Chương 8 Bàn về những lâu đài giữa không trung và nhiều chuyện khác
Bình minh đang lên trên núi. Con bão dai dẳng vài ngày qua đã tan và không khí mát lạnh, trong trẻo.
Hoàng tử Septimus xứ Stormhold, cao và trông như con quạ, leo lên đèo núi, vừa đi vừa ngó nghiêng xung quanh như thể đang tìm kiếm món đồ thất lạc nào đó. Y đang dắt theo một con ngựa núi con màu nâu, lông bờm xờm, dáng vóc nhỏ bé. Đến chỗ con đèo nở rộng ra, y bèn dừng lại, như thể đã tìm thấy thứ đang tìm kiếm bên cạnh con đường mòn. Đó là một cỗ xe song mã nhỏ, tả tơi, lớn hơn một chút so với chiếc xe dê kéo, bị đổ nghiêng sang một bên.
Bên cạnh đó, hai xác chết đang nằm phơi ra. Xác chết đầu tiên là một con dê đực trắng, đầu lem máu đỏ. Septimus hích chân vào cái xác dê với vẻ thăm dò, đẩy đầu nó dịch ra; con dê đã nhận một vết thương sâu trí mạng vào trán, chính giữa hai sừng. Bên cạnh con dê là xác một thanh niên, khuôn mặt khi chết đờ đẫn y như nó ắt hẳn vẫn đờ đẫn lúc còn sống. Không có vết thương nào cho thấy nguyên nhân gã chết, chẳng có gì ngoài một vết bầm đen sì trên thái dương.
Cách hai cái xác này vài thước, nửa khuất nửa lộ bên cạnh một tảng đá, Septimus phát hiện ra thi thể một người đàn ông trung niên, mặt úp sấp, mặc trang phục đen. Da người này tái nhợt, máu từ người y chảy thành vũng trên nền đá bên dưới. Septimus cúi người xuống bên cạnh xác chết và cẩn thận túm tóc nhấc cái đầu đó lên; cổ họng người chết đã bị rạch ngọt xớt từ tai này sang tai bên kia. Septimus hoang mang nhìn chằm chằm cái xác. Y biết nó, tuy nhiên...
Và rồi, bật lên một tiếng ho khan khô khốc, y phá lên cười. “Bộ râu của anh,” y lớn tiếng nói với cái xác. “Anh đã cạo râu rồi. Cứ như thế anh cạo râu xong thì tôi sẽ không còn nhận ra anh nữa không bằng, Primus ạ.”
Primus, con ma tái nhợt đang ngồi cạnh những người em trai khác, nói, “Dĩ nhiên là chú sẽ nhận ra ta rồi, Septimus. Nhưng rất có thể ta sẽ câu được thêm chút thì giờ nếu ta nhìn thấy chú trước khi chú nhận ra ta,” và giọng nói người chết của y chỉ đơn thuần là một cơn gió nhẹ buổi sáng loạt soạt thổi qua bụi cây gai.
Septimus đứng dậy. Lúc này, mặt trời đã bắt đầu nhô lên phía trên chỏm cực Đông núi Bụng, bao lấy y trong quầng ánh sáng. “Vậy là tôi đã thành Đức vua Stormhold đời thứ tám mươi hai,” y nói với cái xác trên mặt đất, và tự nhủ, “chưa kể còn là Chúa tể vùng Đá Cheo Leo, Quản gia Những Thị Trấn Hình Chóp, Người gác Thành Trì, Người bảo vệ tối cao Núi Huon cùng tất cả những phần còn lại của nó.”
“Nếu không có Sức mạnh Stormhold vòng quanh cổ thì chú vẫn chưa phải đâu, em trai ạ” Quintus chua ngoa nói.
“Và còn chuyện trả thù nữa chứ,” Secundus nói, bằng giọng của cơn gió hú gào qua con đèo. “Bây giờ, việc đầu tiên chú phải làm là trả thù kẻ đã giết anh trai chú. Đó là luật huyết thống.”
Như thể nghe thấy lời họ vừa nói, Septimus lắc đầu. “Sao anh không thể đợi thêm chỉ vài ngày nữa thôi, ông anh Primus?” y hỏi cái xác dưới chân. “Đến lúc đó, tôi sẽ tự tay giết anh. Tôi đã có một kế hoạch hoàn hảo để tiễn anh về cõi chết rồi. Khi phát hiện ra anh không còn trên tàu Trái tim giấc mơ, tôi vẫn còn vừa đủ thời gian đánh cắp một con thuyền trên tàu rồi lần theo dấu chân anh. Còn giờ thì tôi lại phải trả thù cho cái xác chết đáng thương của anh, tất cả chỉ vì lòng tôn kính dành cho dòng máu của chúng ta và cho Stormhold.”
“Vậy là Septimus sẽ trở thành Đức vua Stormhold đời thứ tám mươi hai,” Tertius nói.
“Người xưa đã nói rồi đấy, đừng có tính kiểu đếm cua trong lỗ,” Quintus chỉ ra.
Septimus bước tránh xa cái xác để tiểu lên một tảng đá xám. Rồi y quay trở lại chỗ xác Primus. “Nếu tôi là người giết anh thì tôi đã có thể mặc xác anh ở đây cho thối rữa ra rồi,” y nói. “Nhưng vì niềm vui thú đó đã thuộc về một người khác nên tôi sẽ mang anh đi cùng một đoạn rồi để anh lại trên một vách đá cao cho đại bàng ăn thịt.” Nói xong, miệng ầm ừ vì ráng sức, y nhấc cái xác nhớp nháp khắp thân trước lên vắt ngang trên lưng con ngựa. Y lục lọi chỗ thắt lưng cái xác, cởi cái túi đựng các viên đá có chữ rune ra. “Cảm ơn vì những món này nhé, anh trai,” y nói, vỗ tay lên lưng cái xác.
“Nếu mày mà không trả thù con khốn đã cắt cổ họng tao thì có khi sẽ bị chúng chặn cho tắc họng đấy,” Primus nói, bằng giọng của những con chim núi đang tỉnh giấc đón chào ngày mới.
Họ ngồi kề vai nhau trên một đám mây tích dày màu trắng, to cỡ một thị trấn nhỏ. Đám mây phía dưới họ mềm mại và hơi lạnh. Càng chìm sâu vào trong lòng thì đám mây càng lạnh hơn, và Tristran thọc bàn tay bỏng rát sâu hết cỡ vào trong ruột đám mây: nó hơi cưỡng lại anh, nhưng vẫn cho phép anh thọc tay vào. Phần bên trong đám mây mang lại cảm giác mềm xốp và lạnh tê tái, vừa chân thực lại vừa phi thực.
Đám mây xoa dịu phần nào cơn đau trên tay anh, giúp anh suy nghĩ rõ ràng hơn.
“Chậc,” anh nói, sau một hồi im lặng, “e là tôi đã làm mọi thứ rối beng lên một chút rồi.”
Ngôi sao ngồi cạnh anh trên đám mây, vẫn khoác chiếc áo choàng mượn của người phụ nữ trong quán trọ, cái chân gãy chìa ra gác lên trên đám sương mù dày đặc phía trước. “Anh đã cứu mạng tôi,” cuối cùng cô nói. “Đúng không?”
“Chắc là tôi đã làm thế thật, đúng vậy.”
“Tôi ghét anh,” cô nói. “Tôi ghét anh vì tất cả những gì đã xảy ra, nhưng giờ tôi lại càng thấy ghét anh hơn cả.”
Tristran uốn bàn tay bị bỏng trong đám mây mát lạnh đến sảng khoái. Anh thấy mệt mỏi và hơi chóng mặt.
“Có lý do đặc biệt nào không?”
“Bởi vì,” cô bảo anh, giọng căng thẳng, “từ giờ, vì anh đã cứu mạng tôi nên dựa theo luật lệ của dân tộc tôi, anh sẽ chịu trách nhiệm về tôi, còn tôi chịu trách nhiệm về anh. Anh đi đâu, tôi phải đi đấy.”
“Ồ” anh nói. “Thế thì cũng không tệ, nhỉ?”
“Tôi thà bị trói vào một con sói gớm ghiếc, một con lợn hôi hám hay một yêu tinh đầm lầy còn hơn,” cô nói thẳng toẹt với anh.
“Thành thực mà nói, tôi không tệ đến thế đâu,” anh bảo cô, “khi cô hiểu tôi rồi thì sẽ thấy không phải thế đâu. Nghe này, tôi rất xin lỗi về vụ xích cô lại nhé. Có lẽ chúng ta có thể bắt đầu lại một lần nữa, cứ giả vờ như chuyện kia chưa bao giờ xảy ra. Nào, tôi là Tristran Thorn, rất vui được gặp cô.” Anh chìa bàn tay không bị bỏng ra cho cô.
“Xin Mẹ Mặt Trăng hãy bảo vệ con!” ngôi sao nói. “Tôi thà nắm tay một...”
“Tôi dám chắc là cô thấy thế,” Tristran nói, chẳng đợi để phát hiện ra lần này anh sẽ được so sánh một cách chẳng chút nương nhẹ với cái gì. “Tôi đã bảo tôi xin lỗi mà,” anh nói với cô. “Bắt đầu lại một lần nữa nhé. Tôi là Tristran Thorn. Rất vui được gặp cô.”
Cô thở dài.
Cách mặt đất ở độ cao như thế này, không khí loãng và rét căm căm, nhưng mặt trời lại ấm áp, và hình thù những đám mây xung quanh họ gợi Tristran nhớ đến một thành phố kỳ dị hay một thị trấn huyền ảo. Xa tít bên dưới, anh có thể nhìn thấy thế giới thực: ánh mặt trời đang lấm chấm trên mọi cái cây tí hon, biến mọi dòng sông uốn lượn thành một vết sên bò mỏng màu bạc sáng lấp lánh và chạy vòng vèo vắt ngang quang cảnh Xứ Tiên.
“Sao?” Tristran hỏi.
“Vâng” ngôi sao nói. “Đây đúng là một trò đùa vĩ đại, phải vậy không? Cho dù anh đi đâu, tôi cũng phải theo đấy. Cho dù có phải chết vì việc đó cũng đành.” Cô lấy tay xoáy tít bề mặt đám mây, tạo những gợn sóng lăn tăn trên đám sương mù. Rồi trong chớp nhoáng, cô chạm tay lên bàn tay Tristran “Các chị em của tôi gọi tôi là Yvaine,” cô bảo anh. “Vì tôi là một ngôi sao ban đêm.”
“Nhìn chúng ta mà xem,” anh nói. “Một bộ đôi hoàn hảo. Cô gãy chân, tôi hỏng tay.”
“Đưa tay anh đây tôi xem nào.”
Anh kéo tay ra khỏi đám mây mát lạnh: bàn tay anh đỏ ửng, những vết phỏng hiện rõ trên các gò ở lòng và lưng bàn tay, tại những chỗ đã bị lửa liếm vào da.
“Có đau không?” cô hỏi.
“Có chứ, anh nói. “Thật sự đau ra trò đấy.”
“Tốt,” Yvaine nói.
“Nếu tay tôi mà không bị bỏng thì bây giờ có khi cô đã chết rồi,” anh chỉ ra. Cô biết điều cúi xuống, vẻ xấu hổ. “Cô biết đấy,” anh nói thêm, thay đổi chủ đề, “tôi đã bỏ lại túi hành lý ở quán trọ của mụ điên đó rồi. Giờ chúng ta chẳng có gì sất, ngoài bộ trang phục mà chúng ta đang đứng bên trong đây.”
“Ngồi bên trong chứ,” ngôi sao chỉnh lại.
“Không có thức ăn, không nước uống, chúng ta đang cách thế giới dễ phải nửa dặm đường trong khi chẳng có cách nào để xuống dưới, và cũng không thể kiểm soát được hướng mây trôi đi. Cả hai chúng ta lại đều bị thương. Tôi có bỏ sót điều gì không nhỉ?”
“Anh đã quên mất chuyện những đám mây tiêu tán và tan biến vào hư vô,” Yvaine nói. “Chúng như thế đấy. Tôi từng nhìn thấy rồi. Tôi sẽ không sống sót nổi nếu bị ngã thêm một lần nữa.”
Tristran nhún vai. “Chậc,” anh nói. “Vậy thì có lẽ chúng ta không thoát khỏi ngày tận số rồi. Nhưng trong khi còn đang ngồi trên này, chúng ta cũng có thể nhìn ngó xung quanh xem sao.”
Anh đỡ Yvaine đứng dậy, rồi, loạng choạng, hai người họ ngập ngừng bước vài bước trên đám mây. Được một lúc, Yvaine lại ngồi xuống. “Chẳng ích gì đâu,” cô bảo anh. “Anh đi nhìn ngó xung quanh đi. Tôi sẽ ở đây đợi anh.”
“Hứa nhé?” anh hỏi. “Lần này không bỏ trốn nữa nhé?”
“Tôi xin thề. Có mặt trăng mẹ tôi làm chứng, tôi xin thề,” Yvaine rầu rĩ nói. “Anh đã cứu mạng tôi.”
Tristran buộc phải thỏa mãn với câu nói này.
Mái tóc mụ giờ gần như đã ngả hết thành màu xám, mặt mụ xệ xuống, những nếp nhăn hằn trên cổ họng, mắt và khóe miệng. Mặt mụ không chút khí sắc, mặc dù chiếc váy của mụ loang lổ màu máu đỏ thắm đến nhức mắt; nó đã bị xé toác ở vai, và bên dưới vết rách, có thể nhìn thấy một vết sẹo sâu hoắm, nhăn nhúm đáng sợ. Gió hất tung mái tóc mụ khi mụ đánh cỗ xe màu đen chạy xuyên qua Hoang mạc. Cứ chạy được một lúc, bốn con ngựa lại trượt chân suýt ngã: mồ hôi nặng trịch nhỏ tong tỏng từ bờm chúng và bọt mép đỏ máu sùi ra từ mõm chúng. Tuy vậy, móng guốc của chúng vẫn nện vang trên con đường mòn lầy lội xuyên qua Hoang mạc, nơi chẳng có thứ gì mọc được.
Nữ hoàng phù thủy, người lớn tuổi nhất trong các Lilim, ghìm cương cho ngựa dừng lại bên cạnh một mỏm đá màu xanh đồng nhô ra như một cây kim trên mặt đất Hoang mạc lầy lội. Rồi, bằng một tốc độ chậm rì rì chẳng có gì lạ đối với bất kỳ người phụ nữ nào đã không còn trong độ thanh xuân sung sức nhất, hoặc thậm chí chỉ sung sức tương đối, mụ trèo từ ghế xà ích xuống mặt đất ướt nhoét.
Mụ đi quanh cỗ xe và mở cánh cửa lên xuống ra.
Đầu một con kỳ lân chết, con dao găm của mụ vẫn đang cắm vào trong hốc mắt lạnh lẽo của nó, đổ oặt xuống khi mụ mở cửa. Mụ phù thủy leo vào trong thùng xe, tách miệng con kỳ lân ra. Xác chết đã bắt đầu cứng lại nên quai hàm nó không dễ gì mở ra được. Mụ phù thủy cắn mạnh vào lưỡi, mạnh đến mức khiến cho đau đớn trong miệng trở nên bén nhọn, cắn cho đến khi mụ nếm thấy vị máu. Mụ lấy máu xúc miệng, trộn máu hòa chung với nước bọt (mụ có thể cảm nhận rõ mấy cái răng cửa đã bắt đầu trở nên lỏng lẻo), rồi mụ nhổ bãi nước bọt trộn máu lên cái lưỡi loang lổ màu của con kỳ lân. Máu lấm chấm trên môi và cằm mụ. Mụ ậm ừ một vài âm tiết nào đó, ta sẽ không nhắc lại ở đây làm gì, rồi khép miệng con kỳ lân lại.
“Ra khỏi xe đi,” mụ nói với con vật đã chết.
Cứng nhắc, vụng về, con kỳ lân ngỏng cổ lên. Rồi nó nhúc nhích chân cẳng, chẳng khác gì một con ngựa non hay con nai con vừa mới học đi, sau đó co rúm lại và đẩy thân mình chống cả bốn chân để đứng dậy, nửa leo nửa ngã, nó trèo ra bên ngoài cửa xe xuống dưới mặt đất bùn lầy và đứng ở đó. Sườn bên trái nó, vốn lúc nãy vẫn úp trên sàn xe, sưng phồng và bị nhuộm đen bởi máu và các thứ chất lỏng. Như kẻ mù dở, con kỳ lân đã chết loạng choạng tiến về phía cây kim đá xanh, cho tới khi đến được một chỗ lõm dưới chân tảng đá, nó mới khuỵu hai chân trước xuống y như một kẻ đang cầu nguyện, chỉ có điều dáng vẻ cực kỳ ghê khiếp.
Nữ hoàng phù thủy cúi xuống nhổ con dao ra khỏi hốc mắt con vật. Mụ lạng dao ngang cổ họng con kỳ lân. Máu bắt đầu rỉ ra, chậm rì rì, từ vết rạch dài sâu hoắm mụ vừa gây ra. Mụ trở về xe và rồi quay lại mang theo con dao pha. Rồi mụ bắt đầu chém cổ con kỳ lân, cho tới khi mụ đã chặt nó tách rời khỏi phần thân, khiến cho cái đầu bị cắt rời rơi vào trong hõm đá, giờ đang đầy oặp một vũng máu mằn mặn đỏ sẫm.
Mụ tóm cái sừng kỳ lân, nhấc đầu nó lên đặt bên cạnh phần thân trên tảng đá; ngay sau đó, mụ chĩa đôi mắt xám khắc nghiệt nhìn vào bên trong vũng máu đỏ vừa được mụ tạo ra. Hai khuôn mặt từ trong vũng máu nhìn thẳng vào mụ: hai người phụ nữ, vẻ ngoài già hơn hẳn so với mụ bây giờ.
“Cô ta đâu rồi?” khuôn mặt đầu tiên hỏi, giọng cáu kỉnh. “Chị đã làm gì cô ta rồi?”
“Nhìn chị mà xem!” Lilim thứ hai nói. “Chị đã lấy nốt phần thanh xuân cuối cùng chúng ta dành dụm được - đích thân tôi đã xé nó ra khỏi lồng ngực ngôi sao từ thời xa lắc xa lơ ngày xưa, mặc dù cô ta gào thét quằn quại và vùng vẫy rất kinh. Chỉ cần nhìn chị bây giờ cũng có thể suy ra được chị đã phung phí gần hết tuổi thanh xuân rồi.”
“Tôi suýt chút nữa đã thành công rồi,” mụ phù thủy nói với hai người em trong vũng máu. “Nhưng cô ta lại được một con kỳ lân bảo vệ. Giờ tôi đã lấy được đầu con kỳ lân rồi, và tôi sẽ mang nó về cùng, vì đã lâu lắm rồi, chúng ta chẳng có món sừng kỳ lân nghiền tươi mới để dùng cho phép thuật của chúng ta."
“Quỷ tha ma bắt cái sừng kỳ lân đi,” người em út nói. “Ngôi sao thì thế nào?”
“Tôi không thể tìm thấy cô ta. Có vẻ như cô ta không còn ở Xứ Tiên nữa.”
Một khoảng lặng buông xuống.
“Không” một trong hai người em của mụ nói. “Cô ta vẫn ở Xứ Tiên. Nhưng cô ta sắp tới Phiên Chợ ở Bức Tường, và nó ở quá sát với thế giới phía bên kia bức tường. Một khi cô ta tiến vào trong thế giới đó, cô ta sẽ chẳng còn ý nghĩa gì với chúng ta nữa.”
Bởi vì tất cả bọn họ đều biết rõ, một khi ngôi sao đã băng qua bức tường và tiến vào cái thế giới của những thứ nhìn làm sao của chiêm bao làm vậy, cô sẽ biến thành, chỉ trong chớp mắt, chẳng có gì hơn một cục đá kim loại lỗ chỗ đã rơi khỏi bầu trời: lạnh ngắt, chết lịm và chẳng còn gì hữu ích với họ.
“Vậy tôi sẽ tới đợi sẵn ở chỗ Rãnh Diggory, vì ai muốn tới Bức Tường cũng bắt buộc phải đi qua đường đó”
Hình phản chiếu của hai bà già chăm chăm nhìn ra từ trong vũng máu với vẻ không tán thành. Nữ hoàng phủ thủy rê lưỡi một lượt lên hàm răng (cái răng cửa thể nào cũng rơi ra ngoài lúc sẩm tối, mụ nghĩ, xem nó lung lay đến thế kia mà) và nhổ nước bọt vào trong vũng máu. Những gợn sóng lăn tăn lan khắp vũng chất lỏng, xóa sạch mọi dấu vết của các Lilim; giờ vũng máu chỉ phản chiếu mỗi bầu trời phía trên Hoang mạc và những đám mây trắng nhờ xa tít bên trên.
Mụ đá cái xác không đầu của con kỳ lân để nó lăn nghiêng sang một bên. Rồi mụ nhấc cái đầu kỳ lân lên, xách theo nó lên ghế xà ích. Mụ đặt cái đầu xuống cạnh chỗ ngồi, nhấc dây cương lên và vung roi bắt lũ ngựa bất kham bắt đầu cuộc chạy nước kiệu đầy mệt mỏi.
Tristran ngồi trên đỉnh một chóp mây, băn khoăn thầm hỏi tại sao chẳng có bất kỳ nhân vật chính nào trong các tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn anh vẫn đọc nghiến ngấu hồi xưa từng cảm thấy đói. Dạ dày anh sôi lên, bàn tay anh đau nhức nhối. Bình thường, các cuộc phiêu lưu đều rất hay ho, anh nghĩ, nhưng còn vô khối chuyện chưa kể về các bữa ăn thường lệ và cách thoát khỏi cơn đau.
Tuy vậy, anh vẫn sống, và gió đang lùa trong tóc anh, mây đang vun vút lao ngang bầu trời như con thuyền lớn căng buồm. Từ trên cao nhìn bao quát thế giới bên dưới, anh không thể nhớ được đã bao giờ anh có cảm giác tràn đầy sức sống như anh đang cảm thấy lúc này không. Bầu trời có một vẻ đúng chất bầu trời và thế giới mang đậm tính mới mẻ mà anh chưa từng nhìn thấy, cảm thấy hay nhận thấy bao giờ.
Anh hiểu rằng, theo một cách nào đó, anh đang vượt hẳn lên trên các vấn đề của mình, cũng y như anh đang vượt hẳn lên trên thế giới. Đau đớn nơi bàn tay anh đã trôi đi rất xa. Anh nghĩ về các hành động cùng các cuộc phiêu lưu của mình, về hành trình phía trước, và trong mắt Tristran, toàn bộ chuyện này dường như bỗng đột nhiên trở nên vô cùng nhỏ bé và không hề phức tạp. Anh đứng trên chóp mây, hô vang “Xin chào!” vài lần, vặn hết âm lượng. Thậm chí anh còn vẫy vẫy cái áo suông trên đầu, không khỏi cảm thấy hành động này có phần ngớ ngẩn. Rồi anh leo xuống khỏi chóp mây; cách đáy chóp tầm mười bước chân, anh trượt chân ngã vào giữa đám mây mềm mại mù sương.
“Anh la hét cái gì thế?” Yvaine hỏi.
“Để người ta biết chúng ta đang ở đây,” Tristran bảo cô.
“Người ta nào?”
“Ai mà biết được chứ,” anh bảo cô. “Tôi thà hét lên gọi những người không có mặt ở đây còn hơn là để cho những người có mặt dưới đó bỏ qua chúng ta vì tôi chẳng nói năng gì cả.”
Cô không nói gì để đáp lại câu này.
“Tôi vẫn nghĩ mãi,” Tristran nói. “Và chuyện tôi đang nghĩ đến là thế này. Sau khi chúng ta đã giải quyết xong việc tôi cần làm - đưa cô quay về Bức Tường, giới thiệu cô với Victoria Forester - có lẽ chúng ta có thể xử lý việc cô cần.”
“Việc tôi cần?”
“Chậc, cô muốn quay về, đúng không? Lên trên bầu trời ấy. Để lại tỏa sáng vào buổi tối. Vậy thì chúng ta có thể thu xếp chuyện đó.”
Cô ngước nhìn anh, lắc đầu. “Không có chuyện đó đâu,” cô giải thích. “Các ngôi sao đã rơi. Họ không quay trở lại được nữa.”
“Biết đâu cô lại là người đầu tiên,” anh bảo cô. “Cô phải có niềm tin chứ. Nếu không, chuyện đó sẽ chẳng xảy ra đâu.”
“Chuyện đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra đâu,” có bảo anh. “Cũng y như là anh có la hét thế cũng chẳng thu hút được bất kỳ ai ở đây vì ở đây làm gì có ai cơ chứ. Tôi có niềm tin hay không cũng chẳng thành vấn đề, mọi thứ vốn vẫn như vậy rồi. Tay anh thế nào?”
Anh nhún vai. “Đau,” anh nói. “Chân cô thì sao?”
“Đau,” cô nói. “Nhưng không tệ như trước nữa”
“Ô này!” một giọng nói vang lên từ phía bên trên đầu họ. “Ô này bên dưới kia ơi! Tiệc tùng cần hỗ trợ đấy à?”
Vật màu vàng đang sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời hóa ra là một con thuyền nhỏ, buồm căng phồng, và một khuôn mặt hồng hào để ria mép đang ló ra qua thành tàu ngó xuống nhìn họ. “Có phải cái thứ vừa mới rồi cứ nảy tưng tưng chính là anh không, cậu trai ơi?”
“Đúng rồi đấy,” Tristran nói. “Và đúng là chúng tôi đang cần hỗ trợ đây.”
“Đồng ý luôn,” người đàn ông nói. “Chuẩn bị bắt thang nhé.”
“E là bạn tôi đã bị gãy chân,” anh gọi to, “còn tôi bị đau tay. Tôi không nghĩ là chúng tôi có thể leo được lên thang đâu.”
“Không thành vấn đề. Để chúng tôi kéo các bạn lên.” Nói xong câu này, người đàn ông ném một cái thang dây dài qua thành tàu. Tristran giơ bàn tay lành lặn tóm lấy cái thang dây, giữ nó ở yên một chỗ trong lúc Yvaine hì hục leo lên trên, rồi anh cũng trèo lên theo sau cô. Lúc Tristran và Yvaine chật vật đu đưa ở cuối sợi thang dây, khuôn mặt kia đã biến mất khỏi thành tàu.
Con tàu bay bắt gió, kéo cái thang rời khỏi đám mây, và Tristran cùng Yvaine nhè nhẹ xoay tròn giữa không trung.
“Nào, kéo!” vài giọng nói đồng thanh hô vang, và Tristran cảm thấy hai người bọn họ đang được kéo lên vài bộ. “Kéo! Kéo! Kéo!” Mỗi một tiếng hét vang lên, họ lại được kéo cao hơn chút nữa. Đám mây họ vừa ngồi lên lúc nãy giờ không còn ở bên dưới họ nữa; thay vào đó là một quãng rơi mà Tristran đoán chừng ít nhất phải một dặm. Anh siết chặt sợi thừng, móc khuỷu tay bên phía bàn tay bị bỏng quanh cái thang dây.
Thêm một cú giật lên trên nữa, và Yvaine giờ đã ở ngang tầm tay vịn của lan can tàu. Ai đó cẩn thận nhấc cô lên đặt xuống sàn tàu. Tristran tự trèo qua lan can và ngã xuống sàn tàu gỗ sồi.
Người đàn ông mặt hồng hào chìa một bàn tay ra. “Chào mừng lên tàu,” ông nói. “Đây là tàu tự do Perdita, đang trên hành trình săn sét. Thuyền trưởng Johannes Alberic, sẵn sàng phục vụ các bạn.”
Ông bật ho, tiếng ho thoát ra từ sâu trong lồng ngực. Và sau đó, Tristran còn chưa kịp nói gì đáp lại thì truyền trưởng đã nắm bàn tay trái của anh xem xét kỹ càng và hét to “Meggot! Meggot! Bà đâu rồi, cái đồ trời đánh thánh vật? Ra đây đi! Các hành khách đang cần chăm sóc này. Đấy nhé anh bạn, Meggot sẽ khám tay cho anh. Chúng tôi ăn vào lúc chuông kêu sáu tiếng. Hai cô cậu sẽ ngồi cùng bàn với tôi.”
Ngay sau đó, một người phụ nữ có vẻ mặt lo lắng và mái tóc màu đỏ cà rốt rối như tổ quạ - Meggot - hộ tống anh xuống dưới boong tàu, trét lên bàn tay anh một lớp thuốc mỡ dày màu xanh lục, giúp bàn tay mát hẳn ra, đồng thời xoa dịu cơn đau. Sau đó, anh được dẫn đi ăn, trong một phòng ăn nhỏ cạnh bếp (anh thích thú phát hiện ra phòng bếp được mọi người gọi là galley, y như trong các câu chuyện về biển cả anh từng đọc).
Quả đúng là Tristran được ngồi ăn ở bàn thuyền trưởng, mặc dù thực ra mà nói, trong phòng ăn của thủy thủ chẳng còn cái bàn nào khác. Ngoài thuyền trưởng và Meggot, ở đây còn có năm thành viên thủy thủ đoàn khác, một nhóm tạp nham có vẻ rất vui lòng để mặc cho thuyền trưởng Alberic nói hết phần của mọi người, mà ông thuyền trưởng cũng làm thế thật, trong lúc một tay cầm bình rượu, một tay bận rộn lúc thì nắm cái tẩu thuốc mập mạp, lúc lại lùa thức ăn vào miệng.
Thức ăn là món xúp đặc gồm rau, đậu cùng lúa mạch, và nó đã lấp đầy bụng Tristran, thỏa mãn cơn đói của anh. Đồ uống là thứ nước trong mát nhất Tristran từng được nếm.
Thuyền trưởng không hỏi han gì về nguyên nhân khiến hai người họ xuất hiện trên một đám mây cao tít, còn họ cũng chẳng tự động trả lời. Tristran được thu xếp ngủ cùng với Oddness, thuyền phó, một quý ngài trầm tĩnh với cánh tay to tướng và nói lắp rất nặng, còn Yvaine được mời ngủ ở cabin của Meggot, trong khi Meggot thì chuyển đến ngủ trên võng.
Trong suốt chặng đường còn lại băng qua Xứ Tiên, Tristran nhận ra anh thường xuyên nhớ về quãng thời gian ở trên tàu Perdita, xem đó như là một trong những quãng thời gian hạnh phúc nhất trong đời. Thủy thủ đoàn cho phép anh góp một tay ở chỗ cột buồm, và thậm chí thỉnh thoảng còn cho anh được nhận phiên điều khiển bánh lái. Đôi khi, con tàu dong buồm vượt trên những đám mây dông tối tăm to như cả ngọn núi, và thủy thủ đoàn sẽ dùng một cái hòm nhỏ bằng đồng để câu các tia sét. Mưa gió sẽ rửa sạch boong tàu, và anh thường xuyên nhận thấy mình đang cười vang hồ hởi trong lúc mưa chảy tràn xuống mặt, bàn tay lành lặn túm chặt lấy dây thừng lan can để khỏi bị cơn bão hất bay ra khỏi thành tàu.
Meggot, cao hơn và gầy hơn Yvaine một chút, đã cho cô mượn mấy cái váy dài, và ngôi sao hân hoan mặc lên người, lấy làm vừa lòng mãn ý vì không phải mặc mãi mấy ngày một bộ trang phục. Thường thường, cô sẽ leo lên trên mũi tàu, chẳng quản gì đến cái chân gãy, và ngồi đó, nhìn xuống mặt đất bên dưới.
“Tay anh sao rồi?” thuyền trưởng hỏi.
“Đỡ hơn nhiều rồi, cảm ơn ông” Tristran đáp. Làn da anh bóng loáng, dính sẹo, và các ngón tay không có cảm giác rõ ràng, nhưng món thuốc mỡ của Meggot đã làm giảm phần lớn đau đớn, thúc đẩy đáng kể tốc độ lành vết thương. Lúc này, anh đang ngồi trên boong, hai chân đu đưa qua thành tàu, nhìn về phía trước.
“Trong vòng một tuần nữa, chúng tôi sẽ thả neo, bổ sung thực phẩm dự trữ và ít hàng hóa,” thuyền trưởng nói. “Có lẽ chúng tôi thả các bạn xuống tàu ở đó là tốt nhất.”
“Ồ. Cảm ơn ông” Tristran nói.
“Đến lúc đấy, các bạn sẽ ở gần Bức Tường hơn rồi. Tuy nhiên, vẫn còn phải đi tầm chục tuần nữa. Có khi lâu hơn. Nhưng Meggot bảo đã chữa được tương đối cho chân của bạn anh rồi. Chẳng mấy chốc cô ấy sẽ lại đi đứng được thôi.”
Họ ngồi đó, vai kề vai. Thuyền trưởng bập bập tẩu thuốc: quần áo ông đã phủ một lớp tàn dày, và những khi không hút thuốc, ông sẽ nhay nhay ống tẩu, hay moi nõ tẩu bằng một dụng cụ nhọn bằng bạc, hoặc nhồi một cữ thuốc mới.
“Anh biết đấy,” thuyền trưởng nói, dõi mắt về phía chân trời, “không phải hoàn toàn do số trời run rủi mà chúng tôi tìm được hai người. Chậc, đúng là số trời run rủi nên chúng tôi mới gặp hai người, nhưng cũng phải thú thực là, lúc ấy tôi vẫn đang để mắt tìm kiếm các bạn. Tôi, và một vài người khác quanh đây nữa.”
“Tại sao?” Tristran hỏi. “Làm sao ông biết về tôi?”
Để đáp lại, thuyền trưởng vạch ngón tay vẽ một hình thù lên hơi nước đọng trên lớp gỗ bóng.
“Trông như một lâu đài vậy,” Tristran nói.
Thuyền trưởng nháy mắt với anh. “Không phải một từ có thể nói rõ ràng lên thành tiếng,” ông nói, “kể cả ở trên đây chăng nữa. Cứ xem nó như một hội ái hữu đi.”
Tristran nhìn ông chăm chăm. “Ông có biết một người đàn ông bé nhỏ lông lá đội mũ và mang một ba lô đồ đạc to tướng không?”
Thuyền trưởng gõ gõ tẩu thuốc lên thành tàu. Hình ảnh tòa lâu đài đã bị ông đưa tay xóa sạch từ nãy. “Có. Và ông ta không phải thành viên duy nhất của hội ái hữu hứng thú với chuyến trở về Bức Tường của anh. Nhắc đến mới nhớ, anh nên bảo cho cô gái biết rằng nếu cô ấy muốn tìm cách che giấu thực chất cô ấy là ai, vậy thì có lẽ cô ấy nên cố mà làm cho người ta có ấn tượng rằng thỉnh thoảng cô ấy có ăn cái gì đó - bất kỳ cái gì.”
“Tôi chưa từng nhắc đến Bức Tường trước mặt ông” Tristran nói. “Khi ông hỏi tôi từ đâu đến, tôi trả lời Phía sau chúng tôi và khi ông hỏi chúng tôi định đi đâu, tôi đã bảo, Phía trước chúng tôi.”
“Thế mới là anh chàng của tôi,” thuyền trưởng nói. “Chính xác.”
Một tuần nữa trôi qua, đến ngày thứ năm trong tuần, Meggot tuyên bố nẹp chân của Yvaine đã sẵn sàng tháo ra được rồi. Cô cởi bỏ lớp băng gạc tự chế cùng cái nẹp, và Yvaine bám vào lan can tàu, cà nhắc tập đi quanh boong, từ mũi tàu tới đuôi tàu. Chẳng mấy chốc, cô đã có thể dễ dàng đi lại khắp tàu, mặc dù vẫn còn hơi tập tễnh.
Đến ngày thứ sáu, một cơn bão lớn nổi lên, họ bắt được sáu tia sét xịn và cất vào trong cái thùng bằng đồng. Đến ngày thứ bảy, họ cập cảng. Tristran và Yvaine chào tạm biệt thuyền trưởng cùng thủy thủ đoàn tàu tự do Perdita. Meggot đưa cho Tristran một hũ nhỏ đựng thuốc mỡ xanh cho anh bôi tay và để Yvaine xoa bóp chân. Thuyền trưởng tặng Tristran một cái túi da đeo vai đựng đầy trái cây, thịt khô và mấy mẩu thuốc lá, một con dao và một hộp bật lửa (“Ôi, đừng bận tâm, chàng trai. Dù sao thì chúng tôi cũng bổ sung đồ dự trữ ở đây mà”), còn Meggot tặng Yvaine một cái váy lụa xanh dương đính những mặt trăng và ngôi sao nhỏ xíu bằng bạc (“Vì nó hợp với cô hơn với tôi gấp vạn lần, cô gái yêu dấu ạ”).
Con tàu bỏ neo bên cạnh một tá tàu bay tương tự khác, trên chóp một cái cây lớn đến nỗi bên trong bụng cây đủ chỗ dựng hàng trăm căn nhà. Nó đã trở thành nơi cư ngụ của người thường, người lùn, thần lùn, người rừng và những cư dân khác, thậm chí còn kỳ quái hơn. Có các bậc thang bao quanh thân cây, và Tristran cùng ngôi sao từ từ leo xuống dưới. Tristran nhẹ cả người khi lại được quay trở về với một thứ gắn kết với mặt đất vững chắc, tuy nhiên, theo một cách nào đó mà anh không bao giờ có thể diễn đạt được thành lời, nỗi thất vọng dâng lên trong lòng anh, như thể lúc đôi chân anh lại chạm vào mặt đất một lần nữa cũng chính là lúc anh mất đi một thứ gì đó vô cùng tốt đẹp.
Sau ba ngày đi bộ, cái cây bến cảng mới biến mất nơi đường chân trời.
Họ tiến về phương Tây, về phía mặt trời lặn, theo con đường rộng rãi bụi bặm. Họ ngủ bên cạnh các hàng rào cây. Tristran ăn trái cây và hạt hái từ các bụi rậm và cây thân gỗ, uống nước từ các dòng suối trong. Trên đường đi, họ tình cờ gặp gỡ vài người. Những khi có cơ hội, họ nghỉ chân ở các nông trại nhỏ, rồi Tristran sẽ nhận việc làm trong buổi chiều để đổi lấy thức ăn và một ít rơm trong chuồng gia súc đủ làm chỗ ngả lưng. Thỉnh thoảng, họ dừng lại ở các thị trấn hay làng mạc nằm trên đường đi, để rửa ráy, ăn uống - hoặc, trong trường hợp của ngôi sao, giả vờ ăn uống - và để nghỉ trọ, bất cứ khi nào họ có đủ khả năng chi trả, tại quán trọ trong thị trấn.
Trong thị trấn Simcock Dưới Đồi, Tristran và Yvaine gặp một nhóm yêu tinh, một cuộc đụng độ rất có khả năng đi đến kết cục chẳng may, khiến Tristran phải mất cả quãng đời còn lại vật lộn với những cuộc gây chiến liên miên của các yêu tinh dưới mặt đất, nếu không nhờ tư duy nhanh nhạy cùng miệng lưỡi sắc bén của Yvaine.
Trong rừng Brinhed, Tristran phải mặt đối mặt với một con đại nâu khổng lồ đã cắp cả hai người họ mang về tổ làm mồi cho bầy chim non và vốn chẳng sợ bất kỳ thứ gì, ngoại trừ lửa.
Trong một quán rượu ở Fulkeston, Tristran được tán thưởng nhiệt liệt vì đã đọc thuộc bài thơ “Kubla Khan” của Coleridge, đoạn Thánh Vịnh 23, bài diễn văn “Đặc tính của sự khoan dung” trích từ Người lái buôn thành Venice, cùng một bài thơ kể về một chàng trai đứng trên boong tàu đang bốc cháy trong khi tất cả những người khác đều đã chạy trốn hết, mỗi một bài đọc thuộc lòng này đều buộc Tristran phải nhờ cậy đến trí nhớ từ thời còn đi học. Anh thầm cảm tạ cô Cherry vì đã cố gắng buộc anh phải học thuộc các đoạn thơ, cho tới khi ai cũng đều thấy rõ rằng dân chúng ở Fulkeston đã đi đến quyết định anh sẽ ở lại cùng họ mãi mãi và trở thành thi sĩ hát rong mới của thị trấn; Tristran và Yvaine buộc phải lẻn ra khỏi thị trấn giữa đêm hôm khuya khoắt, và họ chỉ có thể trốn thoát êm thấm nhờ Yvaine đã thuyết phục (bằng một cách nào đó mà Tristran chẳng bao giờ biết rõ được) để lũ chó trong thị trấn không sủa váng lên khi họ bỏ đi.
Mặt trời thiêu đốt nhuộm khuôn mặt Tristran thành màu nâu hạt dẻ, khiến quần áo của anh bạc đi thành những tông màu gỉ sét và bụi bặm. Yvaine vẫn nhợt nhạt như mặt trăng và chân vẫn không khỏi khập khiễng, bất kể họ đã băng qua bao nhiêu dặm đường.
Một tối, khi hạ trại bên rìa một rừng sâu, Tristran nghe thấy một âm thanh anh chưa từng nghe trước đó: một giai điệu đẹp đẽ, u sầu và lạ lẫm. Giai điệu mang theo các ảo ảnh lấp đầy tâm trí anh, và mang theo nỗi kinh sợ cùng niềm vui sướng lấp đầy trái tim anh. Âm nhạc dẫn anh nghĩ đến những không gian vô hạn, những quả cầu pha lê khổng lồ xoay tròn bằng một tốc độ chậm rãi đến mức khó nói nên lời xuyên qua những đại sảnh không khí mênh mông. Giai điệu chuyển dịch anh, đưa anh vượt lên trên chính mình.
Sau dễ chừng cả mấy tiếng đồng hồ dằng dặc, cũng có khi chỉ là mấy phút, giai điệu kết thúc, và Tristran thở dài. “Kỳ diệu thật,” anh nói. Ngôi sao mấp máy môi, trong vô thức, nở thành một nụ cười mỉm, và đôi mắt cô sáng rỡ lên. “Cảm ơn anh, cô nói. “Tôi vẫn đinh ninh mình chẳng hề thích hát, mãi cho tới tận bây giờ.”
“Tôi chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ cái gì giống như thế.”
“Có những tối,” cô bảo anh, “tôi và các chị em gái sẽ hát cùng nhau. Hát những bài kiểu như vừa rồi, về mẹ kính yêu của chúng tôi, về bản chất của thời gian, về niềm hạnh phúc khi được tỏa sáng và niềm vui của sự cô độc.”
“Tôi xin lỗi,” anh nói.
“Không cần đâu,” cô bảo anh. “Ít nhất tôi vẫn còn sống. Tôi vẫn còn may vì đã ngã vào Xứ Tiên. Và có lẽ tôi đã may mắn vì gặp được anh.”
“Cảm ơn cô,” Tristran nói.
“Có gì đâu,” ngôi sao nói. Rồi, đến lượt mình, cô thở dài, ngước mắt nhìn chăm chăm lên bầu trời qua các kẽ lá.
Tristran mải mê tìm bữa sáng. Anh vừa phát hiện ra mấy cây nấm trứng non, một cây mận lúc lỉu những quả mận tím rịm chín muồi và khô quắt chẳng kém gì mận khô, thì đúng lúc đó, anh liếc thấy con chim trong bụi cây thấp.
Anh không định bắt nó (anh đã gặp phải một cú sốc nghiêm trọng vài tuần trước, sau khi anh thất bại trong gang tấc lúc rắp tâm bắt một con thỏ rừng nâu xám to tướng cho bữa tối, con thỏ dừng lại ở bìa rừng, nhìn anh bằng ánh mắt khinh bỉ rồi nói, “Ái chà, tôi chỉ mong là anh thấy tự hào về bản thân, thế thôi” và lao vụt vào giữa đám cỏ cao) nhưng anh vẫn bị hút về phía nó. Con chim này rất nổi bật, to không kém gì gà lôi, nhưng lông lại sặc sỡ đủ màu, đỏ rực, vàng và xanh dương rạng rỡ. Nó trông chẳng khác gì một kẻ tị nạn từ vùng nhiệt đới, vô cùng lạc lõng giữa khu rừng dương xỉ xanh ngắt này. Con chim giật mình sợ hãi khi Tristran tiến lại, lập cập nhảy lò có lúc anh lại gần hơn và kêu ré lên hoảng loạn.
Tristran quỳ một chân ngồi xuống cạnh nó, lầm bầm trấn an. Anh với tay về phía con chim.
Trở ngại đã trở nên rõ rành rành: một sợi xích bạc buộc vào chân chim đã mắc vào trong một nhánh rễ xoắn xuýt giữa bộ rễ cây trồi lên trên mặt đất, khiến con chim bị mắc kẹt ở đó, không tài nào di chuyển được.
Cẩn thận, Tristran gỡ rối cho sợi xích bạc, tháo nó ra khỏi cái rễ cây, trong lúc đưa bàn tay trái vuốt ve bộ lông xù của con chim. “Xong rồi đấy,” anh nói với con chim. “Về nhà đi.” Nhưng con chim không hề nhúc nhích để rời khỏi anh. Thay vì thế, nó nhìn thẳng vào mặt anh, đầu nghiêng sang một bên. “Nghe này,” Tristran nói, cảm thấy khá lúng túng và kỳ quái, “có lẽ ai đó đang lo cho mày lắm đấy.” Anh với tay xuống định nhấc con chim lên.
Đúng lúc ấy, thứ gì đó đập vào anh, khiến anh choáng váng; mặc dù vẫn ở yên tại chỗ, anh lại có cảm giác như mình đã chạy hết tốc lực vào trong một bức tường vô hình. Anh lảo đảo, suýt ngã.
“Thằng trộm!” một giọng nói già nua vỡ tiếng hét lên. "Tao sẽ biến xương mày thành băng và quay mày trước bếp lửa! Tao sẽ móc hai mắt mày ra, cột một mắt vào cá trích, một mắt vào mòng biển, để mày phát điên vì cùng lúc vừa nhìn thấy biển vừa nhìn thấy bầu trời! Tao sẽ biến lưỡi mày thành con sâu quằn quại, còn ngón tay mày sẽ biến thành dao cạo và kiến lửa sẽ đốt da mày để mỗi lần mày gãi người...”
“Bà không cần sửng cồ lên đâu,” Tristran nói với bà già. “Tôi không đánh cắp con chim của bà. Dây xích của nó vướng vào rễ cây nên tôi chỉ gỡ nó ra thôi.”
Bà già trừng mắt nhìn anh đầy nghi ngờ từ bên dưới mớ tóc bù xù có màu xám của sắt. Rồi bà ta lóc cóc chạy về phía trước, nhấc con chim lên. Bà ta giơ nó lên cao, thì thầm gì đó với nó, và nó đáp lại bằng một tiếng chiếp chiếp du dương kỳ quái. Bà già nheo mắt lại. “Ái chà, có lẽ lời mày nói cũng không hoàn toàn là một mớ dối trá,” bà ta thừa nhận, vẻ miễn cưỡng không để đâu cho hết.
“Nó không phải mớ dối trá gì hết,” Tristran nói, nhưng bà già cùng con chim đã đi được nửa đường ngang qua trảng rừng, vậy nên anh bèn gom nấm trứng và mận lại rồi quay trở về chỗ anh đã để Yvaine lại lúc nãy.
Cô đang ngồi cạnh con đường mòn, xoa bóp hai bàn chân. Cô vừa đau hông vừa đau cẳng chân, trong lúc hai bàn chân càng lúc càng trở nên nhạy cảm. Đôi lúc, giữa đêm tối, Tristran lại nghe thấy tiếng cô khe khẽ thổn thức một mình. Anh mong sao mặt trăng sẽ gửi đến cho họ một con kỳ lân khác, nhưng cũng biết rõ sẽ chẳng đời nào có chuyện đó.
“Chà,” Tristran bảo với Yvaine, “chuyện kỳ quái thật đấy.” Anh kể cho cô nghe sự kiện diễn ra sáng đó, đinh ninh câu chuyện thế là đã xong.
Nhưng, tất nhiên, anh đã nhầm. Vài giờ sau, Tristran và ngôi sao đang đi bộ trên con đường rừng thì nhìn thấy một cỗ xe moóc sơn màu sặc sỡ do hai con la xám kéo chạy ngang qua, xà ích chính là bà già đã dọa biến xương anh thành băng. Bà già ghìm cương dừng la lại và chĩa một ngón tay xương xẩu về phía Tristran. “Đến đây, chàng trai,” bà ta nói.
Anh thận trọng bước về phía bà già. “Sao vậy, thưa bà?”
“Có vẻ ta nợ cậu một lời xin lỗi,” bà ta nói. “Có vẻ cậu đã nói thật. Quy kết hồ đồ thế cơ chứ.”
“Vâng” Tristran nói.
“Để ta nhìn cậu xem nào,” bà ta nói, trèo xuống đứng trên đường. Ngón tay lạnh ngắt của bà ta chạm vào phần thịt mềm bên dưới cằm Tristran, nâng đầu anh ngẩng lên. Đôi mắt màu hạt dẻ của anh nhìn thẳng vào đôi mắt xanh lục già nua của mụ. “Trông cậu có vẻ tương đối thành thật đấy,” bà ta nói. “Cậu có thể gọi ta là Phu nhân Semele. Ta đang trên đường đến Bức Tường, tham gia phiên chợ. Có lẽ ta rất hoan nghênh một chàng trai giúp việc trên quầy hoa nhỏ của ta - ta bán hoa thủy tinh, cậu biết không, những món đồ đẹp đẽ nhất cậu từng thấy trên đời. Cậu sẽ là một người bán hàng tốt ở hội chợ, và chúng ta có thể đeo một cái găng lên bàn tay kia của cậu, như vậy thì cậu sẽ không dọa cho khách hàng sợ. Cậu thấy thế nào?”
Tristran ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói, “Xin đợi tôi một lát nhé,” và đi tới chỗ Yvaine bàn bạc. Họ cùng nhau quay lại chỗ bà già.
“Chào bà,” ngôi sao nói. “Chúng tôi đã bàn bạc về đề nghị của bà, và chúng tôi thấy...”
“Sao?” Phu nhân Semele hỏi, mắt xoáy vào Tristran. “Đừng có đứng đực ra như thế chứ! Nói đi! Nói đi! Nói đi!”
“Tôi không muốn làm việc cho bà tại phiên chợ,” Tristran nói, “vì tôi còn có công việc riêng cần phải xử lý ở đó. Tuy nhiên, nếu chúng tôi được phép đi cùng bà, tôi cùng bạn đồng hành sẵn lòng trả tiền đi lại cho bà.”
Phu nhân Semele lắc đầu. “Chẳng có ích gì với ta hết. Ta có thể tự mình kiếm củi, và có thêm cậu thì chỉ tổ lại thêm một gánh nặng nữa bắt Xảo Trá và Vô Vọng phải kéo. Ta không chở khách.” Bà ta lại leo trở về ghế xà ích.
“Nhưng” Tristran nói, “tôi sẽ trả phí cho bà mà”
Bà già hom hem bật cười khinh miệt. “Cậu thì có đời nào sở hữu được thứ gì đáng để ta lấy làm phí đi lại chứ. Này nhé, nếu cậu không làm việc cho ta tại phiên chợ ở Bức Tường, vậy thì xéo ngay cho khuất mắt.”
Tristran với tay lên cái khuyết áo chẽn, sờ thấy nó ở đó, vẫn mát lạnh và hoàn hảo như trong suốt cuộc hành trình của anh. Anh lôi nó ra, kẹp vào giữa ngón cái và ngón trỏ rồi giơ lên trước mặt bà già. “Bà đã bảo là bà bán hoa thủy tinh,” anh nói. “Không biết bà có hứng thú với bông hoa này không?”
Nó là một bông hoa tuyết điểm làm bằng thủy tinh xanh lục và thủy tinh trắng, được tạo dáng tài tình: nó cứ y như vừa được nhổ khỏi đồng cỏ sáng hôm ấy và vẫn còn đọng sương đêm. Bà già liếc nhìn nó một thoáng, nhìn những cái lá màu xanh lục và những cánh hoa trắng khít khao, rồi bà ta rít lên: nghe giống như tiếng kêu đau khổ của một con chim săn mồi mất trí nào đó. “Cậu lấy nó ở đâu?” bà ta kêu lên. “Đưa nó cho ta! Đưa nó cho ta ngay!”
Tristran khép ngón tay lại quanh bông tuyết điểm, che khuất nó khỏi tầm nhìn rồi lùi ra sau vài bước.
“Hừm” anh nói to. “Tôi chợt nghĩ ra là quả thật tôi cũng có tình cảm sâu sắc với bông hoa này, vì nó là món quà cha tôi tặng khi tôi bắt đầu cuộc hành trình, và tôi ngờ rằng nó mang một ý nghĩa lớn lao đối với cá nhân tôi và đối với gia đình tôi. Chắc chắn là kiểu gì thì kiểu, nó đã mang lại may mắn cho tôi. Có khi tôi cứ nên giữ lại bông hoa này thì hơn, rồi tôi và bạn đồng hành có thể đi bộ đến Bức Tường.”
Phu nhân Semele có vẻ đang trong tâm trạng giằng xé, nửa muốn đe dọa nửa muốn phỉnh phờ, và các cảm xúc săn đuổi nhau một cách lộ liễu trên mặt bà ta, đến nỗi bà ta có vẻ như suýt run cả người lên vì phải cố gắng kìm giữ chúng. Và rồi, bà ta lấy lại được sự tự chủ và nói bằng giọng già nua bình tĩnh, “Nào, nào. Không cần hấp tấp làm gì. Ta dám chắc chúng ta có thể thỏa thuận được với nhau.”
“Ồ” Tristran nói, “tôi nghi ngờ chuyện đó đấy. Để khơi dậy hứng thú của tôi thì thỏa thuận ấy cần phải rất hấp dẫn mới được, và cần phải có một số đảm bảo nhất định về việc chúng tôi sẽ được bảo vệ và đưa đến nơi an toàn, cũng như phải chắc chắn rằng thái độ cùng cách hành xử của bà đối với tôi và bạn đồng hành của tôi lúc nào cũng phải luôn ôn hòa.”
“Cho ta xem lại bông tuyết điểm đi,” bà già cầu khẩn.
Con chim màu sắc rực rỡ, một chân bị buộc vào sợi xích bạc, vỗ cánh bay ra khỏi khung cửa xe để mở và chăm chú quan sát toàn bộ quá trình bên dưới.
“Con vật tội nghiệp,” Yvaine nói, “bị xích như thế kia. “Sao bà không thả tự do cho nó?”
Nhưng bà già không trả lời cô, cũng chẳng thèm để ý gì đến cô, hoặc Tristran nghĩ thế, và nói, “Ta sẽ chở cậu đến Bức Tường, và ta lấy danh dự cùng tên thật của ta ra mà thề rằng ta sẽ không có hành động nào gây hại đến cậu trong suốt cuộc hành trình.”
“Hoặc dùng hành động gián tiếp hay cách thức nào đó không phải hành động để khiến cho tôi hay bạn đồng hành của tôi phải chịu thương tổn gì.”
“Cậu nói sao thì cứ theo thế.”
Tristran ngẫm nghĩ một hồi. Hiển nhiên anh không tin tưởng bà già. “Tôi muốn bà thề rằng chúng tôi sẽ đến Bức Tường trong cùng bộ dạng, điều kiện và trạng thái hiện tại, và bà sẽ lo việc ăn uống ngủ nghỉ cho chúng tôi trên đường.”
Bà già cười khùng khục, gật đầu. Bà ta lại leo xuống khỏi cái xe moóc, hắng giọng rồi nhổ nước bọt vào trong đám bụi. Bà ta chỉ về phía bãi nước bọt. “Giờ đến lượt cậu,” bà ta nói. Tristran nhổ xuống cạnh đó. Bà ta di bàn chân lên cả hai bãi nước bọt ướt nhoẹt để chúng nhập vào với nhau. “Đấy,” bà ta nói. “Thỏa thuận là thỏa thuận. Đưa bông hoa đây cho ta.”
Vẻ tham lam hau háu lồ lộ trên mặt bà ta đến nỗi Tristran giờ chắc chắn lẽ ra anh đã có thể đạt được một thỏa thuận có lợi hơn, nhưng anh vẫn đưa cho bà già bông hoa của cha anh. Ngay lúc nhận nó từ tay anh, khuôn mặt bà ta bèn dãn ra trong một nụ cười toe móm mém.
“Ái chà chà, ta cho rằng đây chính là món hàng thượng hạng mà con nhóc hư đốn đó đã đem tặng mất gần hai mươi năm trước. Nào, nói cho ta nghe xem nào chàng trai,” mụ hỏi, ngước nhìn Tristran bằng đôi mắt già nua sắc lẻm, “cậu có biết thứ cậu vẫn đeo trên khuyết áo thuộc loại gì không?”
“Nó là một bông hoa. Một bông hoa thủy tinh.”
Bà già bất thình lình cười sằng sặc, khiến Tristran tưởng như bà ta đang bị sặc. “Nó là bùa đóng băng” bà ta nói. “Một vật đầy quyền năng. Nếu ở trong tay đúng người thì một thứ như thế này có thể thực hiện được nhiều điều diệu kỳ và các phép mầu. Xem này.” Bà ta giơ bông tuyết điểm lên quá đầu rồi từ từ hạ nó xuống, để nó quét qua trán Tristran.
Trong một thoáng, anh có một cảm giác đặc biệt không sao tả nổi, như thể một dòng mật đường đen đặc sánh đang chảy trong huyết quản của anh thay cho dòng máu; rồi thế giới quanh anh thay hình đổi dạng. Mọi thứ trở nên vô cùng to lớn và cao chót vót. Giờ chính bà già kia dường như cũng là một mụ khổng lồ, và tầm nhìn của anh nhòe đi, mơ hồ.
Hai bàn tay to tướng hạ xuống và nhẹ nhàng nhấc anh lên. “Nó không phải cái xe moóc lớn nhất trần đời đâu,” Phu nhân Semele nói, giọng bà ta như một dòng chất lỏng chậm rãi, ùng oàng. “Và ta sẽ vẫn giữ vững lời thề, vì cậu sẽ không bị làm hại, cậu cũng sẽ được chăm lo ăn uống ngủ nghỉ suốt hành trình đến Bức Tường.”
Và sau đó, bà ta thả chú chuột sóc vào trong cái túi tạp dề rồi leo lên xe moóc.
“Thế bà định làm gì với tôi?” Yvaine hỏi, nhưng cô không quá ngạc nhiên khi bà già không đáp lời. Cô theo bà ta vào trong buồng xe moóc tối om. Buồng xe chỉ có một ngăn; một cái tủ bày hàng lớn bằng da và gỗ thông nằm dọc theo một bức tường, bên trong chia thành hàng trăm ngăn, và bà già đặt bông hoa tuyết điểm vào một ngăn trong số này, trên một lớp bông mềm. Kê dọc bức tường bên kia là một cái giường nhỏ, phía trên có một ô cửa sổ và một tủ búp phê to.
Phu nhân Semele cúi người lôi từ dưới gầm giường bừa bộn ra một cái chuồng gỗ, rồi bà ta nhấc chú chuột sóc đang chớp chớp mắt ra khỏi túi và đặt vào trong chuồng. Sau đó, bà ta vốc đầy tay một nắm quả hạch, quả mọng và hạt đang đựng trong một cái bát gỗ, cho hết vào bên trong cái chuồng được bà ta móc vào một sợi xích treo giữa xe.
“Xong rồi nhé,” bà ta nói. “Được cho ăn và cho trọ.”
Yvaine tò mò theo dõi toàn bộ quá trình này từ chỗ ngồi trên giường bà già. “Liệu tôi đoán có đúng không” cô lịch sự hỏi, “khi cho rằng, xét từ những bằng chứng có được cho đến thời điểm này (có nghĩa là, từ việc bà đã không nhìn tôi, hoặc nếu có thì ánh mắt bà cũng chỉ lướt lên người tôi rồi thôi, cho đến việc bà không hề nói một lời với tôi, rồi lại biến người bạn đồng hành của tôi thành một con vật bé nhỏ mà chẳng hề động chạm gì đến tôi), bà không hề nhìn thấy hay nghe thấy tôi?”
Mụ phù thủy không đáp lại. Bà ta trèo lên ghế xà ích, ngồi xuống và cầm dây cương lên. Con chim kì lạ nhảy lên cạnh bà ta và kêu ríu rít một hồi, vẻ tò mò.
“Tất nhiên là tao giữ lời chứ, sát sao từng li từng tí” bà già nói, như đang trả lời. “Nó sẽ được biến trở lại ở bãi cỏ tổ chức phiên chợ, vậy nên trước khi đến Bức Tường thì nó đã lấy lại hình dạng thật rồi. Và khi biến nó lại như cũ rồi, tao sẽ trả mày lại về hình người, vì tao vẫn phải tìm một người hầu được việc hơn mày, đồ đàn bà ngu ngốc. Suốt cả ngày tao sẽ chẳng làm được trò trống gì vì bị thằng đó làm vướng chân, cứ đòi chõ mũi vào, soi mói tọc mạch, hỏi này hỏi nọ, mà tao lại còn phải cho nó ăn uống theo đúng thỏa thuận nữa chứ, ngoài quả hạch và hạt ra” Mụ siết chặt thân mình, lắc lư tới lui, “Ối chà, nếu muốn lừa gạt tao thì buổi sáng mày sẽ phải dậy sớm ra phết đấy. Và tao tin chắc bông hoa của thằng thộn đó thậm chí còn xịn hơn nhiều so với bông hoa mày đã làm mất của tao bao nhiêu năm về trước.”
Mụ chậc chậc lưỡi, lắc dây cương, và hai con la bắt đầu nhẹ nhàng thả bước xuôi con đường rừng. Trong lúc mụ phù thủy đánh xe, Yvaine nghỉ ngơi trên cái giường mốc meo của bà ta. Chiếc xe moóc lọc cọc lắc lư chạy xuyên qua rừng. Khi cỗ xe dừng lại, cô sẽ tỉnh và ngồi dậy. Trong lúc mụ phù thủy ngủ, Yvaine ngồi trên nóc xe ngước nhìn lên các vì sao. Thỉnh thoảng, con chim của mụ phù thủy sẽ ngồi cạnh cô, và đến lúc đó, cô sẽ nựng nịu nó, đùa nghịch với nó, vì thật dễ chịu biết bao khi có gì đó ở bên cạnh ý thức rõ sự tồn tại của cô. Nhưng khi có mặt mụ phù thủy, con chim hoàn toàn phớt lờ cô.
Yvaine cũng để tâm đến con chuột sóc, giờ gần như suốt ngày chỉ biết cuộn mình lại, chôn đầu vào giữa hai chân mà ngủ. Khi mụ phù thủy bỏ xe lại để gom củi hay lấy nước, Yvaine lại mở cửa chuồng ra, vỗ về chú chuột sóc, trò chuyện với chú và thỉnh thoảng, cô hát cho chú nghe, mặc dù cô chẳng tài nào nói chắc được liệu có còn chút thần thức nào của Tristran rơi rớt trong chú chuột sóc không, vì chú ta chỉ nhìn cô chăm chăm bằng hai con mắt ngái ngủ bình thản giống y hai giọt mực đen, còn bộ lông của chú ta thì mềm mại hơn cả lông tơ.
Giờ đây khi không còn phải cuốc bộ cả ngày, cô không còn bị đau hông nữa, bàn chân cũng không làm cô quá đau đớn. Cô biết mình sẽ vĩnh viễn phải đi tập tễnh, vì Tristran đâu phải một thầy thuốc chuyên chữa trị gãy xương, mặc dù anh đã cố hết sức. Meggot đã công nhận như vậy.
Vào những dịp hiếm hoi, khi họ tình cờ gặp phải người này người kia, ngôi sao sẽ cố hết sức tránh khỏi tầm nhìn. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc cô đã nhận ra rằng kể cả khi ai đó nói chuyện với cô trong tầm nghe của mụ phù thủy - ai đó, chẳng hạn có lần là một tiều phu, chỉ vào cô và hỏi Phu nhân Semele về cô - mụ phù thủy có vẻ như chẳng bao giờ có thể nhận thấy sự hiện diện của Yvaine, hoặc thậm chí là nghe thấy bất kỳ điều gì dính líu đến sự tồn tại của cô.
Và, với mụ phù thủy, con chim, chú chuột sóc cùng ngôi sao băng, thời gian cứ thế trôi hết tuần này qua tuần khác, trên một con đường xóc nẩy như muốn lộn tùng phèo hết cả lên, trong cỗ xe moóc của mụ phù thủy.