Chương 2 Trong chương này, Tristran Thorn đến tuổi thành niên-và đưa ra một lời hứa bất cẩn
Năm rồi lại năm cứ thế trôi qua.
Phiên Chợ Tiên được tổ chức theo đúng kế hoạch ở phía bên kia bức tường. Cậu nhóc Tristran Thorn, tám tuổi, không tham gia mà lại bị khăn gói đưa đến ở cùng với những người họ hàng xa lắc xa lơ tại một ngôi làng cách Bức Tường một ngày đường ruổi ngựa.
Tuy nhiên, em gái cậu, Louisa, sinh sau cậu sáu tháng, lại được phép dự phiên chợ, và đây đúng là một vết thương lòng nhức nhối đối với cậu bé cũng như cái việc Louisa đã mang từ chợ về một quả cầu thủy tinh đầy ắp các đốm sáng cứ lấp lánh rồi nhấp nháy trong ánh chiều tà, chiếu tỏa một ánh sáng dịu dàng ấm áp vào bóng tối trong phòng ngủ của hai anh em ở căn nhà trang trại, trong khi thứ duy nhất Tristran mang về từ chỗ mấy người họ hàng là căn bệnh sởi ghê tởm.
Không lâu sau đó, con mèo ở trang trại đẻ được ba mèo con: hai con trắng đen giống hệt mèo mẹ, cộng thêm một con mèo bé tí xíu với bộ lông óng ánh màu xanh nhạt cùng đôi mắt có thể đổi màu tùy theo tâm trạng, từ xanh lục và vàng cho tới hồng, tím và đỏ son.
Bé mèo này được mang cho Tristran để đền bù cho cậu bé vì đã không được dự phiên chợ. Con mèo xanh chậm chạp lớn dần, và nó đúng là nàng mèo đáng yêu nhất trên đời, cho tới một tối kia, nó bắt đầu bồn chồn rình mò khắp nhà, miệng ngoeo ngoeo, còn đôi mắt ngả màu tím đỏ của loài hoa mao đại hoàng thì sáng quắc; và đến lúc cha của Tristran đi làm đồng về, con mèo gào lên, lao vọt qua cửa ra vào, biến mất tăm vào bóng chiều nhập nhoạng.
Việc canh gác ở bức tường vốn chỉ áp dụng với người chứ không dành cho mèo; và Tristran, hồi bấy giờ mới mười hai tuổi, không bao giờ gặp lại con mèo màu xanh dương ấy nữa. Cậu không thể nguôi ngoai suốt một thời gian dài. Một tối kia, cha cậu vào phòng cậu, ngồi xuống cuối giường và cộc cằn nói, “Nó rồi sẽ hạnh phúc ở phía bên kia bức tường thôi. Cùng với đồng loại của nó. Đừng phiền muộn làm gì, nhóc con.”
Mẹ cậu chẳng nhắc gì đến chuyện này với cậu, cũng như bà chẳng khi nào nhiều lời với cậu về bất kỳ vấn đề gì. Thỉnh thoảng, ngước mắt lên, Tristran lại thấy mẹ đang nhìn cậu không chớp mắt, cứ như thể bà đang tìm cách lôi một bí mật nào đó ra khỏi khuôn mặt cậu.
Louisa, em gái cậu, thường lôi chuyện này ra mà châm chọc cậu lúc hai anh em đi bộ đến trường làng vào buổi sáng, cũng như con bé vẫn trêu tức cậu về đủ mọi chuyện khác: chẳng hạn như hình dạng đôi tai cậu (tai bên phải phẳng dẹt, ép sát vào da đầu và gần như nhọn hoắt; tai bên trái thì không), hay về những câu chuyện kể ngốc nghếch của cậu: có lần, khi hai anh em đi bộ từ trường về nhà, cậu nói với con bé rằng những đám mây bé tí hin, trắng xóa và bông xù, co cụm ở phía chân trời lúc mặt trời lặn, chính là những con cừu. Lời đã nói ra chẳng thể nào rút lại, bất kể sau này cậu có nhất quyết bảo rằng ý cậu chỉ đơn giản là những đám mây đó gợi cậu nhớ đến đàn cừu, hay là những đám mây đó có vẻ bông xù trông chẳng khác gì bọn cừu. Louisa cười nhạo chế giễu và chọc tức cậu như thể một con yêu tinh và điều tệ hại hơn cả là con bé lại đi kể cho những đứa trẻ khác nghe, xúi chúng dấm dúi “be be” mỗi khi Tristran đi ngang qua. Louisa bẩm sinh đã là một kẻ đâm bị thóc chọc bị gạo và giỏi chọc ngoáy hơn đứa anh nhiều.
Ngôi trường làng tương đối tốt, và dưới sự dìu dắt của cô giáo Cherry, Tristran Thorn đã được học tất tật về phân số, về kinh độ và vĩ độ; cậu có thể dùng tiếng Pháp hỏi mượn cây bút của dì người làm vườn, đúng ra là cây bút của dì cậu (1); cậu đã được học về các vị vua và nữ hoàng của nước Anh từ William Người Chinh Phục, năm 1066, đến Victoria, năm 1837. Cậu được học đọc và viết đẹp như in. Làng chẳng mấy khi có du khách ghé thăm, nhưng thỉnh thoảng, một người bán hàng rong sẽ rong ruổi quanh làng, kiếm tiền bằng các câu chuyện “giật gân ba xu” về những vụ giết người rùng rợn, những cuộc đọ sức ngàn cân treo sợi tóc, những biến cố tàn khốc cùng những cuộc tẩu thoát ngoạn mục. Hầu hết những người bán hàng rong đều bán các tờ ghi bài hát với giá một penny hai tờ, các gia đình mua rồi tụ tập quanh cây đàn piano ở nhà họ và hát vang những bài kiểu như Anh đào chín mọng và Trong khu vườn của cha tôi.
1. Trong tiếng Pháp là “la plume de la tante du jardinier”. Cách nói “cây bút của dì tôi trong tiếng Pháp - “la plume de ma tante” - là một cấu trúc thông dụng thường được dùng trong các sách ngoại ngữ như một ví dụ điển hình cho các cấu trúc đúng ngữ pháp nhưng không có nhiều giá trị thực tiễn; đồng thời còn được dùng để dạy và nhớ cách phát âm của nguyên âm a trong tiếng Pháp, vì trong cụm từ này có chứa ba âm a với hai cách phát âm khác hẳn nhau.
Rồi cứ thế, ngày trôi qua ngày, tuần trôi qua tuần và năm trôi qua năm. Năm mười bốn tuổi, bằng một quá trình mưa dầm thấm đất, bằng những trò đùa tục tĩu, những bí mật truyền tai và những bài ballad thô tục, Tristran đã vỡ vạc các kiến thức về giới tính.
Năm mười lăm tuổi, cậu bị thương ở cánh tay khi ngã xuống từ trên cây táo mọc bên ngoài nhà ông Thomas Forester: nói cho chính xác hơn, từ trên cây táo mọc bên ngoài cửa sổ phòng ngủ của cô tiểu thư Victoria Forester. Tristran nuối tiếc khôn nguôi vì chẳng bắt gặp được gì ngoài một bóng hồng thấp thoáng như trêu ngươi của Victoria, cô gái vốn trạc tuổi em gái cậu và, không có gì phải nghi ngờ, là cô gái xinh đẹp nhất trong vòng một trăm dặm quanh đây.
Đến khi Victoria mười bảy tuổi, và Tristran cũng thế, cậu gần như dám chắc cô là cô gái xinh đẹp nhất trên quần đảo Anh. Tristran nhất mực cho rằng cô còn là cô gái xinh đẹp nhất trên toàn Vương quốc Anh, nếu không muốn nói là toàn thế giới, và hễ bạn dám tranh cãi thì cậu thể nào cũng sẽ cho bạn biết tay, hoặc sẵn sàng tẩn cho bạn một trận ngay.
Tuy nhiên, bạn sẽ chẳng dễ gì mà tìm thấy được bất kỳ ai ở Bức Tường sẵn lòng tranh cãi điều này với cậu; cô đã gieo rắc thương nhớ cho rất nhiều người và rất có thể, đã làm tan vỡ vô vàn trái tim.
Một bản miêu tả: Có thừa hưởng đôi mắt xám cùng khuôn mặt hình trái tim của mẹ và mái tóc xoăn màu hạt dẻ của cha. Đôi môi cô đỏ thắm với hình dạng hoàn hảo không tỳ vết, hai má ửng hồng xinh đẹp mỗi khi cô cất lời. Cô có nước da xanh xao, và quyến rũ khôn cưỡng. Hồi mười sáu tuổi, Victoria đã tranh cãi nảy lửa với mẹ, vì cô vẫn luôn ấp ủ trong đầu cái ý tưởng rằng sau này thể nào cô cũng sẽ làm bồi bàn ở Chim Ác Là Thứ Bảy. “Con đã nói chuyện này với ông Bromios rồi,” cô bảo mẹ, “và ông ấy chẳng phản đối gì hết.”
“Chuyện ông Bromios nghĩ hay không nghĩ gì,” mẹ cô - xưa là cô Bridget Comfrey - đáp lại, “chẳng liên quan gì hết. Đó là một công việc không phù hợp bậc nhất đối với một cô thiếu nữ.”
Dân làng Bức Tường háo hức theo dõi cuộc chiến ý chí này, băn khoăn không biết kết quả sẽ thế nào, vì chưa ai từng trái ý Bridget Forester trong bất cứ một chuyện gì: vì, như dân làng vẫn nói, miệng lưỡi của bà đủ sức làm rộp tróc cả lớp sơn trên cửa chuồng gia súc và lóc vỏ ra khỏi một cây sồi. Trong làng chẳng ai muốn đối nghịch với Bridget Forester, và họ vẫn bảo nhau rằng chuyện Bridget Forester thay đổi suy nghĩ còn xa với hơn cả việc bức tường biết đi,
Dẫu vậy, Victoria Forester đã quen với việc xử lý mọi chuyện theo cách riêng của mình, và nếu mọi biện pháp khác đều thất bại, hay thậm chí có không thất bại đi chăng nữa, cô thường cầu viện đến cha cô, rồi thể nào ông cũng xiêu lòng trước các đòi hỏi của cô. Nhưng trong vấn đề này, Victoria không khỏi ngạc nhiên vì cha cô cũng tán thành ý của mẹ, cho rằng làm việc trong quầy rượu ở Chim Ác Là Thứ Bảy là một chuyện không hợp lẽ với một cô thiếu nữ được giáo dưỡng chu đáo. Rồi Thomas Forester vênh cằm lên, và câu chuyện đến đó là kết thúc.
Mọi chàng trai trong làng đều phải lòng Victoria Forester. Và không ít quý ông điềm tĩnh, râu đã ngả hoa râm và đang sống đời hôn nhân êm ả, nhưng vẫn chăm chăm dõi nhìn theo khi cô bước đi trên phố, để rồi, trong một vài khoảnh khắc ngắn ngủi, một lần nữa trở thành một chàng trai trẻ, sống lại quãng đời thanh xuân trong những bước chân tíu tít.
“Nghe nói chính ngài Monday cũng góp mặt trong danh sách những người hâm mộ cậu đấy” Louisa Thorn nói với Victoria Forester vào một chiều tháng Năm, trong vườn táo.
Năm cô gái quây quần bên nhau, ngồi trên những cành nhánh của cây táo lâu năm nhất trong vườn, thân cây khổng lồ tạo thành chỗ ngồi cũng như điểm tựa rất tiện; và cứ mỗi khi cơn gió tháng Năm nhẹ thổi, những bông hoa màu hồng lại rơi xuống như bông tuyết, đậu trên tóc và trên váy của các cô gái. Ánh dương buổi chiều rải những đốm xanh lục, bạc và vàng xuyên qua những kẽ lá trong vườn táo.
“Ngài Monday,” Victoria Forester khinh khỉnh nói, “ít nhất đã bốn mươi lăm tuổi rồi.” Cô nhăn mặt cho thấy rõ cái độ tuổi bốn mươi lăm ấy mang ý nghĩa thế nào trong khi ta chỉ đang mười bảy.
“Dù sao đi nữa,” Cecilia Hempstock, chị họ của Louisa, nói, “ông ấy cũng đã từng lấy vợ rồi. Tớ chẳng mong lấy một người đã từng có vợ đâu. Như thế thì chẳng khác nào,” cô phát biểu, “có người khác huấn luyện chung con ngựa riêng của ta.”
“Riêng theo ý tớ thì có lẽ đó chính là ích lợi duy nhất của việc cưới một ông góa đấy,” Amelia Robinson nói. “Nghĩa là một người khác đã loại bỏ những góc cạnh thô ráp; cậu thích nhào nặn ông ta như thế nào cũng được. Thêm nữa, tớ đoán là đến tầm tuổi ấy rồi thì các ham muốn của ông ta chắc từ lâu đã được no nê, cùn nhụt, nhờ thế sẽ tránh được cho ta kha khá sự sỉ nhục.”
Những tiếng cười khúc khích vội vã kìm nén rộn vang giữa vạt hoa táo.
“Tuy nhiên,” Lucy Pippin ngập ngừng nói, “hẳn cũng thú lắm nếu được sống trong ngôi nhà rộng rãi, có xe tứ mã, đến mùa thì đi du lịch London, tới Bath tắm suối, hay tới Brighton tắm biển, dẫu ông Monday đã bốn mươi lăm tuổi thì cũng có làm sao.”
Các cô gái khác kêu ré lên, ném từng vốc hoa táo về phía cô; không người nào ré lên lớn tiếng và ném hoa nhiệt tình hơn Victoria Forester
Tristran Thorn, ở độ tuổi mười bảy, chỉ hơn Victoria sáu tháng, đang trên đà từ một cậu trai trở thành một người đàn ông, và dẫu ở vai trò nào thì cũng đều thấy kém thoải mái; nhìn anh cứ như chỉ thấy mỗi khuỷu tay và yết hầu. Tóc anh mang màu nâu của rơm ướt, và nó cứ chĩa ra lởm chởm đến kỳ quặc, hệt như mái tóc của mọi cậu trai mười bảy tuổi khác, bất kể anh có cố gắng vuốt nước và chải chuốt đến thế nào.
Anh rụt rè đến mức khổ sở, và như thường thấy trong thái độ của những người rụt rè đến mức khổ sở, anh cố gắng sửa chữa điểm này một cách quá lố khi cứ nhằm những thời điểm không phù hợp mà tỏ ra sôi nổi quá mức. Hầu hết thời gian, Tristran cảm thấy khá mãn nguyện - hoặc mãn nguyện đúng với mức một chàng thanh niên mười bảy tuổi có thể cảm thấy khi cả thế giới vẫn đang ở phía trước – và những lúc thả hồn mơ màng trên đồng cỏ, hay bên cái quầy tính tiền cao ở phía cuối Monday & Brown, cửa hàng tạp hóa làng, anh lại tưởng tượng ra mình đang trên tàu hỏa vượt đường xa đến tận London hay Liverpool, hoặc bắt con tàu hơi nước băng qua Đại Tây Dương xám xịt tới nước Mỹ và gây dựng gia tài giữa cộng đồng những con người hoang dã trên các vùng đất mới.
Nhưng thỉnh thoảng, ngọn gió từ phía bên kia bức tường lại thổi tới, mang theo mùi hương bạc hà, cỏ xạ hương và lý chua đỏ, và những lúc như thế, người ta lại thấy lửa trong các lò sưởi ở khắp làng được nhuộm sang những màu rất lạ. Khi ngọn gió đó thổi, hết thảy những thiết bị thô sơ nhất - từ diêm quẹt cho tới phim đèn chiếu - đều ngừng hoạt động.
Và vào những quãng thời gian đó, các cơn mơ mộng giữa ban ngày của Tristran Thorn đều tràn ngập những tưởng tượng lạ lùng, tội lỗi, lộn xộn và kỳ quái, về những hành trình xuyên rừng để giải cứu công chúa từ các cung điện, về các hiệp sĩ, quỷ lùn và nàng tiên cá. Và những khi gặp phải tâm trạng này, anh thường lẻn khỏi nhà, ngả mình nằm trên bãi cỏ, chăm chăm nhìn lên các vì sao.
Không như ngày xưa, chúng ta bây giờ chẳng còn mấy người nhìn thấy sao nữa - các thành phố đô thị của chúng ta vào buổi tối có quá nhiều đèn - nhưng, từ làng Bức Tường, các vì sao rải ra như vô số thế giới hay muôn vàn ý tưởng, không tài nào đếm được, y như cây trong rừng hay lá trên cây. Tristran cứ thế nhìn chăm chăm vào bầu trời tối, cho đến tận khi chẳng nghĩ ngợi được gì, và đến lúc đó, anh sẽ quay trở về giường, ngủ say như chết.
Tristran là một anh chàng cao lênh khênh đầy tiềm năng, một thùng thuốc nổ chỉ chờ ai đó hoặc cái gì đó châm ngòi; nhưng chẳng ai làm thế, vậy nên cứ tối tối và cuối tuần, anh lại giúp cha mình làm nông, còn ban ngày, anh làm thư ký cho ông Brown tại cửa hàng Monday & Brown.
Monday & Brown là cửa hàng tạp hóa của làng. Mặc dù cửa hàng vẫn trữ sẵn khá nhiều nhu yếu phẩm, nhưng công việc kinh doanh của họ chủ yếu dựa vào cách đặt hàng: dân làng sẽ đưa cho ông Brown một bản danh sách kê rõ các món họ cần, từ thịt đóng hộp cho tới thuốc tắm cho cừu, từ dao lọc cá cho tới ngói ống khói; một thư ký ở Monday & Brown sẽ tổng hợp lại tất cả những thứ đã được đặt hàng thành một danh sách lớn, sau đó ông Monday sẽ cầm tờ danh sách tổng hợp này, sửa soạn một cỗ xe hàng được kéo bởi hai con ngựa thồ lực lưỡng, rồi lên đường đến thị xã gần nhất và vài ngày sau trở về nhà cùng với cỗ xe thồ chất cao các món hàng hóa đủ loại.
Hôm đó là một ngày cuối tháng Mười lạnh giá, gió thổi lồng lộng, đúng kiểu thời tiết sầm sì dọa mưa nhưng trên thực tế chẳng mưa bao giờ, và trời chiều đã xế bóng. Victoria Forester bước vào Monday & Brown, mang theo một bản danh sách do mẹ cô tỉ mẩn viết tay, và cô rung chiếc chuông nhỏ đặt trên quầy, gọi phục vụ.
Cô có vẻ hơi thất vọng khi thấy Tristran Thorn xuất hiện từ căn phòng phía sau. “Chúc một ngày tốt lành, cô Forester.”
Cô mỉm cười, miệng vẫn mím chặt, và đưa cho Tristran tờ danh sách.
Tờ giấy viết như sau:
2 lạng bột cọ
10 hộp cá mòi
1 chai nước xốt nấm cà chua
2 cân gạo
1 hộp xi rô đường
9 lạng quả lý chua
1 chai phẩm yên chi
4 lạng đường lúa mạch
1 hộp ca cao Rountrees Elect Cocoa loại 1 shilling
1 hộp xi đánh bóng dao Oakey loại 3 xu
1 hộp sơn dầu màu đen Brunswick loại 6 xu
1 gói thạch bong bóng cá Swinbome
1 chai kem đánh bóng gỗ
1 cái muôi lỗ
1 bộ lọc nước thịt loại 9 penny
1 bộ thang nhà bếp
Tristran đọc thầm danh sách, tìm kiếm thứ gì đó có thể cho anh cái cớ để mà bắt đầu bàn luận: một loại mào đầu kiểu gì đó - bất kể kiểu gì.
Anh nghe giọng mình cất lên, “Anh đoán em định làm bánh pudding gạo nhỉ, Forester.” Ngay khi vừa cất tiếng, anh đã biết mình chọn sai lời rồi. Victoria mím đôi môi hoàn hảo, chớp chớp đôi mắt xám, rồi nói, “Đúng vậy, Tristran. Nhà em sẽ làm bánh pudding gạo.”
Và cô mỉm cười, nói với anh, “Mẹ em bảo bánh pudding gạo với số lượng vừa phải sẽ giúp chống chọi lại những cơn cảm lạnh, nhức đầu sổ mũi cũng như các loại bệnh mùa thu khác.”
“Mẹ anh,” Tristran thú nhận, “thì lúc nào cũng sống chết với món bánh pudding bột sắn hột.”
Anh ghim tờ danh sách lên một cái que nhọn “Bên anh có thể giao phần lớn thực phẩm vào sáng mai, phần còn lại sẽ được ông Monday mua về vào đầu tuần sau”
Lúc đó, một con gió mạnh thổi lồng lộng đến độ rung lách cách các cửa sổ trong làng, thổi những chong chóng đo chiều gió xoay tít mù cho đến khi chúng chẳng còn phân biệt được hướng Bắc với hướng Tây, hướng Nam với hướng Đông nữa. Ngọn lửa đang cháy trong lò suởi cửa hàng Monday & Brown bùng lên, xoắn xuýt thành một nùi những lưỡi lửa màu xanh lục và đỏ tía, xèo xèo ở phía ngọn những tia sáng bạc lấp lánh, đúng kiểu ngọn lửa người ta có thể tự tạo nên ở lò sưởi phòng khách bằng cách ném cả vốc mạt sắt vào.
Luồng gió thổi từ Xứ Tiên và phía Đông tới, và Tristran Thorn đột nhiên nhận thấy trong lòng dấy lên một sự dũng cảm mà anh không ngờ mình sở hữu. “Em biết đấy, Forester, mấy phút nữa là anh hết ca rồi,” anh nói. “Có lẽ anh có thể tiễn em về nhà một đoạn. Cũng không trái đường của anh lắm.” Và anh chờ đợi, trái tim chỉ chực vọt ra ngoài miệng, trong lúc đôi mắt xám của Victoria Forester dán chặt vào anh, vẻ thích thú. Sau một lúc tưởng chừng như kéo dài cả trăm năm, cô nói, “Tất nhiên là được chứ.”
Tristran vội vã vào trong phòng khách, báo cho ông Brown biết anh sẽ tan làm ngay bây giờ. Ông Brown lầm bầm bằng giọng điệu không hẳn là hoàn toàn khó chịu, bảo với Tristran rằng hồi ông còn trẻ mới chập chững vào nghề, không những tối nào ông cũng phải ở lại muộn và đóng cửa hàng, mà còn phải ngủ trên sàn bên dưới quầy thu ngân, chỉ có mỗi cái áo khoác để kê lên làm gối.
Tristran đồng ý rằng anh quả là một chàng trai may mắn, và anh chúc ông Brown một buổi tối tốt lành, sau đó lấy chiếc áo khoác máng ở cây treo áo cùng cái mũ quả dưa móc ở cây treo mũ, rồi anh bước ra ngoài trời, đặt chân lên mặt đường đá cuội, nơi Victoria Forester đang chờ.
Lúc họ đang trên đường, hoàng hôn mùa thu đã chuyển sang màn đêm nhập nhoạng thăm thẳm. Tristran có thể ngửi thấy mùi mùa đông xa xăm vương trong không khí - một sự hòa trộn giữa màn sương mù buổi tối với bóng đêm khô lạnh và tiếng lá rơi.
Họ rẽ vào một con đường mòn uốn lượn chạy về phía trang trại nhà Forester, vầng trăng lưỡi liềm sáng bạc treo lơ lửng giữa bầu trời, những vì sao bùng cháy trên nền bóng tối trên đầu họ.
“Victoria này,” Tristran nói, sau một lúc im lặng.
“Sao cơ, Tristran,” Victoria, vẫn bận tâm suy nghĩ gần như suốt quãng đường cuốc bộ, nói.
“Liệu em có cho anh là kẻ lỗ mãng không nếu anh hôn em?” Tristran hỏi.
“Có đấy,” Victoria sẵng giọng lạnh lùng. “Rất lỗ mãng”
“À” Tristran nói.
Họ leo lên đồi Dyties, lặng im không nói một lời; đến đỉnh đồi, họ quay đầu, nhìn thấy ngôi làng Bức Tường đang nằm bên dưới, khắp nơi lập lòe ánh nến ánh đèn đang chập chờn tỏa sáng qua các khung cửa sổ, những ánh vàng ấm áp vẫy gọi, chào mời; còn trên đầu họ, hằng hà sa số những vì sao đương tỏa sáng, lấp lánh, nhấp nháy và rực rỡ, lạnh giá, xa xăm và chi chít đến mức tâm trí chẳng thể nào bao trọn được.
Tristran với tay xuống nắm bàn tay nhỏ nhắn của Victoria. Cô không giằng tay ra.
“Anh có nhìn thấy không?” Victoria hỏi, mắt vẫn chăm chăm nhìn khắp quang cảnh.
“Anh không thấy gì hết,” Tristran nói. “Anh đang nhìn em.”
Victoria mỉm cười dưới ánh trăng.
“Em là người phụ nữ đáng yêu nhất trên đời,” Tristran nói, cất lời từ tận trái tim.
“Tầm bậy tầm bạ,” Victoria nói, nhưng cô dùng giọng điệu nhẹ nhàng.
“Em nhìn thấy gì?” Tristran hỏi.
“Một ngôi sao băng” Victoria nói. “Em cho là vào thời điểm này trong năm thì hiện tượng này chẳng có gì lạ thường cả.”
“Vicky này,” Tristran nói. “Em sẽ hôn anh chứ?”
“Không,” cô nói.
“Hồi trước em chẳng hôn anh rồi còn gì. Em đã hôn anh dưới gốc sồi thề nguyền, hồi sinh nhật mười lăm tuổi của em. Và em đã hôn anh vào ngày Lễ Lao động năm ngoái, đằng sau chuồng bò của cha em.”
“Hồi đó em khác với bây giờ,” cô nói. “Và em sẽ không hôn anh đâu, Tristran Thorn.”
“Nếu em không hôn anh,” Tristran hỏi, “em sẽ làm vợ anh chứ?”
Sự im lặng rơi xuống ngọn đồi. Chỉ có tiếng gió tháng Mười xào xạc. Rồi một âm thanh ngân vang đó là tiếng cười vui vẻ thích thú của cô gái xinh đẹp nhất khắp quần đảo Anh.
“Làm vợ anh?” cô nhắc lại, đượm vẻ hoài nghi. “Sao em lại nên nhận lời làm vợ anh nhỉ, Tristran Thorn? Anh có thể cho em cái gì?”
“Cho em ư?” anh hỏi. “Anh sẽ đến Ấn Độ vì em, Victoria Forester, và sẽ mang về cho em những cái ngà voi, cùng những viên ngọc trai to bằng ngón tay cái của em và những viên hồng ngọc to như trứng chim hồng tước.
“Anh sẽ đến châu Phi và mang về cho em những viên kim cương to bằng quả bóng cricket. Anh sẽ tìm đến cội nguồn sông Nile và lấy tên em đặt cho nó.
“Anh sẽ tới Mỹ, lặn lộn tới tận San Francisco, tới những cánh đồng vàng, và anh sẽ không quay về chừng nào còn chưa kiếm được số vàng nặng ngang trọng lượng của em. Rồi anh sẽ mang chúng về đây, đặt dưới chân em.
“Chỉ cần em nói một lời, anh sẽ đến những vùng đất phương Bắc xa xăm, giết những con gấu Bắc Cực khổng lồ và lột da chúng mang về cho em.”
“Em nghĩ anh đã thể hiện khá tốt đấy,” Victori Forester nói, “cho đến lúc nhắc đến chuyện giết gấu Bắc Cục. Dù gì đi chăng nữa, cậu nhóc nông trại và nhân viên cửa hàng ạ, em sẽ không hôn anh đâu, em cũng sẽ không lấy anh.”
Đôi mắt Tristran rực sáng dưới ánh trăng. “Anh sẽ đi tới tận xứ Trung Quốc xa xôi vì em, và mang về cho em chiếc thuyền lớn chất nặng ngọc bích, lụa là, thuốc phiện mà anh đoạt được từ tay vua hải tặc.”
“Anh sẽ tới Úc, tới tận đáy sâu thế giới,” Tristran nói, “và mang về cho em... Ừm.” Anh lục lọi cái kho tàng các câu chuyện giật gân ba xu trong đầu, cố gắng nhớ ra một nhân vật chính nào đó đã từng ghé thăm nước Úc. “Một con chuột túi,” anh nói. “Và ngọc mắt mèo,” anh bổ sung. Anh khá chắc chắn về chi tiết ngọc mắt mèo.
Victoria Forester siết tay anh. “Và em biết làm gì với một con chuột túi chứ?” cô hỏi. “Nào, chúng ta đi tiếp thôi, nếu không cha mẹ em thể nào cũng băn khoăn không biết điều gì đã níu chân em, rồi họ sẽ nhảy phắt đến những kết luận tuyệt đối phi lý nào đó cho xem. Vì em không hôn anh đâu, Tristran Thorn ạ."
“Hôn anh đi mà,” anh nài nỉ. “Anh sẽ không nề hà bất kỳ điều gì để có thể nhận được nụ hôn của em, anh sẽ không hề ngần ngại trèo núi, băng sông, vượt qua sa mạc.”
Anh khoát rộng vòng tay, chỉ về ngôi làng Bức Tường phía dưới và bầu trời đêm bên trên đầu họ. Giữa chòm sao Lạp Hộ, là là nơi chân trời phía Đông, một vì sao lóe lên, lấp lánh, rồi rơi xuống.
“Vì một nụ hôn, và lời nguyện ước sánh vai em trên đường đời,” Tristran huênh hoang, “anh sẽ mang về cho em ngôi sao băng đó.”
Anh rùng mình. Áo khoác anh mỏng, và hiển nhiên anh sẽ không nhận được nụ hôn mong muốn, một kết quả khiến anh lấy làm bối rối. Bao nhiêu nam chính hùng dũng trong những câu chuyện giật gân ba xu và tiểu thuyết rẻ tiền có bao giờ gặp trở ngại trên đường nhận các nụ hôn đâu.
“Vậy thì đi đi,” Victoria nói. “Nếu anh làm được, em sẽ đồng ý.”
“Sao cơ?” Tristran hỏi.
“Nếu anh mang về cho em ngôi sao đó,” Victoria nói, “ngôi sao vừa rơi ấy, chứ không phải ngôi sao nào khác, vậy thì em sẽ hôn anh. Ai mà biết em còn có thể làm gì nữa chứ. Đấy: giờ anh không cần phải tới Úc, cũng chẳng cần tới châu Phi hay Trung Quốc xa xôi làm gì.”
“Sao cơ?” Tristran hỏi.
Đến lúc đó, Victoria phá lên cười nhạo anh và cô rút tay lại, bắt đầu lên đường bước xuống đồi tiến, về phía trang trại của cha cô.
Tristran chạy tới bắt kịp bước chân cô. “Em nói nghiêm túc đấy chứ?” anh hỏi cô.
“Em nghiêm túc cũng y như anh khi nói những lời lẽ hoang đường về hồng ngọc, vàng và thuốc phiện ấy” cô đáp, “Mà thuốc phiện là gì vậy?”
“Một cái gì đó trong hỗn dược trị ho,” Tristran nói. “Kiểu như cây khuynh diệp ấy.”
“Nghe chẳng lãng mạn gì cả,” Victoria Forester nói. “Dù sao đi nữa, không phải anh nên chạy đi tìm rồi nhặt ngôi sao băng của em về à? Nó rơi ở phía Đông, đằng kia kìa.” Và cô lại phá lên cười. “Anh chàng bán hàng ngốc nghếch. Điều duy nhất anh có thể làm là hãy đảm bảo rằng nhà em có đủ nguyên liệu cho món bánh pudding gạo.”
“Và nếu anh mang về cho em ngôi sao băng đó thì sao?” Tristran khấp khởi hỏi. “Em sẽ cho anh cái gì? Một nụ hôn? Đồng ý lấy anh làm chồng?”
“Bất kỳ điều gì anh mong muốn,” Victoria nói, thích thú.
“Em thề chứ?” Tristran hỏi.
Giờ họ đang đi nốt quãng đường một trăm mét cuối cùng dẫn tới ngôi nhà trang trại của gia đình Forester. Các khung cửa sổ bừng sáng ánh đèn màu vàng lẫn màu cam.
“Tất nhiên,” Victoria nói, mỉm cười.
Con đường mòn dẫn tới trang trại nhà Forester gần như ngập trong bùn, lớp bùn lún cả xuống bởi những vết chân ngựa chân bò, chân cừu chân chó. Tristran Thorn khuỵu cả hai gối xuống lớp bùn, chả buồn bận tâm đến cái áo khoác lẫn quần len của mình. “Tốt lắm,” anh nói.
Khi đó, luồng gió thổi vào từ phía Đông.
“Anh sẽ tạm biệt em ở đây, tiểu thư của anh” Tristran Thorn nói. “Vì anh có công việc khẩn thiết phải làm, tiến về phương Đông.”
Anh đứng dậy, chả để ý gì đến bùn đất đang bám vào đầu gối và áo khoác, rồi anh cúi thấp người chào cô, sau đó nhấc cái mũ quả dưa xuống.
Victoria Forester phá lên cười nhạo anh chàng nhân viên cửa hàng gầy gò ấy, cứ cười giòn giã sảng khoái, và tiếng cười ngân rung của cô bám theo anh suốt con đường quay ngược xuống đồi, rồi tắt dần.
Tristran Thorn chạy suốt quãng đường về nhà. Những bụi gai cào vào quần áo anh trên đường chạy và một cành cây hất cái mũ rơi khỏi đầu anh. Hụt hơi và xốc xếch, anh loạng choạng bước vào căn bếp trong ngôi nhà ở Đồng Cỏ Tây.
“Nhìn cái bộ dạng của con xem!” mẹ anh nói “Thật tình! Không thể tưởng tượng được!”
Tristran chỉ mỉm cười nhìn bà.
“Tristran?” cha anh hỏi, ông giờ đã ba mươi lăm tuổi nhưng chỉ cao vừa phải và vẫn còn lấm tấm tàn nhang, mặc dù mái tóc xoăn màu nâu hạt dẻ đã lẫn không ít sợi bạc. “Mẹ vừa nói với con đấy. Con không nghe mẹ nói gì à?”
“Con xin lỗi cha mẹ,” Tristran nói, “nhưng tối nay con sẽ rời khỏi làng. Có lẽ con sẽ đi vắng một thời gian.”
“Ngu xuẩn, ngốc nghếch!” Daisy Thorn nói. “Mẹ chưa bao giờ nghe thấy chuyện gì vớ vẩn đến thế."
Nhưng Dunstan Thorn đã nhìn thấy tâm tình trong đôi mắt người con trai. “Để anh nói chuyện với con,” ông nói với vợ. Bà liếc ông sắc lẻm, rồi gật đầu. “Tốt thôi,” bà nói. “Nhưng ai sẽ vá áo khoác cho thằng bé đây? Đấy chính là chuyện em muốn biết.” Bà sầm sầm lao ra khỏi bếp.
Lò sưởi trong bếp xèo xèo bắn ra tia bạc, bập bùng ánh lửa xanh lục và tím. “Con định đi đâu?” Dunstan hỏi.
“Phía Đông ạ,” con trai ông trả lời.
Phía Đông. Cha anh gật đầu. Có hai phía Đông - phía Đông dẫn tới tỉnh huyện khác, xuyên qua khu rừng; và Phía Đông, phía bên kia bức tường. Chẳng cần hỏi, Dunstan Thorn cũng biết con trai ông đang nhắc tới phía Đông nào.
“Và con sẽ quay trở lại chứ?” cha anh hỏi.
Tristran ngoác miệng cười. “Tất nhiên rồi ạ” anh đáp,
“Tốt” cha anh nói. “Vậy thì không vấn đề gì.” Ông gãi mũi. “Con đã nghĩ xem sẽ đi qua bức tường bằng cách nào chưa?”
Tristran lắc đầu. “Con tin chắc có thể tìm ra một cách nào đấy,” anh nói. “Nếu cần, con sẵn sàng dùng vũ lực để vượt qua hai người canh gác.”
Cha anh khịt mũi. “Con không được làm những chuyện như thế,” ông nói. “Con sẽ cảm thấy thế nào nếu chính con, hoặc cha, là người đang làm nhiệm vụ? Cha không muốn thấy ai bị thương tổn gì.” ông lại gãi gãi bên cánh mũi. “Đi gói ghém hành lý đi, rồi hôn chào tạm biệt mẹ con, sau đó cha sẽ tiễn con xuống tới làng.”
Tristran gói ghém hành lý, và mẹ anh mang cho anh sáu quả táo chín đỏ cùng một ổ bánh mì tròn, một khoanh pho mát trắng tinh nhà làm, tất cả đều được anh cất vào bên trong túi xách. Bà Thorn không hề nhìn Tristran. Anh hôn lên má tạm biệt bà. Rồi anh theo cha lên đường vào làng.
Hồi mười sáu tuổi, Tristran đã nhận phiên canh đầu tiên bên bức tường. Anh chỉ nhận được một chỉ dẫn duy nhất: nhiệm vụ của người canh gác là không từ bất kỳ biện pháp nào để ngăn cản bất cứ ai từ làng đi qua lỗ hổng trên tường. Nếu không thể ngăn cản kẻ xâm phạm, vậy thì người canh gác phải huy động dân làng giúp đỡ.
Trên đường đi, anh cứ băn khoăn mãi không biết cha anh đang ấp ủ ý tưởng gì.
Có lẽ nếu hợp lực lại, cha con họ sẽ áp đảo được hai người canh gác. Có lẽ cha anh sẽ tìm ra một cách đánh lạc hướng nào đó, giúp anh có thể lẻn qua...có lẽ…
Đến lúc họ đã băng xuyên qua làng và đi đến chỗ lỗ hổng trên bức tường, Tristran đã tưởng tượng ra đủ mọi khả năng, chỉ trừ cái khả năng đã diễn ra trong thực tế.
Tối đó, người đảm nhiệm vai trò canh gác ở bức tường là Harold Crutchbeck và ông Bromios. Harold Crutchbeck là một chàng thanh niên vạm vỡ lớn hơn Tristran vài tuổi, con trai người chủ cối xay. Tóc ông Bromios vừa đen vừa xoăn, đôi mắt màu xanh lục và nụ cười trắng lóa, người ông tỏa ra mùi nho tươi và nước nho, lúa mạch và hoa bia.
Dunstan Thorn bước tới gần rồi đứng ngay trước mặt ông Bromios. Ông giậm giậm chân để chống lại cái lạnh buốt buổi tối.
“Chào bác Bromios. Chào cậu Harold,” Dunstan nói.
“Chào chú Thorn,” Harold Crutchbeck nói.
“Chào Dunstan,” ông Bromios nói. “Tôi tin là anh vẫn khỏe”
Dunstan công nhận là mình vẫn khỏe; và họ nói chuyện về thời tiết, đồng ý rằng tình hình này thật bất lợi cho nông dân, và rằng cứ dựa vào số lượng của những cây nhựa ruồi và thông đỏ đã đậu trái sẵn mà đoán thì hẳn mùa đông năm nay sẽ giá lạnh khắc nghiệt lắm cho xem.
Tristran nghe họ trò chuyện, chỉ chực bùng phát cơn giận dữ và cáu kỉnh, nhưng anh vẫn ngậm miệng, không nói năng gì.
Cuối cùng, cha anh nói, “Bác Bromios và cậu Harold này, hẳn là cả hai đều biết cậu con trai Tristran của tôi nhỉ?”
Tristran nhấc cái mũ quả dưa lên chào họ, lòng lo lắng.
Và rồi cha anh nói một điều anh không hiểu nổi. “Chắc cả hai người đều biết thằng bé từ đâu mà đến rồi,” Dunstan Thorn nói.
Ông Bromios gật đầu, không nói gì. Harold Crutchbeck bảo anh ta đã nghe kể nhiều lần, mặc dù một nửa trong số đó là những điều ta chẳng bao giờ nên để tâm đến.
“Chậc, sự thật đúng là thế đấy,” Dunstan nói. “Và giờ đã đến lúc nó quay trở lại rồi.”
“Có một ngôi sao...” Tristran dợm giọng giải thích, nhưng cha anh đã suỵt bảo anh im lặng.
Ông Bromios xoa cằm, xọc bàn tay vào mớ tóc xoăn đen bờm xờm. “Tốt thôi,” ông nói. Ông quay người rồi thấp giọng nói với Harold điều gì đó Tristran không sao nghe ra được.
Cha anh ấn vào tay anh thứ gì đó mát lạnh.
“Tiếp tục đi, con trai. Đi đi, rồi mang ngôi sao của con trở lại, cầu mong Chúa cùng các thiên thần của Người sẽ sát cánh bên con.”
Rồi thì ông Bromios và Harold Crutchbeck, hai người canh gác ở cổng, đứng tránh sang bên để cho anh đi qua.
Tristran bước qua lỗ hổng giữa hai vách tường đá, tiến vào đồng cỏ phía bên kia bức tường.
Quay người lại, anh nhìn về phía ba người đàn ông đang được đóng khung giữa lỗ hổng, thầm hỏi tại sao họ lại cho phép anh đi qua.
Rồi sau đó, tay bên này đung đưa túi xách, tay bên kia nắm lấy cái vật đã được cha anh nhét cho, Tristran Thorn bắt đầu leo lên ngọn đồi thoai thoải, tiến về phía khu rừng...
***
Theo bước chân anh, cái lạnh giá buổi đêm bớt gay gắt hơn, và đến khi đã tiếp cận được cánh rừng trên đỉnh đồi, Tristran ngạc nhiên nhận ra vầng trăng đang tỏa sáng vằng vặc, chiếu xuống anh xuyên qua khe hở giữa hàng cây. Anh ngạc nhiên vì trăng vốn đã lặn từ một tiếng đồng hồ trước; và nỗi ngạc nhiên còn tăng lên gấp đôi, bởi vì vầng trăng đã lặn là một vầng trăng khuyết mảnh khảnh màu bạc trắng, trong khi vầng trăng đang chiếu xuống anh bây giờ lại to lớn, tròn vành vạnh, chói lòa, vàng ruộm.
Vật mát lạnh trong tay anh ngân rung một tiếng: âm thanh leng keng trong như pha lê giống như phát ra từ những chiếc chuông của một thánh đường nhỏ xíu bằng thủy tinh. Anh xòe tay ra, giơ nó lên trước ánh trăng.
Đó là một bông hoa tuyết điểm, làm hoàn toàn từ thủy tinh.
Một làn gió ấm áp vỗ vào mặt Tristran: nó đượm mùi bạc hà cay, mùi lá lý chua đen và mùi những trái mận chín đỏ; và Tristran Thorn đột ngột ý thức được mức độ của những việc anh đã làm. Anh đang dấn bước vào Xứ Tiên, tìm kiếm một ngôi sao băng trong khi không hề biết phải làm cách nào để tìm ra ngôi sao đó, cũng không biết phải cố gắng ra sao để giữ cho bản thân được an toàn, nguyên vẹn. Anh ngoái nhìn lại, tưởng như có thể nhìn thấy những ánh đèn của ngôi làng Bức Tường sau lưng anh đang rung rinh chập chờn như trong làn sương mù nhiệt, nhưng vẫn đầy mời gọi.
Và anh biết nếu anh xoay người quay trở về, sẽ không ai vì thế mà bớt coi trọng anh hơn – cha anh sẽ không, mẹ anh cũng sẽ không; và thậm chí cả Victoria Forester - lần sau gặp anh - rất có khả năng cũng sẽ không chỉ đơn thuần mỉm cười gọi anh là “anh chàng nhân viên cửa hàng” và bổ sung rằng những ngôi sao, một khi đã rơi, thường khó mà tìm ra được.
Nhưng rồi sau đó, anh dừng lại.
Anh nghĩ đến đôi môi của Victoria, đôi mắt xám của cô, tiếng cười của cô. Anh duỗi thẳng vai, gài bông hoa tuyết điểm bằng pha lê lên cái khuy trên cùng của chiếc áo khoác giờ đang mở cúc. Và, quá ngây thơ nên chẳng thấy có gì cần kinh hoảng, quá trẻ nên chẳng thấy có gì cần e sợ, Tristran Thorn vượt sang phía bên kia cánh đồng chúng ta đã biết và tiến vào Xứ Tiên…