua đồng cỏ, băng qua dòng suối và biến mất hút vào giữa đám cây cối ở phía xa tít bên kia. Anh ngượng ngùng nghênh đón những suy nghĩ này, y như người ta nghênh đón những vị khách không mời mà tới. Và rồi, khi đã tiếp cận mục tiêu của mình, anh bèn gạt hết những suy nghĩ này sang một bên, y như người ta xin phép các vị khách để rồi bỏ mặc họ ở đấy, lầm bầm gì đó về một cuộc hẹn từ trước.

Vầng trăng đang lặn.

Dunstan đưa tay lên miệng giả tiếng cú kêu. Không có hồi đáp; bầu trời trên cao nhuộm một màu thăm thẳm – có lẽ là màu xanh, hoặc màu tím, nhưng không phải màu đen - và những vì sao chi chít đến choáng ngợp.

Anh lại giả tiếng cú kêu.

“Nghe chẳng giống một chú cú con gì cả,” cô nghiêm túc nói thầm vào tai anh. “Một con cú tuyết thì còn có thể, hay thậm chí là cú lợn lưng xám. Nếu tai tôi mà bị nhét hai cái que vào thì thể nào tôi cũng tưởng đó là một con cú đại bàng. Nhưng cú con thì không phải rồi.”

Dunstan nhún vai và toét miệng cười, vẻ hơi ngờ nghệch. Người phụ nữ xứ tiên ngồi xuống cạnh anh. Cô khiến anh mê đắm: cô đang ngập tràn trong hơi thở của anh, và anh đang cảm nhận được sự hiện diện của cô qua từng lỗ chân lông trên da mình. Cô ngả người sát lại phía anh.

“Anh có nghĩ anh đang bị bỏ bùa không, Dunstan điển trai?”

“Tôi không biết.”

Cô bật cười, và âm thanh ấy nghe hệt như một dòng suối trong veo lăn tăn trên những tảng đá to, những viên đá nhỏ.

“Anh không bị bỏ bùa đâu, anh chàng điển trai, anh chàng điển trai.” Cô nằm ngửa trên bãi cỏ, chăm chăm nhìn lên bầu trời. “Các vì sao của anh kìa,” cô nói. “Trông chúng thế nào?” Dunstan nằm cạnh cô trên bãi cỏ mát rượi, chăm chăm nhìn lên bầu trời đêm. Chắc chắn có gì đó kỳ quái ở các vì sao: có lẽ chúng rực rỡ sắc màu hơn, vì chúng sáng lấp lánh như những viên đá quý nhỏ xíu; có lẽ là ở số lượng các vì sao tí xíu, ở các chòm sao; có gì đó kỳ lạ và diệu kỳ ở các vì sao. Nhưng mà...

Họ nằm ngửa cạnh nhau, chăm chú nhìn lên bầu trời.

“Anh muốn cuộc đời trao cho anh thứ gì?” cô thiếu nữ xứ tiên hỏi.

“Tôi không biết nữa,” anh thú nhận. “Có lẽ là cô."

“Tôi muốn tự do,” cô nói.

Dunstan với tay xuống chỗ sợi dây xích bằng bạc chạy từ cổ tay tới mắt cá chân cô rồi biến mất vào trong lớp cỏ. Anh giật mạnh sợi xích. Nó chắc chắn hơn vẻ bề ngoài nhiều.

“Nó được làm từ hỗn hợp hơi thở mèo trộn vảy cá với ánh trăng và bạc,” cô bảo anh. “Không thế phá bỏ trừ phi các ràng buộc của bùa phép được giải trừ.”

“Ồ!” Anh nằm lại lên bãi cỏ.

“Lẽ ra tôi chẳng nên thấy thế là phiền, vì sợi xích đã có từ lâu lắm rồi; nhưng cứ nghĩ đến sự tồn tại của nó là tôi lại thấy khó chịu, và tôi nhớ miền đất của cha tôi. Thêm nữa, mụ phù thủy này cũng chẳng thuộc dạng bà chủ tử tế gì….”

Nói đến đây, cô im bặt. Dunstan vươn người về phía cô, với một bàn tay lên áp vào mặt cô, cảm nhận được một thứ ẩm ướt nóng bỏng trên lòng bàn tay anh.

“Này, cô đang khóc.”

Cô không nói gì. Dunstan kéo cô về phía anh và đưa bàn tay to lớn của anh lên chùi nước mắt trên mặt cô, nhưng chỉ hoài công vô ích; thế rồi, anh ngả người vào sát khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cô, và với sự ngập ngừng, không dám chắc liệu hành động của mình có phù hợp với hoàn cảnh hay không, anh hôn cô, bao trọn hai bờ môi nóng hổi của cô.

Một thoáng ngập ngừng, rồi miệng cô hé mở, áp lấy anh, lưỡi cô trượt vào trong miệng anh, và anh, dưới những vì sao xa lạ, đã đánh mất chính mình, một cách tuyệt đối và không thể vãn hồi.

Trước đây, anh đã từng hôn các cô gái trong làng, nhưng anh chưa bao giờ tiến xa hơn thế.

Bàn tay anh cảm nhận rõ đôi bầu ngực nhỏ nhắn bên dưới lớp váy lụa của cô, chạm vào đôi núm vú rắn chắc của cô. Cô dán sát vào người anh, cuồng nhiệt, như thể cô sắp chết chìm, rồi cô sờ soạng chiếc áo sơ mi và cái quần ống túm của anh.

Cô quá nhỏ bé; anh chỉ sợ sẽ khiến cô bị thương, khiến cô vỡ vụn. Nhưng anh đã không làm thế. Cô uốn éo vặn vẹo bên dưới người anh, hổn hển, vùng vẫy, và dùng bàn tay mình dẫn dắt anh.

Cô đặt cả trăm nụ hôn cháy bỏng lên mặt và ngực anh, thế rồi cô đã ở phía trên anh, giạng chân cưỡi lên người anh, vừa thở hổn hển vừa cười khúc khích, đầm đìa mồ hôi và trơn tuột như một con cá tuế, và anh cong người lên đẩy mình về phía trước, dâng trào khoái cảm, cô và chỉ mình cô lấp đầy tâm trí anh, và giá như biết tên cô, hẳn anh đã kêu nó lên thành tiếng.

Đến cuối cùng, anh định rút mình ra, nhưng cô lại giữ anh bên trong cô, vòng hai chân quanh người anh, áp vào anh sát sạt đến độ anh tưởng chừng như hai người họ đang chiếm giữ cùng một vị trí trên vũ trụ này. Như thể, trong một thời khắc đắm chìm, mãnh liệt, họ đã hòa vào làm một, vừa cho lại vừa nhận, trong khi những vì sao bắt đầu mờ dần trên bầu trời trước lúc rạng đông.

Họ nằm bên nhau, vai kề vai.

Người phụ nữ xứ tiên chỉnh lại chiếc váy lụa và lại một lần nữa phục trang đứng đắn chỉnh tề. Dunstan kéo quần lên, lòng hối tiếc. Anh siết chặt bàn tay bé nhỏ của cô trong tay anh.

Mồ hôi khô dần trên da anh, và anh cảm thấy lạnh giá, cô đơn.

Giờ đây, anh đã có thể nhìn rõ cô, dưới ánh sáng của bầu trời ban mai mờ xám. Xung quanh họ, những con vật đang bắt đầu khuấy động không gian: ngựa giậm chân, chim vừa tỉnh giấc đã bắt đầu hót vang chào bình minh, và đó đây trên cánh đồng diễn ra phiên chợ, các con vật bên trong những mái lều đang bắt đầu tỉnh dậy và di chuyển. “Nào, anh lên đường đi thôi,” cô nói khẽ, nhìn anh bằng ánh mắt nhuốm màu tiếc nuối, với đôi mắt tím ngắt như những đám mây ti tầng trên bầu trời bình minh cao vời vợi. Rồi cô dịu dàng hôn lên môi anh, hai bờ môi cô đượm vị nước ép việt quất, rồi cô đứng dậy, quay trở lại cái xe moóc du mục đằng sau quầy.

Đầu óc lơ mơ, một mình đơn độc, Dunstan đi xuyên qua khu chợ, cảm thấy bản thân già dặn hơn nhiều so với độ tuổi mười tám của mình.

Anh quay trở về chuồng bò, tháo bốt và rồi ngủ thiếp đi, đến khi tỉnh dậy thì mặt trời đã nhô cao trên trời.

Ngày hôm sau, phiên chợ kết thúc, nhưng Dunstan không quay trở lại nơi này, và những vị khách phương xa cũng đã rời khỏi ngôi làng, trả lại cho Bức Tường nhịp sống bình thường, dù có lẽ nó vốn kém phần bình thường hơn chút ít so với hầu hết những ngôi làng khác (đặc biệt là những khi gió thổi sai chiều), nhưng xét một cách tổng thể thì thế cũng là đủ bình thường rồi.

Hai tuần sau phiên chợ, Tommy Forester cầu hôn Bridget Comfrey, và cô đồng ý. Buổi sáng một tuần sau đó, bà Hempstock đến thăm bà Thorn. Hai người dùng trà ngoài hiên.

“Cậu chàng Forester ấy đúng là may mắn,” bà Hempstock nói.

“Đúng vậy,” bà Thorn đáp. “Ăn thêm cái bánh nướng nữa đi, bà bạn thân mến. Chắc Daisy nhà bà sẽ làm phù dâu nhỉ?”

“Hẳn là thế rồi,” bà Hempstock nói, “nếu con bé có thể sống được đến lúc đó.”

Bà Thorn hoảng hốt nhìn lên. “Ô kìa, con bé không ốm đấy chứ, bà Hempstock? Hãy nói là không phải vậy đi.”

“Con bé chẳng chịu ăn gì cả, bà Thorn ạ. Nó gầy rộc cả đi. Thỉnh thoảng nó mới uống chút nước thôi.”

“Ôi trời!”

Bà Hempstock tiếp tục, “Đến tối qua, cuối cùng tôi cũng đã phát hiện ra nguyên nhân. Hóa ra là tại Dunstan nhà bà đấy.”

“Dunstan? Nó không...” Bà Thorn đưa một tay lên che miệng.

“Ôi, không đâu,” bà Hempstock nói, lắc đầu nguầy nguậy và mím chặt môi, “không có chuyện như thế đâu. Cậu ấy đã phớt lờ con bé. Nó đã không gặp cậu ấy nhiều ngày rồi. Nó đã bắt đầu chắc mẩm là cậu ấy không còn để ý đến nó nữa, và nó chẳng làm được gì khác ngoài ôm ấp cái bông tuyết điểm cậu ấy đã tặng và khóc nức nở.”

Bà Thorn đang thêm trà từ trong lọ vào bình nước, châm thêm nước nóng. “Nói thật lòng,” bà thú thật, “Thorney và tôi, chúng tôi hơi lo về Dunstan. Giờ nó cứ như đang ở trên cung trăng ấy. Chả thể dùng từ nào khác để tả về tình trạng đó được. Công việc của nó thì dở dang. Thorney đang bảo là cái thằng bé ấy, nó phải ổn định tư tưởng hơn mới được. Nếu nó mà không bình ổn tâm trí thì làm sao Thorney yên tâm giao phó toàn bộ vùng Đồng Cỏ Tây cho thằng bé được.”

Bà Hempstock gật đầu chậm rãi “Hempstock chắc chắn cũng sẽ muốn được thấy Daisy hạnh phúc. Ông ấy nhất định sẽ chia cho con bé một đàn cừu.”

Cừu nhà Hempstock vốn nổi tiếng là tốt nhất trong hàng mấy dặm quanh đây: lông rậm và thông minh (so với cừu), sừng thì cong, còn móng guốc thì sắc nhọn. Bà Hempstock và bà Thorn nhấm nháp tách trà. Và vậy là chuyện đã được thu xếp xong.

Dunstan Thorn cưới Daisy Hempstock vào tháng Sáu. Và dẫu cho chú rể có hơi mất tập trung thì, chậc, cô dâu vẫn rạng rỡ và đáng yêu không thua kém bất kỳ cô dâu nào khác.

Sau lưng họ, hai người cha bàn thảo các kế hoạch cho ngôi nhà nông trang họ định xây dựng cho đôi vợ chồng son giữa bãi cỏ phía Tây. Hai bà mẹ đều đồng ý rằng Daisy trông mới đáng yêu làm sao, và thật đáng tiếc biết bao vì Dunstan đã ngăn không cho Daisy cài lên váy cưới bông hoa tuyết điểm anh mua tặng cô hồi phiên chợ cuối tháng Tư.

Và chúng ta sẽ tạm biệt họ ở đấy, giữa một cơn mưa cánh hoa hồng, đủ màu tím, vàng, hồng và trắng.

Hoặc gần như thế.

Họ số