- VI - Đục nước béo cò
Hạ xong Quy Nhơn hôm trước, hôm sau Nhạc nghĩ ngay đến ông thầy học cũ là người văn vô toàn tài, cơ mưu trì trọng, có ý muốn mời ra giúp anh em mình một tay, cho nên sai Trần Quang Diệu đem sính lễ vào Thạch Bi Sơn như ta đã thấy trước là tỏ lòng kính thầy, sau là thỉnh ông Giáo Hiến hạ sơn.
- Đại huynh muốn mời cụ hạ sơn làm quân sư chăng? Nguyễn Lữ hỏi anh.
- Không phải, Nhạc đáp. Quân sư là anh đấy chứ còn ai nữa, nhưng anh có một chủ ý khác.
- Chủ ý đại huynh thế nào?
- Ta có cái kế hoạch định tiến công cả phía trong phía ngoài một lượt, trên bộ cũng như dưới nước. Chiếm được Quy Nhơn thế này, lương thảo, khí giới, binh lực thêm phần hùng hậu, kế chung cả quân nhà sẵn có, thêm số binh triều mới hàng. Tại trong sớm tối nay mai có bọn Tập Đình Lý Tài đầu đảng giặc khách tàu ô, đem thủ hạ đến quy thuận ta, vậy thì sức ta có thể đồng thời tiến công hai mặt được lắm. Tình thể bây giờ, dụng binh cần phải thần tốc thì mới ăn to. Bởi vậy, ta muốn phân binh nhất tề công kích, mau chừng nào hay chừng ấy: ta định cùng tam đệ đánh thốc vào làm sao ra đến Huế cho thật chóng, không thì có kẻ phỗng tay trên mất.
- Hẳn đại huynh lo quân Bắc Hà? Huệ và Lữ cùng hỏi.
- Chứ sao! Nhạc cười và nói. Nếu như quân ta phải giao chiến dây dưa với bọn Nguyễn Cửu Dật, Tôn Thất Nghiễm, ở trước mặt, quanh vùng Quảng Nam, Quảng Nghĩa này, lại còn lo binh triều ở miền trong Phú Yên Gia Định sẽ kéo ra đánh sau lưng ta, thì ta phải day trở đối phó mệt xác và không thu được công to. Mà trong khi ấy chúa Trịnh vẫn là thế thủ với chúa Nguyễn thuở nay, sẽ thừa dịp trai cò mổ nhau mà ngư ông ở giữa thủ lợi, lấy mất Thuận Hóa trước ta còn gì? Hai em cứ nhớ lời ta nói để mà nghiệm xem, sự thể tất đi tới đó nếu ta lẹt đẹt chậm bước thua người. Ta muốn tiến công ra ngoài và vào trong cho nhanh là vì thế.
- Vậy em xin đương mặt trong; Lữ nói. Để cho đại huynh và tam đệ chuyên tâm mặt ngoài nhé!
- Cố nhiên, đó là chủ ý của ta. Song tính em hay thô bạo, khinh địch, một mình sợ không đương nổi một mặt. Chỉ lo ông nhậu rượu vào rồi làm liều làm lĩnh thì oan gia! Vì thế anh muốn có cụ Giáo Hiến giúp chú thì anh mới yên tâm, vì cụ có cơ mưu là lại thận trọng.
- Nhưng cụ đã già quách đi rồi, còn xông pha trận mạc sao được?
- Ấy chết. Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ, ta vẫn nói. Tuổi cụ già chứ mưu trí và võ nghệ cụ vẫn là siêu tuyệt hiện thời đây!
Nhạc nói đoạn giục giã Trần Quang Diệu đi.
Nhưng ông Giáo Hiến từ chối, lấy cớ mình già yếu, trí khôn kém phần sáng suốt, e sự bàn mưu tính kế có chỗ thất thố sai lầm, bất lợi cho đại sự, cho nên ông không đảm nhận cái vinh dự mà anh em Nhạc nghĩ tình thầy trò, để dành cho ông.
Thế ra ông quên mất việc giả thù của ông rồi ư?
Không, mối thù nhà ông, ông vẫn đóng đinh trong trí, có khi nào quên được? Song ông tự nghĩ một việc tử thù lại gồm công nghĩa ở trong tuy mình già yếu không làm nổi, mà đào tạo cho người khác làm hộ cũng thế, miễn được thành công kết quả. Chính thật anh em Nhạc quyết ý khởi binh chống cự chúa Nguyễn, có nhờ ông giáo hóa và khuyên khiến rất nhiều. Có người biết rõ tâm sự ông, nói rằng sở dĩ ông từ khước, chẳng phải vì lẽ già yếu, thật là vì lẽ ông biết rõ tâm cơ và vận số của anh em Tây Sơn: Nhạc tham lam mà đa nghi, Lữ thì vô tài, Huệ thì yêu tướng; công việc họ làm, trong trí ông đã dự đoán, bất quá chỉ sôi nổi chừng đôi ba chục năm rồi tắt, chứ không được thiên mệnh cho dựng nên đại nghiệp trường cừu. Bởi thế, ông không muốn dự vào; nghĩ mình có dự vào cũng chẳng làm sao chữa lại được thiên mệnh, thế thì yên thân ở ẩn, bàng quan cuộc đời còn hơn.
Mấy hôm sau, Diệu từ Thạch Bi Sơn trở về, với bức thư ông Giáo Hiến trả lời, không thể hạ sơn, Nhạc vỗ trán, thở dài:
- Thế thì quân thì quân ta phải chậm ngày giờ trường khu đại tiến ra Huế, tiếc thay!
- Chuyến này tôi đi, không đón được quân sư, nhưng có đem về được ít nhiều tráng sĩ! Diệu nói và giới thiệu bọn Xuân cả thẩy sáu bảy người theo mình.
Nhạc ân cần hỏi han tài nghệ và chí hướng của mỗi người. Đến Xuân, trước khi hỏi, Nhạc nhắm nhía giây lâu rồi vừa cười vừa nói:
- Anh này, trông tướng mạo như đàn bà, họa chăng để ở trong quân làm việc biên chác tiền gạo thì được, chứ ra trận ngửi mùi thuốc súng, không khéo chết ngất.
- Bẩm quan Tiết chế, người có vẻ như đàn bà thế mà một tay giết chết con cọp lớn bằng con trâu đấy!
- Quần thảo với cọp mà giết được nó hay thế nào? Nhạc hỏi lại.
- Thưa, anh ta bắn trúng vào giữa miệng cọp chết không kịp ngáp! Diệu trả lời.
Rồi Diệu đem chuyện mình vừa đến chân núi Bìa, bất ngờ bị cọp vồ ngã, nhờ Xuân bắn ba mũi tên hạ cọp tức tốc mà cứu được mình, kể lại đầu đuôi tỉ mỉ cho anh em Nhạc nghe.
...........(mất nửa trang, bài báo)
Tham tán quân vụ, Đỗ Văn Hoảng khuyên can thong thả:
- Xin tướng quân cho đồn binh ở đây, phải dò xét tình hình quân giặc đã, rồi sẽ sang sông, không khéo ta hấp tấp thì mắc mưu dụ địch của chúng nó đấy.
- Đỗ quân lo xa như thế là phải! Nguyễn Cửu Sách nói.
Nhưng Cửu Thống lắc đau bĩu môi, tỏ ý chê hai người hèn nhát:
- Hừ! Các ông kém lịch duyệt chiến trận có khác! Quân giặc chỉ hư trương thanh thế xằng, giỏi đánh lừa Nguyễn Khắc Tuyên mà chiếm lấy Quy Nhơn, chứ bây giờ ra chỗ chiến trường, gặp người đã bạc đầu với thanh gươm yên ngựa như tôi thì chúng nó phải chết. Ngày mai quân ta cứ sang sông, để tôi phá tan chúng nó cho các ông xem. Nên ta không thừa thắng đánh rốc tới, còn chần chờ dò xét như ý các ông, thì giặc có thế xếp đặt cố thủ, còn gì!
Nói đoạn, Cửu Thống truyền lệnh cho tướng sĩ thu xếp canh tư đêm nay sang sông; tảng sáng qua bờ bên kia sẽ bắc bếp, thổi cơm ăn. Sở dĩ ông có hiệu lệnh gay gắt như thế, vì được tin thám báo chắc chắn rằng quân giặc đã chạy lui hết rồi, từ bờ sông cho đến mười lăm hai chục dặm vào mãi phía trong, tịnh không còn bóng dáng một quân ó nào.
Ông khinh địch làm cho hơn hai nghìn người chết oan uổng.
Binh triều qua sông xong xả, chưa hết canh tư, ai nấy mệt và đói, vội vã để chụm khí giới lại từng đống mò mẫm đi tìm những bờ ruộng, mô đất khô ráo để bắc nồi nấu cơm. Họ được chủ tướng nhồi sọ, tin tưởng quân giặc cách xa mình biệt mù, giờ này không ai có thể làm rộn bữa cơm của mình, thôi thì cứ nấu ăn thong thả ung dung; nhất là cần ăn no nê, mới cứng hai đầu gối mà đi đuổi giặc, có lẽ suốt ngày đến tối mịt mới lại được ăn không chừng.
Tội nghiệp họ rỡ cơm ra, chưa ai kịp và miếng nào, bỗng nghe tứ phía vang dậy pháo nổ trống hồi, nhất là những tiếng la ó mà họ đã quen tai: trước mặt, sau lưng, trên bộ dưới thủy, đồng thời bị giặc ồ ạt công kích bất ngờ, khiến họ hoảng kinh, không còn hồn vía.
- Chết cha rồi! Quân ó!
Họ hốt hoảng bảo nhau thế rồi cuống quýt xô đẩy lẫn nhau, mạnh ai nấy tìm đường chạy trốn, nhưng mà trời còn tối tăm, thần hồn nhát thần tính, làm họ quên cả phương hướng, đến nỗi tai mắt quay về phía nào cũng nghe thấy tiếng giặc hò hét và thấy bóng giặc lù lù tiến đến gần mình như giông, như gió.
Thật sự, chiều hôm trước quân Tây Sơn có rút lui khuất bóng ở Bến Vân rất xa, cốt tỏ ra mình khiếp sợ, để nhử cho Nguyễn Cửu Thống quyết định đem binh qua sông mà đánh. Đêm khuya, trước khi binh triều sang đò. Huệ thân dẫn bọn Diệu, Xuân, Tập Đình, Lý Tài và 1300 thủ hạ, người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, trở lại Bến Vân sắp đặt mai phục. Tập Đình Lý Tài cầm đầu 400 quân đại đạo, gồm cả người Tàu và Annam phục ở khu rừng cách xa bờ sông chừng một dặm. Xuân thì dẫn 400 tay nỏ, chia làm hai đội, trèo lên những cây to ở bờ sông, tên lắp vào nỏ sẵn sàng. Diệu cũng đem 40 người phân ra bốn toán, nằm phục bốn nơi, khít bên mé sông, phận sự là khua chiêng, đánh trống, luân phiên la hét để giúp thanh thế, và đem theo vật liệu hỏa công phòng thiêu hủy thuyền bè bên địch; công dụng trước hết của cách phục binh này là khiến bên địch trong lúc tăm tối mù mờ, tưởng tượng mình bị vây bọc đánh úp cả trên mặt sông, nghĩa là sau lưng. Còn Huệ chỉ giữ cho phần mình một trăm quân cảm tử, lâm thời sẽ ra hiệu nhất tề cử động và tiếp ứng cho cả ba mặt.
Việc mai phục Tây Sơn bố trí như thế, cố nhiên ông Nguyễn Cửu Thống chẳng hay biết tí nào, và cũng không hề ngờ vực. Trong thâm tâm khinh thị của ông chỉ những chắc mẩm quân Tây Sơn đã nếm mùi chua chát một trận đầu tiên, hắn sợ bóng vía ông mà trốn chạy biệt mù sơn dã đâu rồi. Nào dè quân giặc đón rước ông bằng sắt máu ở ngay bờ sông!
Để cho binh triều lên bờ thong thả rồi nấu ăn dở dang, bây giờ Huệ mới nổi pháp làm hiệu, tức thời ba bể bốn bên phục binh nổi dậy với trống vang pháo nổ liên thinh, tiếng người hò hét như sấm, thầy trò Cửu Thống hồn vía lên mây, sợ hãi lúng túng, không biết xoay sở thế nào, khác hơn là chạy trốn thục thân. Tình hình rối loạn không sao tả được.
Nhưng bảo họ chạy đâu? Sau lưng là trường giang, trước mắt thì ào ào những quân giặc múa đại đao sáng nhoáng, cứ việc đấm tả chém hữu hết sức hùng hổ, những tiếng reo hò “Tả lơ! Tả lơ!” của bọn thù hạ Tập Đình Lý Tài làm cho binh triều nghe danh khiếp đảm. Họ dẫm đạp chen lấn nhau, chạy cả xuống thuyền còn đậu bên bờ.
Khốn nạn, nhiều thuyền chìm nghỉm, vì số người nhảy bừa xuống đông quá. Quân sĩ ngoi ngóp rồi hụt hơi chết đuối, hoặc bám vào thuyền khác, làm phải chìm lây.
Những thuyền mở đôi chèo ra khỏi bờ, thì bị cánh phục binh của Diệu núp ở bụi lau bãi cỏ gần đấy, ném tung mồi lửa đốt cháy tưng bừng...
Thuyền nào chạy được xa tầm mồi lửa, thì bị mấy trăm tay nỏ của Xuân phục trên cây, bắn theo như mưa vãi. Thứ nỏ lợi hại gớm ghê, Xuân chế theo kiểu riêng của dân mọi Thủy xá quốc và Hỏa xá quốc, đầu mũi tên có thuốc độc, mà mỗi lần khẽ động vào cái lấy, đồng thời ba mũi tên vụt đi như biến, lại tỏa ra như chia ba; hễ một vật đã bị ngắm đích không trúng mũi này cũng trúng mũi kia, có khi trúng phắp cả hai, như chú cọp núi Bia đã cho chúng ta thấy rõ hiệu lực.
Những mũi tên này đuổi theo vật chết binh triều ở trên thuyền hoặc xô ngã xuống nước, tổn hại thêm một mớ khá to, không kém con số với đại đạo trên bờ.
Chính Nguyễn Cửu Thống bị một mũi tên độc trúng vào bả vai hại chết, còn hai tướng Sùng và Hoàng thì trút linh hồn ngay ở dưới thuyền. Các cụ lớn ta đã phải bỏ cả chiến mã ở lại trên bờ, hấp tấp chạy xuống thuyền để thoát thân, nhưng còn trương hoàng với lính áo nẹp đỏ che lọng và xách điếu tráp theo hầu, thành ra làm bia cho quân địch nhắm rõ mà bắn như mưa. Trừ ra Cửu Sách khôn hồn, nằm dán mình vào bên mạn thuyền, nên được vô sự.
Sáng ra, Tây binh nhận thấy quan quân cụt đầu lòi ruột nằm ngổn ngang trên bờ, chết đuối lềnh bềnh dưới nước nhiều quá, không biết bao nhiêu mà đếm, nhất là thấy bốn viên đại tướng của quan quân đã chết hai và nghe nói trọng thương một, cho nên để mặc tàn quân chạy trốn, không buồn đuổi theo nữa.
Tây binh với được hai cỗ súng thần công và vô số đạn dược, lương thực.
Huệ thích chí quá, lấy ngay con chiến mã lông trắng như tuyết của Cửu Thống bỏ lại, thưởng cho Xuân và nói:
- Quân ta đại thắng trận này là công lao chung cả anh em, nhưng mà sát hại được ba viên chủ tướng bên địch, thật là ở tài bắn của ngươi, vậy ta trộm lệnh quan Tiết chế, tặng người con chiến mã này đó!
Huệ lại nói tiếp, khôi hài:
- Chắc là hồi đó bà mụ ham đánh tứ sắc mà nặn nhầm, không thì bà phải nặn Xuân ra con gái kia đấy!...
Mọi người cùng cười ồ.
Xuân cúi đầu tạ ơn cho ngựa nhưng cốt để dấu vừng hồng mới mọc ở hai gò má.
Giữa khi ấy Nhạc đến Bến Vân. Thấy quân nhà thắng trận, theo như mưu lược mình đã định, Nhạc niềm nở ngợi khen chư tướng, rồi day lại nói với Huệ.
- Bây giờ anh em ta bắc nam hai ngả mỗi người đi một đàng nghe! Chú đánh trở ra, anh đánh trở vào...
- Đại huynh muốn lấy Phú Yên chứ gì? Huệ hỏi anh.
- Chính thế! Nhạc cười và đáp. Có lẽ phải vào tới Khánh Hòa Bình Thuận mới được.
- Quân ta nên thừa thắng, dẫn cả binh lực ở đây, hãy đánh thốc ra Quảng Nam chẳng hơn ư? Đã vội gì lo đến mạn trong? Trần Quang Diệu nói:
Huệ cũng nghĩ thế. Nhưng Nhạc lắc đầu:
- Em nên biết việc dùng binh phải lo toan kín đáo cả mọi mặt, mới nắm được cái cớ tất thắng ở phần mình. Binh lực chúa Nguyễn ở trong Gia Định to tát đáng sợ, nếu ta không chặn đường tiếp viện ấy để họ có thể kéo ra đánh thúc vào sau lưng ta thì nguy. Bởi vậy, anh quyết định chia binh làm hai: công việc tiến đánh Quảng Nam ủy thác cho em, ví bằng tiến được càng hay, không thì cố giữ thế thủ, đợi anh; còn anh thì mang bọn Lữ, Khê, và Thung vào chiếm lấy Khánh Hòa, Bình Thuận, để chận đường quân Nguyễn trong Gia Định không cho chúng ra cứu viện, thì ngoài này chúng ta mới dễ đắc chí.
Nói liền làm liền. Trong khi Huệ cầm chắc sự lây lất với quân Tôn Thất Nguyễn ở địa đầu Quảng Nam, Nhạc dẫn binh vào đánh mạn trong.
Không đầy ba tháng toàn cõi Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đều thuộc về
.... (mất một trang báo)
Hôm ấy, Tĩnh đô vương đang ngồi với Đặng Phi, uống trà Tàu hảo hạng của một thuyền buôn khách vừa đem từ bên Tàu sang biếu. Nhận được mật tấu của Bùi Thế Đạt đưa đến, Tĩnh đô vương xem đến đâu nét mặt thay đổi đến đấy, mừng quá, hắt tay đổ vỡ cả bộ khay chén bằng ngọc và truyền bảo thị vệ tíu tít:
- Đi gọi quận Việp!... Đi gọi quận Việp!. Đánh trống... đánh trống... họp phủ liêu, mau lên.
Đặng Phi ngẩn người, tiếc bộ chén ngọc đã vỡ tan tành:
- Có việc gì mà vương thượng làm như người phát điên thế?
- Một tin đáng mừng ĩ... Một tin đáng mừng!... Trịnh Sâm múa tay và nói, tỏ vẻ mừng rỡ cực điểm.
- Gớm chết! Đặng Phi nói giọng nũng nịu. Ví rằng có hai tin đáng mừng như thế, thì không khéo vương thượng đốt cả vương phủ, giết cả vợ con chắc!... Trông bộ chén quý báu đã tan ra từng mảnh kia kìa!
Nàng nói rồi, làm bộ giận dỗi. Tĩnh đô vương phải vuốt ve, dỗ dành và nói:
- Ồ! Mấy cái chén ngọc là đồ bỏ; ái phi sẽ thấy trong tờ mật tấu này đem lại cho ta những của quý báu gấp nghìn lần, muôn lần.
- Nhưng mà tin gì thế Đặng Phi nhõng nhẽo gạn hỏi. Vương thượng phải nói cho thiếp nghe.
- Tin xứ đàng trong có nội loạn, ta phải nhân dịp này đánh lấy Thuận Hóa, để mở mang bờ cõi rộng thêm. Thuận Hóa quý hơn chén ngọc ức vạn lần, ái phi có biết không?
- Vâng, đất quý hơn ngọc; nhưng vương thượng định bỏ mẹ con tôi ở nhà để đem quân đi thân chinh đấy chăng? Đặng phi gục mặt trên vai chúa Trịnh vừa nói vừa giả đò khóc tấm tức.
- Đã có quận Việp, chứ ta rời xa ái phi sao được! Thôi, ái phi nín đi!
Tĩnh đô vương an ủi Đặng phi rồi đi ra triều đường, bàn việc chinh nam.
Việc xuất binh nhất định trong nửa buổi họp.
Lão tướng Hoàng Ngũ Phúc, tức Việp quận công, phụng mạng chinh nam, mùa đông năm ấy tiến binh qua Linh Giang, vào bờ cõi chúa Nguyễn, nghênh ngang như đi vào một chỗ không người. Vì tướng tài binh lực chúa Nguyễn lúc này không bằng mấy đời trước, còn lại được chút nào gọi là tinh binh mãnh tướng, đều rút vào phía trong cự chiến Tây Sơn, không phòng bị gì mặt bắc, bởi không ngờ đến sự quân Trịnh xâm lấn.
Ngũ phúc phao ngôn rằng vâng mệnh chúa Trịnh, đem quân Bắc Hà vào trừ gian dẹp loạn hộ nhà Nguyễn, chứ không có ý thèm muốn đất đai gì cà. Vào đến Quảng Trị, Bắc quân mới gặp mấy đạo Nam quân chống cự, nhưng để giặc giã vào sâu quá rồi, còn chống cự làm sao được nữa? Vả lại, sự thật Nam quân hồi ấy, không có mặt nào địch lại Ngũ Phúc, một tay đại tướng có đủ cả trí mưu và dũng lược.
Định Vương hiểu tình thế nguy, cùng mấy vị triều thần có lòng trung nghĩa, mật mưu bắt trói Trương Phúc Loan đem ra nộp Ngũ Phúc để cho Ngũ Phúc hết cớ tiến binh. Bản thân Phúc Loan cũng sai người đem một nghìn lạng vàng cùng nhiều đồ châu báu khác, đút lót Ngũ Phúc, mong được bao dung tha chết cho mình. Ngũ Phúc thu nhận Phúc Loan hối lộ nhưng cứ việc trường khu đại tiến vào Thuận Hóa.
Biết thế không còn trông cây ở cảm tình hay võ lực gì được. Định vương đành bỏ đô thành, dắt díu cung quyến chạy vào Quảng Nam. Nhưng ở đây có quân Tây Sơn đang tung hoành, chúa đã được cọp tha, lại sợ ma bắt, phải do đường thủy trốn vào Gia Định.
Bắc quân tiến vào, hạ thành Phú Xuân một cách dề dàng, mặc dầu có hai đạo binh thủy lục bên Nguyễn, do Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính án ngữ ở phía Quảng Điền.
Thành trì Phú Xuân của họ Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng xây dựng hơn hai trăm năm, bây giờ về tay quân Trịnh chiếm giữ.
Nhưng bản tâm chúa Trịnh là muốn thừa thời đoạt hết thổ địa họ Nguyễn cho tới Gia Định, để thống nhất bản đồ nước Nam, chứ không phải đến Phú Xuân thì thôi. Bởi vậy, tháng tư năm sau, Hoàng Ngũ Phúc lại tiến binh qua đèo Hải Vân, vào Quảng Nam.
Đến đây, quân Trịnh gặp quân Tây Sơn lấy danh nghĩa phò tá Hoàng tôn Dương để chống lại.
Nguyên mấy tháng trước, Đinh vương từ giã Quảng Nam chạy vào Gia Định, để người cháu là Nguyễn Phúc Dương đóng giữ ở huyện Hòa Vang, lo việc chống cự với quân Tây Sơn. Kế đó Tây Sơn phá tan quân Nguyễn, lấy được Quảng Nam, vừa gặp lúc quân Trịnh đang từ Phú Xuân kéo vào, Nhạc bèn lập kế bắt được Hoàng tôn Dương, tôn làm minh chủ, để dựa vào danh nghĩa ấy chống nhau với quân Trịnh.
Hai quân đại chiến ở làng Cẩm Sa, thuộc huyện Hòa Vang. Bọn khách Tập Đình Lý Tài làm tiên phong, quân sĩ toàn là người Quảng đông và dân mọi cao lớn, ai nấy cởi trần, bịt khăn đỏ, tay khiên tay phạng, lăn sả vào trận mà hò hét đâm chém cực kỳ táo tợn, tiền đội của Ngũ Phúc cự địch không nổi, bỏ chạy tứ tán.
Ngũ Phúc liền thét Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể đem quân thiết kỵ xông bừa ra trận, bộ binh nối gót tràn tới. Bọn Tập Đình Lý Tài thua chạy.
Trận này quân Tây Sơn tổn hại nhiều, Nhạc phải lui binh về giữ Biến Vân rồi đưa Hoàng Tôn Dương về Quy Nhơn.
Quân Trịnh thắng trận mà không dám đuổi theo, vì bị toán lính thiện xạ của Xuân đi đoạn hậu, quay lại bắn tên độc như mưa, cứu được tiền quân mình rút yên ổn. Quang Diệu nắm lấy tay Xuân, vồn vã ngợi khen mãi:
- Tài bắn của em năm xưa đã cứu tôi thoát khỏi con cọp ở núi Bia; phen này lại cứu cả đại quân nhà ta thoát khỏi hàng muôn con cọp Bắc Hà!