- VIII - Nguyễn Huệ chủ hôn
Tấn kịch tôn vương trá hàng đã diễn xong, chiều hôm sau ở vạn thuyền Thi lại tấp nập những ghe mành sửa soạn kéo buồm ra khơi, sau khi quan chức thủy quân Tây Sơn đã khám xét.
Trên bờ còn nhiều hành khách và đồ đạc hòm xiểng định xếp xuống ghe mà chưa xuống được; vì ghe nào cũng đầy cả rồi. Phần nhiều là thường dân muốn tránh nạn. Họ thấy quân Tây Sơn rút cả về Quy Nhơn, sợ chỗ này sẽ thành chiến địa dữ dội, cho nên muốn tìm đường tránh ra miền ngoài, hoặc vào Gia Định.
Quân Tây Sơn phòng xa vấn đề lương thực, cũng muốn bớt đi một ít miệng ăn, để mặc đàn bà trẻ con cùng những người già yếu tự tiện di cư, không hề ngăn cản duy hạng trai tráng có thể sung quân thì giữ lại. Hạng ấy đi trốn, nếu bị phát giác là xử chém ngay. Lắm kẻ phải trá hình cải trang đàn bà cho được thoát thân.
Bọn ghe mành tham lợi, thường có cách che chở giấu giếm hộ người ta đào thoát. Sự khám xét của thủy quân Tây Sơn tuy nghiêm mà cũng không xuể.
Chiều hôm ấy, mặt trời đã lặn, một người trai trẻ, khăn áo lượt ra dáng học trò, đi thơ thẩn trên bờ, thăm hỏi hết thuyền nọ đến thuyền kia, dòm ngó qua tốp người này sang tốp người khác, trông như có vẻ băn khoăn, ngơ ngác muốn tìm kiếm ai hay dò dẫm một sự gì vậy.
Đưa mắt ra hiệu, mấy người người lái mành thầm thì bảo nhau:
- Thám tử của quân ó đi dò la người trốn chứ gì? Một bác lái nói.
Các ngài còn nhớ quân ó là quân Tây Sơn.
- Không phải! Bác lái kia trả lời rắn rỏi một tỏ ra mình thạo đời tinh mắt hơn. Không phải! Anh chàng này chắc là một người muốn đáp thuyền đi trốn đây. Quần áo trông chững chạc lắm, ai vớ được mồi này hẳn bở,... Để tôi ướm hởi thử xem.
Nói đoạn, bác lân la đến cạnh thiếu niên, khẽ nói bên tai:
- Này, cậu nho muốn vào Gia Định hay ra đàng ngoài?
Thiếu niên ngẩng người, làm thinh.
Bác lái nói tiếp, lần này lại nói nhỏ hơn:
- Cậu cho hai lượng thôi, tôi cam đoan đưa cậu đi đen nơi, về đến chôn...
Bác nói thế nào? Thiếu niên sửng sốt hỏi.
- Vâng, tôi xin hai lượng là giá rẻ lắm đấy... Nếu cậu đi những mành kia, không khi nào chúng nói dám mạo hiểm với giá như thế... Nói riêng với cậu: trong hai lượng tôi cũng phải lễ thầy đội thủy quân hết một thì mới trôi việc chứ nào tôi có được ăn cả đâu!
Thiếu niên lẳng lặng, khẽ vạch tà áo cho bác lái ta thấy miếng tín bài sơn son đeo giấu bên sườn, trên có khắc bốn năm chữ gì không biết; làm bác tái mặt hoảng hồn, chắp tay vái lấy vái để:
- Trăm lạy quan lớn, thật là con dại dột hữu nhơn vô châu xin quan lớn tha thứ.
Người được tôn là quan lớn vội vàng đưa tay bịt miệng bác lái và nói cằn rằn nho nhỏ, có ý trách móc:
- Im mồm đi! Ai khiến nhà anh gọi tôi là quan lớn bé ở giữa chỗ này.
- Bẩm quan! Bác lái nói nhỏ và kiếm chuyện tâng công. Nếu quan muốn tìm bắt tụi đi trốn, con xin điểm chỉ... bẩm ghe nào cũng có một vài mống, duy có ghe con là không.
Thiếu niên cau mặt nói:
- Việc ấy mặc kệ nhà các anh không bận gì đến tôi... Đằng này chỉ cốt đi tìm người, chứ không phải đi bắt ai hết.
- Quan đi tìm người?
- Ừ, bà lão ngoài sáu mươi với người con, trai tráng độ mười tám đôi mươi, mặt mũi đĩnh ngộ... Từ trưa đến giờ anh có biết hai mẹ con người ấy có đáp thuyền không, bất cứ thuyền ra hay vô, và đáp thuyền nào, mách cho tôi biết, tôi thưởng tiền cho...
- Bẩm, quan nói người con bà lão là con trai, mười tám đôi mươi?
- Phải, anh ta vạm vỡ và đẹp người.
- Ồ, nếu thế thì con tướng quan tìm đến sang năm cùng không ra!...
- Tại sao vậy? Thiếu niên hỏi dồn, tỏ ra nôn nao, sốt ruột.
- Thưa, tại họ sợ chết, có dám ra mặt đâu! Bác lái đáp. Quan xuống mà xem, cả bấy nhiêu chiếc ghe, hành khách toàn là ông già trẻ nít, không thì con gái đàn bà, chứ không có lấy một người trai tráng nào dám đường hoàng xuất đầu lộ diện... Vì quân lệnh của các quan chúa trại Tây Sơn nghiêm lắm, họ chả dám chường mặt đáp thuyền, bị bắt thì chết... Có chăng, họ đã cải hình biến tướng, biết ai mà tìm?... Thật quả từ sáng cho đến bây giờ, con sục sạo chạy đi chạy lại, đủ hết mọi ghe, không thấy bà lão với một cậu con trai đáp ghe nào hết...
- Quái lạ! Hay là hai mẹ con đáp một chiếc ghe đã đi trước rồi?
- Không, nội nhật hôm nay chưa có chiếc nào dời bến đâu! Hay quan thử tìm trong đám hành khách con bỏ rơi kia xem.
- À, tôi đã tìm rồi, không có.
Thiếu niên nói rồi thở dài, trong trí vẩn vơ lưỡng lự, không biết bây giờ mình phải lui tới thế nào, tìm đâu cho thấy người mình định tìm? Người ấy nhất định phải đi đường thủy, chứ không thế nào đi đường bộ. Nhất là trong thư đề lại từ biệt, có nói đáp thuyền!
Bỗng sau lưng có tiếng người gọi déo dắt:
- Tôi đây! Anh Diệu nè!
Thiếu niên có dáng như một thư sinh mà ban đầu bác lái mành gọi là cậu, sau bẩm quan lớn, quan bé, không phải ai lạ, chính là Trần Quang Diệu một trong hàng kiện tướng Tây Sơn, chúng ta đã biết. Bốn chữ trên miếng tín bài Diệu để giấu bên trong áo, chỉ hé qua cho bác lái ta trông thấy, từ phải thay đối lễ mạo, ấy là bốn chữ "Tây Sơn đốc chiến" dấu hiệu của mỗi viên bộ tướng ông mang trong mình, theo kỷ luật riêng.
Tiếng gọi đích danh làm cho bác lái và Diệu cùng day mặt lại và cùng ngạc nhiên, có điều mỗi đằng ý nghĩ một khác.
Bác lái cung kính vái chào rồi lảng đi, miệng lẩm bẩm nói lén:
- Ngỡ là gì?... Hẹn hò trai gái!...
Diệu chủ tâm đi tìm người bạn trai, khi ngoảnh mặt lại thấy là người con gái mặc y phục trắng, đầu trùm khăn vuông, nhanh nhẹn tiến đến chỗ mình đứng, trong trí lấy làm sửng sốt lạ lùng, suy nghĩ hay là cô ả nào đây nhận lầm chăng. Nhưng mà lầm thế nào được, cô gọi chính tên cái của mình kia mà?
Người con gái tiến đến bên, kéo khăn vuông trùm đầu xuống, nhìn Diệu mà cười, không nói năng gì, hình như muốn thử xem người đứng trước mặt có nhận ra mình không?
Diệu thoạt trông, tự nhiên kêu rú lên, vừa lạ vừa mừng:
- Trời ơi! Xuân đấy hử! Thế mà báo hại người ta thơ thẩn người ta đi tìm nãy giờ.
- Phải, chính nó! Thoạt tiên anh ngẩn người, không nhận ra tôi phải không?
Nàng đáp và cười rũ. Chẳng cần giới thiệu, bạn đọc thừa đoán nàng tức là Bùi Thị Xuân, người giả trang nam tử đi học ông giáo Hiến ở núi Bia, rồi theo Trần Quang Diệu xuống giúp Tây Sơn, làm tướng đạo quân cung nỏ bấy lâu, nay trở lại nguyên hình.
- Khéo làm trò khỉ! Diệu nhăn mặt trả lời, trong trí vẫn đinh ninh Xuân là bạn trai với mình. Sao tự nhiên chú phải cải trang đàn bà, ai thoạt trông chẳng phải bỡ ngỡ? Lúc đầu, tôi không nhận ra thật.
- Anh không hiểu vì lẽ gì ư?
- Vì lẽ gì? Diệu hỏi lại.
- Anh còn lạ gì tướng lệnh Tây Sơn đang săn bắt hạng tráng đinh ở lại sung quân, không cho xuất cảnh. Tôi không cải trang thế này thì đi lọt ra bể làm sao được?
- À phải, tôi quên!... Nhưng mà bỗng dưng chú đùng đùng bỏ việc quân mà đi, không nói lý do, không đến từ biệt, là nghĩa thế nào chứ?
Diệu nói vùng vằng có ý trách móc một cách nhẹ nhàng thân mật; Xuân đứng lặng giây lát, và thở dài nói:
- Đó cũng vì một lẽ riêng, chỉ có tôi biết, không tiện nói ra, anh ạ!
- Hừ, lẽ riêng?.., Lẽ riêng thế nào?... Không nói với ai, chứ không nói với tôi là người đã mang ơn chú cứu mạng...
- Ô! Cần gì phải nhắc mãi câu chuyện nhỏ nhặt ấy! Xuân ngắt lời Diệu.
- Sao lại không nhắc? Diệu cằn nhằn đáp. Nhắc lại để tỏ ra tôi với chú là bạn sinh tử quan hệ; nhất là chúng ta đã kết nghĩa anh em, lẽ riêng của chú không cho ai biết đã đành, há không nói thật với tôi được ư?
Xuân tần ngần chưa kịp nói gì, Diệu đã nói tiếp:
- Thật thế, chú đùng đùng bỏ việc quân mà đi thế này, làm cho tôi khó chịu đáo để; vì tôi đã đưa chú ở núi Bia xuống, tôi đã tiến cử chú... Người ta đang trọng dựng mình thế, sao tự dưng lại bỏ đi?... Sự đi hay ở của chú tôi đã chịu phần trách nhiệm không phải là nhỏ. Chú nên biết giữa lúc binh đao biển loạn này, người ta có thể dùng đại quyền trong tay, sai một vài toán lính đi đuổi theo lùng bắt chú, buộc cho vào tội đi theo địch quốc thì còn ra thế nào?...
- Anh nói chướng quá! Xuân cười gằn và nói, Tây Sơn đã hàng phục cả Trịnh lẫn Nguyễn, vậy thì còn địch quốc nào mà buộc tôi vào tội đi theo địch quốc được chứ?
Diệu vỗ vai bạn, trả lời:
- Ấy là tôi nói ví dụ mà nghe. Vả lại cũng chính là sự thật... Chẳng qua chú còn trẻ tuổi, không hiểu hết việc đời. Một khi người ta muốn gia tội cho nhau, có thiếu gì cách?... Trưa hôm nay, lúc được tin báo và thấy thư chú để lại từ biệt, ông Tiết chế định dùng quân lệnh cho đi nã tróc chú; nhưng tôi nhờ ông Huệ nói giùm, để tôi xin lĩnh trách nhiệm đi tìm chú đem chú trở về, không thì cũng được biết rõ chú bỏ đi tại vì lẽ chính đáng gì? Tôi hộc tốc đến trại chú ở, thấy quạnh hiu vắng vẻ, trước sau nào thấy bóng người, thì ra chú đã gói hành lý và đem bà lão mẫu lên đường từ hồi nào rồi... Tôi liệu định rằng chú muốn đi đâu, ra đàng ngoài hay vào đàng trong, đều bất tiện đi bộ, tất là đi đường thủy, cho nên tôi mò đến vạn thuyền này... May quá, gặp chú. Bây giờ thì tôi không để chú đi...
- Anh muốn bắt em chứ gì? Đây em xin vui lòng chịu trói! Xuân nói và chụm hai cổ tay đưa trước mặt Diệu, cử chỉ ấy như thay cả câu nói: Đây, anh định bắt em giải về cho Tây Sơn thì trói em đi.
Diệu trừng mắt:
- Không, tôi không bắt chú! Cơ khổ, sao chú lại tưởng cho tôi cái ý nghĩ quái gở như thế?... Cũng không khi nào tôi để cho ai bắt được chú nữa kia!
- Thế thì anh muốn cản trở, không cho tôi đi chứ gì?
- Cũng không! Ai có chí nấy, cản trở nhau làm sao được? Có điều anh em ta một ngày là nghĩa, tôi không muốn để chú đi một cách vô tình...
Diệu nói và trông ra bến hỏi Xuân.
- Hắn chú đáp thuyền rồi?
- Vâng, từ lúc này! Xuân đáp.
- Chiếc nào đâu?
- Anh cứ đem từ tay phải qua tay trái, chiếc đỗ hàng thứ năm, Xuân trỏ tay ra vạn thuyền và nói.
- Bà cụ ta cũng xuống thuyền rồi, hay còn đi đâu?
Diệu hỏi “bà cụ ta”, tức là trỏ vào mụ Tri, người quản gia trung tín của nhà họ Bùi mà Xuân vẫn nhận là mẹ trong mấy năm nay. Diệu chưa biết rõ tung tích, yên trí mụ Tri là thân mẫu của bạn thật.
Xuân nhanh nhảu đáp:
- Má tôi vẫn ngồi ôm gói hành lý dưới thuyền nãy giờ, chứ có đi đâu. Chính tôi, từ hồi xuống thuyền cũng ngồi giữ chỗ, không muốn thò chân lên bờ. Nhưng ban này dòm qua cửa sổ, trông thấy bóng anh đi lại tìm kiếm, thăm hỏi, tôi nghĩ không đành lòng ẩn mặt, cho nên mới bước lên đây.
- Thế à? Nếu không thì chú đi thẳng, không đoái hoài đến người bạn kết nghĩa kia đấy! Diệu vừa nói vừa cười. Nhưng mà thôi, không nói chuyện phiếm nữa. Tôi hỏi thuyền chú bao giờ ra khơi?
- Khuya nay họ mới nhổ neo, vì còn đợi nước; Xuân nói.
- Vậy thì bây giờ chú dẫn tôi xuống thuyền, mau lên!
- Anh xuống làm gì?
- Tôi đã nói không để chú đi một cách vô tình... Giờ ta xuống thuyền để tôi mời bà cụ, và xin phép cụ cho chú ở chơi trên bờ với tôi một chốc... Anh em ta dắt nhau vào quán rượu trong chợ kia, cùng uống một vài chén làm vui, nhân tiện nói chuyện. Nếu những lời tôi sẽ nói có thể lọt tai chú, thì chén rượu ấy để lưu chú ở lại; bằng không thì nó là chén rượu anh em từ biệt, để tiễn chú đi.
Nói đoạn, Diệu lôi kéo Xuân chạy xuống thuyền, năn nỉ cho bằng được mụ Tri đem cả hành lý lên bờ, rồi ba người cùng vào trong chợ gần đấy, tìm một quán rượu vắng vẻ làm nơi ăn uống, đàm đạo.
Trời đã xẩm tối.
Diệu gọi chủ quán lấy rượu và dọn riêng ở một chái nhà, cách biệt tai mắt khách hàng. Mụ Tri từ chối còn no, lảng đi chuyện trò vói vợ con chủ quán, để mặc hai người đối diện đàm tâm.
Nhà hàng lấy cá bể còn tươi vừa ở chài lưới đem lên hồi chiều, xào nấu mấy món gia vị để bán cho khách. Họ bảo nhau bọn này chắc là một gia đình khá giả, muốn tìm đường tị nạn, nhưng ghe nào cũng chật chỗ cả rồi; nhất là vì anh chồng còn trẻ thế kia mà định đi công nhiên, cho nên không tìm được ghe dám chứa. Cùng như bác lái kia lúc ban đầu, chủ quán định bụng chốc nữa sẽ thừa cơ dò la tình ý rồi bày mưu mách mối cho khách để kiếm tiền. Người vợ chủ quán muốn tỏ ra mình cao đoán hơn, nói nhỏ với chồng và mấy người đang ngồi gật gù đánh chén ở đầu ghế rằng: cô thiếu nữ với bà lão mới thật là khách sắp sửa đáp thuyền, còn anh chàng nọ xem ý như là nhân tình, đi theo để tình tự tiễn biệt đấy thôi. Mụ kết luận bên tai chồng:
- Tôi đoán thế không sai đâu, mình ạ! Chứ thời buổi này ai còn lạ gì... không lẽ một anh trai tráng, thế kia lại toan sờ sờ đáp thuyền ra đi, thì có mà khốn! Nhưng xem chừng hồ bao anh chàng no lắm, ba nó cứ việc dọn mâm rượu cho thật phủ phê vào, tha hồ tính tiền.
Mấy ông khách đầu ghế kiếm lời phỉnh khéo mụ quán, mong đến nậm rượu sau được mụ đong cho đầy đặn hơn:
- Chị ấy có mắt tinh đời thật, chúng tôi xin chịu, Phải, anh cứ việc thịnh soạn cho người ta mà tính tiền. Món bở này không đào thì uổng mất...
Nhưng chúng nhân đoán sai tán nhảm tất cả. Diệu với Xuân vào quán, không phải trai gái tìm chỗ tự tình, tiễn biệt, mà chỉ cốt lấy nơi nói chuyện anh hùng, bàn việc thời thế.
Hai người ngồi đối diện trên bục, bên cạnh hai tô trà Huế nóng sốt mà mụ chủ quán mới bưng vô cho khách giải khát trong khi chờ đợi làm cơm. Diệu lấy trong bọc ra gói thuốc lá Cẩm lệ và giấy quyến, mời bạn hút, nói rằng độ họ đánh trận với quân Trịnh ở vùng Cam sa, đã thừa dịp mua được ít bó thuốc lá giai phẩm này đem về làm kỷ niệm, gặp bạn chí thân mới đem ra thết đãi.
Xuân ngượng nghịu chối từ, lấy cớ mình khản cổ.
Trước khi bước vào chính đề, Diệu ngắt nhỏ vào cánh tay Xuân, đưa mắt ra ngoài chõng hàng và nói:
- Chú xem mấy thằng cha ngồi đầu chỗ ở ngoài kia chỉ trỏ xầm xì với nhau, chuyện gì thế, rồi đố chú biết?
- Thường tình họ thấy khách lạ thì dòm dỏ chứ gì? Xuân đáp.
- Không phải! Họ xầm xì ra điều anh em chúng ta là cặp trai gái tự tình với nhau đấy, vì chú cải trang thiếu nữ trông giống hệt và xinh đẹp lắm cơ. Mắt họ gà mờ, có biết đâu trong bộ tịch yếm khăn này, kỳ thật là một thiếu niên tráng sĩ...
Xuân cười thầm và nghĩ riêng trong trí:
- “Tội nghiệp nhỉ! Họ dễ thường không phải gà mờ, chính anh gà mờ thì có. Người con gái ngồi trước mắt sờ sờ mà vẫn không biết!” Xuân nghĩ bụng thế rồi thản nhiên nói:
- Họ nói gì mặc họ! Anh là trượng phu tráng sĩ mà còn bận lòng về mấy chuyện tiểu tiết thế ư?... Mà dù chúng ta chính thật trai gái ngồi nói chuyện với nhau đây thì có làm sao, anh nhỉ?
- Ấy chết! Chú này nghĩ lẩn thẩn... Ví dụ trong bọn kia có người nhìn nhận ra tung tích tôi là Trần Quang Diệu, rồi họ ngồi lê đôi mách, đồn nhau rằng hôm ấy, hôm nọ thấy Trần Quang Diệu đem gái vào một quán cơm chuyện trò chú thử tính xem còn gì là danh tiếng của tôi chứ?
Xuân biến sắc, đứng dậy:
- Nếu vậy, thì để tôi đi cho anh khỏi mang tiếng; tôi còn ngồi đây làm gì?
- Không, không, với chú lại là chuyện khác! Diệu cười nói và kéo tay bạn ngồi xuống. Tôi mất công đi tìm mãi mới bắt được chú, bây giờ phải hỏi cho ra lẽ, tại sao đang tự nhiên chú bỏ Tây Sơn mà đi? Nếu như cái lý chú phải thì tôi đi theo chú, vì chúng ta là bạn kết nghĩa, sống chết đi ở có nhau, ví bằng cái lý của tôi phải, thì tôi kéo áo chú trở về, chứ không khi nào tôi để chú đi một mình đâu!
Lúc ấy, chủ quán bưng mâm rượu vào, chào mời nịnh nọt rồi lui ra. Diệu toan đứng lên, đi mời mụ Tri vào ăn một thể, nhưng Xuân can lại:
- Thôi, tính bà cụ nhà tôi không chịu ngồi ăn chung thế đâu. Anh cứ để mặc bà tự do.
Bên ngoài, đối với Tây Sơn, mụ Tri đóng vai làm mẹ Xuân, nhưng bề trong vẫn giữ lễ chủ bộc, cho nên mụ đã kiếm cớ đi lảng vào trong xóm để tránh mặt.
Quả thật, Diệu với Xuân không cốt gì ăn uống; sau khi nhấp môi vài chén rượu gọi là, Diệu trịnh trọng nói:
- Chú Xuân ạ! Con người ta ở đời, có chí khí và bản lĩnh như hạng chú với tôi, nếu không muốn lập công danh sự nghiệp gì thì khỏi phải nói; ta cứ tìm lấy một chỗ ở ẩn, tự lực cày ruộng mà ăn, trồng vườn mà sống là xong. Trái lại, nếu ta có chí lập công danh sự nghiệp với đời, thì cuộc cách mạng của Tây Sơn thật đảng cho ta đem tài năng ra theo đuổi, giúp đỡ, cộng sự. Vì thế, tôi mới đem chú từ Thạch Bi Sơn xuống mà tiễn dẫn nhập đoàn. Bấy lâu, người ta đã đãi chú không bạc và anh em đồng sự đều có lòng mến yêu, vậy thì chú nên tự cho mình là gặp thời đắc sở lắm mới phải!... Thể mà bỗng dưng chú đùng đùng phủi áo đứng dậy, chẳng nói năng gì, lẳng lặng bỏ đi như tuồng trốn tránh là nghĩa làm sao?
Xuân ngồi cúi mặt thở dài, không nói gì cả.
Diệu nói tiếp với giọng ân cần năn nỉ:
- Ừ, tại làm sao tự nhiên chú bỏ đi chứ? Người ta có bạc đãi chăng? Không! Anh em đồng sự có lỗi gì với chú chăng? Cũng không! Nhưng chú đành dứt áo ra đi thế này, tất có một lẽ gì? Cái lẽ ấy, chú muốn giấu thiên hạ, nhưng nỡ lòng nào lại giấu tôi là người chú đã cứu mạng, là người đã cùng chú kết bạn tâm giao? Phải, không lẽ chú đi giấu tôi, vậy tôi van lơn chú phải nói thật cho tôi biết. Trước hết, tôi xin hỏi chú đi đây là có mục đích gì và định đi đâu?
- Tôi định ra Huế theo Hoàng Ngũ Phúc, anh ạ! Xuân trả lời đột ngột, như tất cả nồi hơi phẫn uất trong lòng tự dưng bùng lên.
- Chú muốn đi theo quân Trịnh? Diệu trố mắt hỏi lại.
- Phải, tôi muốn thế! Xuân đáp rất thản nhiên.
- Nhưng để làm gì?
- Để lập công trận cho họ rồi nhân đấy xin họ ban thưởng cho mình...
- À, đeo ấn phong hầu, truy tặng tổ phụ? Diệu đỡ lời bạn và hỏi.
- Không phải thế? Xuân lắc đầu nói. Tôi có ham mê gì những cái hư vinh.
- Thế thì chú muốn được ban thưởng gì? Cái phần thưởng chú muốn có ở quân Trịnh hẳn không thể mong được với Tây Sơn, cho nên mới bỏ chỗ này mà đi?
- Anh nói đúng. Chỉ có quân Trịnh mới cho tôi đạt cái sở nguyện ấy được.
- Ồ, sở nguyện gì mà lạ lùng khó khăn lắm thế, chú nói tôi nghe nào?
- Không, không lạ lùng khó khăn gì cả. Cái sở nguyện ấy là chính tay tôi được cầm dao chém đầu thằng gian thần Trương Phúc Loan; vì nó đã bị quân Trịnh cầm tù, thì chỉ có quân Trịnh có quyền cho tôi làm theo điều ước muốn.
Diệu nhìn Xuân và cười ngất, mặc dầu trong trí rất kinh ngạc vì nghe mấy câu Xuân vừa trả lời
Xuân thấy bạn cười, lấy làm khó chịu, cau mặt hỏi cách gay gắt:
- Anh cười... Hẳn anh cười sở nguyện của tôi là tầm thường, nhỏ mọn?
- Không phải thế đâu, chú đừng nghĩ lắm! Diện nín cười đáp. Tôi hiểu có chuyện oan gia cừu hận thế nào, cho nên chú cũng như nhiều người, muốn cho thằng gian thần Phúc Loan phải chết; nhưng tôi buồn cười chú bây giờ còn muốn được chính tay chặt đầu nó cho được hả giận.
- Tại sao lại không như thể được, hả anh? Xuân hỏi lại hơi vẻ sừng sộ kín đáo.
- Chú không biết thật à? Tại thằng Phúc Loan đã chết quách rồi, còn đâu!
- Anh nói thật hay bỡn?
- Tôi nói thật.
- Nghĩa là quân Trịnh đã xử trảm nó rồi? Nhưng tôi nghe nói Phúc Loan đã đem cả gia tài đút lót đổi mạng kia mà!
- Quân Trịnh chưa xử trảm Phúc Loan, nhưng Phúc Loan đã chết. Chú muốn báo thù chỉ còn có cách tìm đến chỗ chôn nó mà đào mả đánh thây, như cách Ngũ Tử Tư báo thù Sở Bình vương ngày xưa. Mả nó nghe đâu ở chặng Quảng Bình ấy, vì Hoàng Ngũ Phúc cho giải ra Thăng Long để xét án, khi đến Quảng Bình thì Phúc Loan mang bệnh chết tại đó...
Xuân tái mặt, đứng lặng cả người, tay buông đũa bát, thở dài:
- Thế ra trời không cho tôi lập giết thằng khốn nạn ấy để báo thù cho cha, trọn lời thề với mẹ, hử trời!
Rồi nhanh như biến, trong trí Xuân suy nghĩ và quyết định không cần phải giấu giếm chân tướng với tâm sự nữa, cho nên chẳng để Diệu kịp hỏi lại câu nào, Xuân đã dõng dạc nói tiếp:
- Anh Diệu ơi! Em có một câu chuyện riêng, bấy lâu vẫn giấu cả anh và mọi người, bây giờ sắp sửa biệt ly, mà có lẽ là vĩnh quyết, vậy em xin nói thật, anh tha lỗi?
- Được, chú cứ việc nói! Diệu uống cạn chén rượu và gật gù trả lời. Chú với tôi tuy là anh em kết nghĩa, nhưng tình thân như cốt nhục, còn có việc gì quan ngại. Tôi đã bảo nếu như cái lý của chú phải thì tôi cũng xin bỏ Tây Sơn, để cùng đi với chú kia mà!
- Trước hết từ giây phút này, anh không được gọi em là chú nữa nghe! Xuân mỉm cười nói.
- Sao... Sao thế? Diệu quắc mắt hỏi lại, đầy vẻ sửng sốt.
- Vì, chính thật em là con gái, anh ạ! Giờ này, với y phục này mới thật là bản tướng em... Bấy lâu em trá hình nam tử, chỉ để che mắt thế gian, nhiều khi vẫn muốn nói thật với anh, mà chưa có dịp.
Không sao tỏ hết được thần thái và tâm trạng Diệu trong giây phút vừa ngạc nhiên này. Chàng tê mê ngơ ngẩn cả người, đến nỗi muốn nói mà chưa biết nói thế nào cho đúng với trường hợp lạ lùng, ngoài hẳn tưởng tượng. Miệng chàng chỉ lầm rầm những tiếng “Thảo nào! Thảo nào!”, trong khi cặp mắt tinh anh và nẩy lửa kinh dị, nhìn sững người ngồi đối mặt.
Xuân cười và nói:
- Anh còn lạ mặt em lắm sao mà nhìn dữ thế?... Để em kể hết câu chuyện cho anh nghe!
Rồi thì với giọng chậm rãi dịu dàng, Xuân đem chuyện thân thế mình: con cái nhà ai? đối với Trương Phúc Loan có mối thù giết cha làm sao? Trước khi bà mẹ nhắm mắt, mình đã thề nguyền cầm dao chém đất thế nào? Giả trai lần mò vào núi Bia học võ nghệ ông giáo Hiến là có lập chí gì? Nhất nhất kể rõ cho Diệu nghe, không dấu tí nào.
Không đè nén được lòng bi thương, cảm khái, nàng - ta nên trả lại tiếng xưng hô ấy cho Xuân từ đây - khóc tấm tức và kết thúc với ý quyết định:
- Đấy, anh coi em đã lỗi mất lời thề thứ nhất đối với vong linh ba má em rồi!... Giờ còn có cách gì hơn là bắt chước Ngũ Viên ngày xưa là trả thù Sở Bình vương, như anh đã nói ban nãy, em phải làm sao đến chỗ chôn Phúc Loan, đào mả nó lên, đánh vào thây ma nó ít hèo, thì mới chuộc được lời thề, hả được lòng giận... Anh ơi! Cái thù cha mẹ chất nặng trong tâm hồn em từ mấy năm nay, không giây phút nào quên... Em không có anh trên em dưới nào mà hòng đổ trút công việc báo thù, tuyết hận ấy cho ai!... Thế thì phen này em muốn ra theo Trịnh lại càng là đắc sách, anh thử nghĩ xem!
Diệu vội vàng trụt xuống dưới đất, chắp tay vái nàng lia lịa và trịnh trọng nói:
- Cô thật là Mộc Lan đời nay: tôi xin chắp tay vái cô để tỏ lòng kính mộ một bực hiếu nữ anh thư mà bấy lâu tôi có mắt không thấy.
Nàng thẹn thùng luống cuống, gạt tay Diệu và kéo chàng ngồi xuống:
- Trời ơi! Anh chớ làm quá thế. Cho thiên hạ dòm ngó dị nghị chúng ta! Em đã thật tình nói rõ chân tướng và tâm sự cho anh biết rồi, giờ em van anh không được gọi em là cô đấy. Anh cứ coi em như đứa em út mà gọi bằng em, không thì em xuống thuyền ngay bây giờ, không nói chuyện nữa.
- Vâng, cô cho phép thì tôi xin gọi là em! Diệu thong thả đáp, đối vẻ mặt thân thiết bả lả ban nãy ra mạo kính cẩn. Thảo nào... Thảo nào từ trước ông Huệ vẫn ngờ ngợ em là đàn bà cải trang, té ra em là đàn bà thật. Lập chí của em đáng kính đáng phục quá. Nhưng tôi thành thật nói với em rằng: em muốn đầu Trịnh để theo đuổi chí hướng phục thù, rõ là thất sách, chả khác gì muốn bắt cá mà trèo lên cây cao. Em nghĩ sao lại có tư tưởng trái ngược thế không biết.
- Anh nói lạ! Hiện nay Trịnh ở Bắc Hà không phải hùng cường bậc nhất đấy ư? Chứng cớ rành rành là họ đánh có một trận mà hạ được kinh đô chúa Nguyễn dễ dàng như trở bàn tay. Em muốn toại chí phục thù, không nương bóng họ thì còn trông vào ai được bây giờ?
- Ấy chết! Thế là em định trèo cây tìm cá đấy.
- Vậy thì anh bảo em phải làm sao cho được toại chí?... Dù sao em cũng là đàn bà còn trẻ người non dạ, nghĩ chưa rộng, lo chưa xa, anh cứ thật tâm chỉ dẫn hộ em.
- Muốn được toại chí, em không phải đi đâu cả, cứ việc ở lại đây.
- Với Tây Sơn?
- Phải, với Tây Sơn. Em nên biết nhất trị, nhất loạn, nhất hưng, nhất suy, lẽ trời cuộc đời xưa nay tuần hoàn đắp đổi vẫn thế. Cổ lai không có ngôi vua nào, thế nước nào được vững bền thịnh trị mãi mãi. Phàm kẻ có thiên hạ, hễ trị quá thì kiêu, kiêu quá thì đầy, đầy quá thì đổ, là lẽ tự nhiên. Họ Trịnh xứ Bắc cũng như chúa Nguyễn trong ta, hưởng mãi thịnh trị và sinh ra kiêu mãn lắm rồi, bây giờ đến lúc dân tâm ngảnh mặt, thiên vận đổi thay; cuộc thắng của họ chẳng qua như ngọn đèn hết dầu, phừng lên một cái để rồi tắt rụi đấy thôi. Chúng ta cứ xem dân tâm nhân sự đủ đoán thiên vận sắp sửa đổi đời. Lâu nay dân tình lưu ly khổ sở ra sao, chẳng nói thì em cũng rõ. Đời này chính là đời loạn, dân khố trăm đường, ai nấy đều mong được thay tay đổi mặt làm chủ, để cho sự sống của họ sửa lại khác hơn, dễ chịu hơn. Thế là cải thiên mệnh lẫn nhân tâm cùng muốn từ giã hai họ Trịnh Nguyễn...
- Để chuyển sang họ Tây Sơn ư? Xuân ngắt lời Diệu và hỏi lại, dường như có ý ngờ vực.
- Chứ lại còn ai! Diệu trả lời một cách rắn rỏi, tỏ hết lòng tin. Gặp đời loạn lạc thế này, phàm người anh hùng hào kiệt đều muốn nói tuốt gươm đứng dậy, ra tay sửa lại cuộc đời, dựng lên đại nghiệp. Vì thiên hạ là của công ai có tài dẹp loạn yên dân thì người ấy làm chủ. Xưa nay làm nên việc lớn trong thiên hạ, bởi tay những hạng quần manh áo vải thiếu gì? Theo con mắt tôi nhận xét, mà tôi tự tin rằng nhận xét đúng, anh em Tây Sơn trại chủ tức là hạng anh hùng ứng vận ra đời, thế nào họ cũng lập thành đại nghiệp. Hễ tôi đoán sai, thì cho em khoét mắt cắt lưỡi tôi đi.
... Bởi vậy, tôi thế, mà em cũng thế, dù là trai gái, chúng ta đều có nhiệm vụ đóng góp với cuộc đời, chẳng gì chúng ta cũng có ít nhiều tâm huyết, ít nhiều tài nghề, cần phải xem xét việc đời và cân nhắc sự cử động mình cho đúng, chim khôn tìm cây mà để chân, người hiền tìm chủ mà giúp đỡ, chớ nên tháo thứ mà đi lạc nẻo lầm đường, mang tiếng con người bất trí, rồi ra hối hận không kịp. Ví như em đùng đùng bỏ đi, tính ra đầu Trịnh đó. Tôi xin khuyên em phải ở lại đây, đừng đi đâu hết.
Những lời biện luận xác đáng của Diệu chưa đủ làm cho Xuân phải chiết phục; nàng cười gằn và nói với giọng rất khó chịu:
- Tiền thân ông anh tôi dễ thường là Trương Nghị, Tô Tần! Anh khéo bênh vực tâng bốc anh em họ Tây Sơn như trời!...Họ có đại chí tranh vương đồ bá ở đời, thế sao lại khuất thần hàng Trịnh, nhận lấy cái chức Tây Sơn hiệu trưởng làm vinh?... Đã hàng Trịnh thì thôi, lại còn hàng Nguyễn nữa chớ! Thú thật với ông anh; tấn kịch tôn phù diễn ra ngày hôm qua, khiến em là đàn bà cũng thấy sượng sùng hết sức. Vì thế mà em phải cáo bệnh, không dám thò mặt ra bài ban hành lễ, chứ có đau ốm gì đâu. Cũng vì thế mà em phải tính nước cao chạy xa bay cho mau, nếu ở lại thì em lỗi đến lời thề thứ nhì của em nữa.
Đến đây, Diệu mới hiểu rõ nguyên do bí ẩn đã xui khiến Xuân bỏ Tây Sơn ra đi thế này; chàng cau mặt, nói như rên rỉ:
Chết nỗi! Em rõ lầm to!
- Trời đất ơi! Việc rành rành giữa thập mục sở tại như vậy, mà anh còn báo rằng em lầm ư?
- Phải, em lầm! Điều lầm của em to hơn cái đình. Con người ta trông thấy núi Thái sơn mà không nhìn rõ mây lông bay qua trước mắt là chuyện thế đấy.
Đoạn, Diệu kiễng mình, ghé vào bên tai nàng nói nho nhỏ, phòng sợ có ai rình rập nghe trộm:
- Này, việc quân cơ bí mật, tôi nói riêng cho em biết để tống khứ ngay sự hiểu lầm trong trí em đi nhớ!... Tây Sơn hàng Trịnh cùng như hàng Nguyễn chỉ là trá hàng, cũng như em đã trá hình ấy mà!
Nàng bâng khuâng như ngủ say mới tỉnh, hỏi lấy hỏi để:
- Thật thế ư?... Thật thế ư?...
- Phải, thật thế đấy! Diệu đáp. Con hổ trước khi muốn đánh, vẫn co mình lại để lấy đà mà phóng cho xa, vồ cho mạnh, em còn lạ gì? Anh em Tây Sơn chính là con cọp ấy. Họ không phải hạng người chịu cúi đầu làm thần bộc Nguyễn hay Trịnh đâu... Bữa trước, hàng Trịnh chỉ vì binh cơ bắt buộc, không thế không yên; hôm qua bày trò Hoàng Tôn Dương, chẳng qua là một kỳ kế cho được tạm thời lung lạc nhân tâm, để từ đồ lương sách đó thôi. Duy có ai nghĩ nông nổi mới tưởng là họ thất thế hàng thật... Rồi họ xoay ra phá Trịnh, đánh Nguyễn cho mà xem. Cái ngày ấy không xa, chúng ta nên tin chắc như thế. Tôi xem trong anh em họ, nhất là Nguyễn Huệ, anh hùng, khoái đạt, thao lược hơn người; sở chí ông ta rất to tướng lại không biết đâu mà hạn lượng... Việc phục thù em muốn, có thể ỷ thác các ông mà sẽ được như nguyện chắc chắn... Nhiều người mong mỏi tri ngộ như chúng ta còn không được thay; em đang ở trên cao gió mát, lại muốn tuột xuống, chui vào hang tối, chẳng phải là người bất trí lắm ư?
Một thiên thần, thuyết lợi hại của Diệu, vừa minh bạch vừa chân thành lay động Xuân tỉnh hẳn giấc mê, bất giác bẽn lẽn hối hận, mạnh bạo nhận lỗi mình nhất thời suy xét nông nổi:
- Chết chưa! Không có ngọn đèn cao minh của anh chỉ dẫn, tí nữa em bỏ đường quang đâm quàng vào bụi rậm còn gì!
Diệu cười, chăm chủ nhìn vẻ mặt nàng bẽn lẽn hối hận, càng tôn thêm nhan sắc ngây thơ, thùy mị. Trong trí chàng khấp khởi âm thầm những cảm giác từ kính đến yêu, từ yêu đến muốn. Chàng chợt nhớ lời cụ Giáo Hiến đã tiên đoán mình năm nay sẽ thấy lá thắm đề thơ, chỉ hồng buộc cẳng, mà vợ cũng là tay anh hùng, vậy thì hẳn ứng vào Xuân chứ còn ai?
Hai người như có giây thần ràng buộc, tương cảm tương thông; chính lúc ấy Xuân cũng ước mong cùng Diệu sống làm chim liền cánh, thác làm cây liền cành; được người bạn chung thân là Diệu; chẳng những nàng sung sướng vô cùng, mà cùng không lỗi với lời thứ ba trước khi bà mẹ nhắm mắt.
- Bây giờ em tính thế nào? Diệu hỏi với tất cả tình tứ ân cần.
- Còn gì nữa, anh chỉ bảo thế nào là phải, em xin vâng thế! Nàng dịu dàng đáp, tỏ ý phục tùng.
- Quân tử nhất ngôn. Ban này tôi đã nói rồi: hễ cái lý em phải thì tôi nguyện cùng em cùng bỏ Tây Sơn; trái lại, nếu cái lý tôi phải, thì em cùng tôi trở về. Thế em có nhận cái lý tôi phải hay không?
- Em chịu cái lý anh phải. Bây giờ vác mặt trở về xem ra khó coi thế nào ấy, anh ạ!
- Cơ khổ! Em không hiểu ông Huệ có lòng yêu mến tài em ra sao đấy... Lúc được tin báo rằng em bí mật bỏ trại ra đi, ông chẳng lộ thanh sắc với ai, chỉ gọi riêng anh đến và bảo: Anh Diệu, tôi ủy thác anh đi theo dõi Phùng Xuân, dỗ khéo hắn ta trở về đây? Con người niên thiếu hữu tài ấy, ta chớ nên để cho qua tay địch quốc, hay là có điều gì bất đắc chí mà phải mai một thân danh!” Đấy, em xem ông Huệ đối với em có thiện cảm đến như thế, huống chi bây giờ thêm biết rõ bản tướng và tâm sự em, hẳn ông là người có độ lượng rộng rãi, còn quý mến em hơn nữa... Em cứ trở về, đừng ngại.
- Vâng, em xin theo anh!
Nàng nói đoạn đứng phắt dậy, gọi mụ Tri xuống thuyền lấy hành lý, rồi cùng Diệu trở về Quy Nhơn.