- IX - Ảo vải thêu rồng
Nguyễn Huệ đứng chủ hôn cho Diệu và Xuân rồi, vẫn giữ vợ chồng làm bộ tướng trực thuộc dưới quyền mình chỉ huy, hậu đãi tin dùng, có việc gì cũng bàn soạn, hỏi han, ủy thác, xem thân mật hơn anh em ruột thịt. Chẳng trách hai người cảm tình tri ngộ ấy, về sau tận trung cho đến phút cuối cùng, hăng hái lấy sức một cột chống đỡ trời nghiêng và đền đáp ân sâu bằng cách chết rất hùng tráng, rất bi thảm.
Lúc ấy, Tống Phúc Hiệp lại sai Tôn Thất Chất trở về Quy Nhơn, đem lễ vật dâng Hoàng tôn Dương, nhân tiện dò la thôi thúc Tây Sơn liên binh đánh Trịnh.
Nguyễn Lữ đang trông nom chế tạo hơn trăm chiến thuyền gần xong; nhiều chiếc đã đặt thần công đại bác lên trên và quân lính đã đem ra luyện tập thủy chiến. Còn trên bộ thì hàng ngày Nguyễn Huệ trần lực thao diễn kỵ đội cùng bộ binh. Nguyễn Nhạc dẫn Tôn thất Chất đi xem quang cảnh rộn rực trên bờ dưới nước rồi nắm tay Chất và nói ra vẻ thành thực:
- Đấy ngài xem, chúng tôi dự bị ráo riết, nhất định trong vòng hai tháng nữa thu xếp hoàn toàn thì đưa Đông cung hạ lệnh xuất sư, đồng thời tiến công cả thủy lẫn bộ. Chẳng những thu phục kinh đô Thuận Hóa, lại bỏ rọ hết thảy quân Trịnh, không cho một mống nào chạy thoát về Bắc Hà.
Khôn ngoan đủ cạnh, Nhạc lại sai Trần Văn Kỷ thảo sẵn tờ hịch đứng tên Đông cung để hôm xuất sư ngài sẽ báo cáo với thần dân, đưa cho Chất xem. Chất càng tin Tây Sơn thực lòng trung nghĩa, trở về Phú Yên kể rõ với họ Tống mọi sự mình được mục kích.
Tống thêm yên tâm vững trí, coi Tây Sơn là quân triều đình cùng thờ một chúa, làm một việc với mình, chẳng còn là kẻ thù nước địch như trước mà phải phòng bị.
Ông tin cậy vui mừng đến nỗi cho phép bộ hạ luân phiên về nhà thăm vợ thăm con, lại gọi phường tuồng vào trại hát suốt đêm cho sĩ tốt cùng ông giải trí.
Cai cơ Nguyễn Khoa Kiên nhất định vào can, vẻ lo lắng buồn rầu in rõ nét trên mặt. Tống đón đầu bằng giọng hài hước:
- Ông cai cơ có chuyện gì lo buồn như người mất trộm nàng hầu thế? Vào đây cầm chầu một lúc cho khuây nào!
- Bẩm, tôi đang lo nẫu ruột, còn bụng dạ nào nghe hát cầm chầu? Kiên nhăn nhó trả lời: Tây Sơn xảo quyệt lắm, tướng quân chớ nên quá tin!
- Ồ! Họ dốc lòng tôn phù, hiện đang dự bị binh mã sắp sửa khởi công quân Trịnh nay mai, ông không biết à? Tống hỏi lại, đầy vẻ tin cậy anh em Tây Sơn.
- Thưa, tôi có biết!.. Chúng nó dự bị để đánh Phú Yên ta trước đấy.
- Cơ khổ! Cứ lo đầu này, ngờ đầu kia như ông thì mất lòng hào kiệt trong nước, còn mong có ai xuất thân hiệp lực với triều đình chứ?... Tống hất hàm cười nói. Nào, ngồi đây nghe hát một lúc.
Nguyễn Khoa Kiên lắc đầu và thở dài đi ra cửa trại, gặp cai đội Nguyễn Văn Hiền, nín lại kể lể than vãn:
- Tống công bị anh em Biện Nhạc cho ăn bùa mê thuốc lú mất rồi, cái đầu anh em mình chưa biết còn gắn trên cổ được tới hôm nào?
- Bọn mình là võ tướng, hễ có giặc đến thì đánh! Hiền trả lời: Đánh mà thua thì ta chỉ có việc chết theo thành trì đất nước cho tròn danh tiết nam nhi, trả nợ cơm áo vua chúa. Chỉ có vậy thôi, can chi phải than vãn cho mất nhuệ khí.
- Đã đành rằng thế! Kiên trợn mắt tròn xoe và nói. Nhưng muốn đánh giặc cũng phải xếp đặt phòng bị thế nào, chứ để giặc đến rồi ta múa hai bàn tay không với chúng à. Đằng này, Tống công nhẹ dạ quá tin lũ Tây Sơn, giờ không phòng bị cóc khô gì cả mới là khó chớ!
- Nếu thế thì anh em là phải lấy quân bản bộ mà lo phòng bị riêng vậy.
- Bác nói rất phải, tôi cùng nghĩ thế.
Hai tướng từ giã nhau, ai lo phận sự nấy là canh phòng Tây Sơn, trái hẳn sở kiến nông nổi của Tống Phúc Hiệp.
Nhưng tự lực của họ khác nào muốn múc nước gáo tưới xe củi cháy, mà cũng muộn rồi.
Họ bố trí chưa xong, mờ sáng hôm sau đã thấy kỵ binh Tây Sơn, dưới hiệu cờ Nguyễn Huệ, đã kéo đến như nước tràn núi lở, reo hò đánh phá tưng bừng.
Tống Phúc Hiệp vừa kịp hốt hoảng chạy trốn. Binh Nguyễn bị đánh úp bất ngờ, mạnh ai nấy tìm đường tẩu thoát, nhất thời như ong vỡ tổ, tình cảnh sợ hãi rối loạn rất thương; họ chỉ dày đạp lẫn nhau mà chết khá nhiều, không cần giặc chém giết.
Văn Hiền và Khoa Kiên hấp tấp đem dăm sáu trăm quân bản bộ đến tiếp chiến, không khác gì tự dâng thịt trước miệng hùm.
Được chủ tướng treo gương khích lệ, binh Nguyễn kháng chiến cực hăng nhưng vì quả bất địch chúng, thêm khí giới kém thua tinh nhuệ, thành ra đánh nhau không đầy một giờ đồng hồ, chết dần chết mòn gần hết. Văn Hiền bị tướng khách Lý Tài chém chết tại trận.
Các trại kia nghe thế giặc mạnh quá, vội vàng rút lui vào mạn trong không dám kéo ra tiếp ứng.
Khoa Kiên đơn thân độc mã ở giữa vòng vây, còn múa tít siêu đao, tá xung hữu đột, ngã mấy chục quân Tây Sơn, mở được một huyết lộ mà chạy.
Trần Quang Diệu thúc ngựa đuổi theo gần sáu dặm đường vào hẻm núi non, Khoa Kiên chẳng may vì ngựa ngã vật mình xuống đất, mới bị bắt sống.
- Tức chết được!... Tao bị chúng bay bắt đây là do thiên mệnh, chứ không phải tự tao hèn nhát, bất tài! Khoa Kiên trợn mắt nghiến răng nói với quân Tây Sơn bắt trói.
Nguyễn Huệ thấy Khoa Kiên khôi ngô anh dũng bèn động lòng, nghe Diệu tấp tắc khen Kiên ở trận chiến đấu như con hổ dữ, nên Huệ càng thương tiếc, muốn thu làm bộ tướng mình:
- Nhà ngươi chịu hàng, ta tha chết cho! Huệ niềm nở nói khi thấy lính giải Kiên đến dưới thềm.
Kiên trừng hai mắt đầy tia máu, hàm râu vểnh ngược, nói lớn:
- Thằng chết bầm kia! Tao, Nguyễn Khoa Kiên có hề sợ chết mà cầu mi cho sống?... Vả lại, có ba lẽ đáng chết, mi đã bắt được tao, thì giết ngay tao đi, không phải nói gì lôi thôi...
- Ba lẽ đáng chết là ba lẽ gì, thử kể nghe nào? Huệ ung dung hỏi và giữ nét mặt hòa nhã, không vì Khoa Kiên hỗn xược mà nổi giận như thường tình mọi người.
- Tao là võ tướng triều đình, có một phần trách nhiệm giữ đất này, mà giặc kéo đến, tao không đánh không được: một lẽ đáng chết. Tao vẫn biết bọn Tây Sơn hay trá hàng, cho nên thường khuyên can Tống công phải dè chừng, phòng bị chúng bay, nhưng can không đắt, trí sáng bằng thừa, ấy hai lẽ đáng chết. Tao vẫn tự phụ là tiếng dũng sĩ, thế mà phen này thất thế để chúng bay bắt sống được, không kịp tự sát cho được toàn danh, ấy là ba lẽ đáng chết. Có ba lẽ đáng chết như thế, tao có sợ chết ham sống, ưa hầu thèm công danh tước lộc của bây ư. Thôi, bay giết ngay tao đi, mau lên... Không thì đưa gươm đây, tao tự đâm cổ ở đây cho bay xem!...
- Nghĩa sĩ!... Nghĩa sĩ!... Huệ gật gù khen ngợi và ra hiệu cho đao phủ dẫn Kiên đi chém cho toàn danh tiết.
Đao phủ giải Kiên đi mấy bước Huệ to tiếng bảo quân sĩ:
- Quân bay đưa gia quyến ông cai cơ về Quy Nhơn cấp dưỡng tử tế nghe!
Huệ sai chém, nhưng vẫn thiết tha mến tiếc, cho nên cố ý để khởi việc chiếu cố gia đình, hoặc Kiên có cảm động hồi tâm mà chịu hàng chăng?
Kiên nghe rõ ràng, song cứ điềm nhiên đi thẳng, không thèm ngảnh cổ lại tạ ơn cũng chẳng có vẻ cảm động, tỏ ra mình đã vì việc nước mà không tiếc thân, lại không đoái tiếc cả gia quyến vậy.
Đi ra gần khỏi viên môn, một trong hai người đao phú cũng động lòng kính mến, thương hại hay sao không biết, nói rầm rì bên tai Kiên với giọng khuyên bảo hơn thiệt:
- Ông này gàn quá, không biết thời thế!... Cứ chịu hàng phục đi, có phải khỏi chết, lại được sung sướng tấm thân?...
Kiên tức lộn ruột, quắc mắc trông lẫm liệt ghê sợ, cả tiếng mắng nhiếc:
- Đồ khốn nạn!... Mi cũng là con dân chúa, mi khuyên tao hàng giặc à?
Trong khoảng chớp mắt, Kiên vừa cựa mình, đứt cả dây trói, chụp lấy mã tấu trong tay người đao phủ hàng, chém bừa đầu người ấy và thừa trớn lia ngã người kia, rồi ù té chạy.
Cửa dinh nhất thời náo động, kẻ la ó, người rượt theo, nhưng không ai dám đến gần vì Kiên khỏe quá, lại có khí giới trong tay, đã quay lại cướp thêm được một ngọn mác của đám truy binh và đâm mấy người trọng thương.
Chỉ còn cách độ bốn năm trăm thước nữa thì đến một khu rừng rậm rạp, nếu Kiên chạy được vào đấy là thoát thân mất tích, truy binh không thể tìm ra.
Nhưng giữa lúc ấy Bùi Thị Xuân vừa về đến viên môn, hỏi rõ sự tình, liền giật lấy cung tên của một người lính gác, tế ngựa đuổi theo, giương cung đặt tên nhắm rất đích xác, bắn trúng vào đùi Kiên đau quá, phải ngã phục xuống, không chạy được nữa.
Quân sĩ lại dẫn vào trước mặt Huệ.
Khuyên nhủ quy hàng đà không chịu nghe, lại giết quân lính người ta mà chạy trốn, ai cũng đoán chắc phen này Kiên sẽ được thấy chủ tướng Tây Sơn tháo đê thịnh nộ và tự tay chém lấy đầu Kiên, không cần đến lính đao phủ.
Mọi người sửng sốt vô cùng, khi trông Huệ lại đón tiếp Kiên bằng nụ cười và nhan sắc hòa nhã hơn trước:
- Ta khen nhà ngươi đáng là kẻ hảo hớn đời này!... Giờ nên ta rộng lượng, tha cho mà về, thì nhà ngươi tỉnh sao?
Kiên trả lời rất quật cường:
-Thì ta lại chiêu tập binh sĩ đánh nhau với Tây Sơn các ngươi chỉ chết, còn phải toan tính gì nữa.
Huệ cười, bảo viên giám quân trao cho Kiên một cây lệnh tiễn và nói:
- Đó, nhà ngươi cầm lệnh tiền này đi bình yên; ta cho một con ngựa mà đi!
Không nói không rằng, ý chừng có vẻ tự thẹn, Kiên lẳng lặng rảo bước ra ngoài viên môn, cỡi ngựa đi thẳng.
Tướng sĩ đều ngơ ngác nhìn nhau, sửng sốt về cử chỉ lạ của Huệ. Có người hỏi tại sao không chém phứt cho rồi, lại thả cọp về rừng là nghĩa thế nào?
Huệ ung dung đáp:
- Các ngươi lấy làm quái lạ, chỉ vì không chịu suy rộng nghĩ xa đấy thôi. Ta tha nó về để bảo nhau cho biết uy đức Tây Sơn; hoặc vị thế mà trong bọn chúng nó đâm ra nghi kỵ lẫn nhau, ta cũng có lợi... Phải, ta biết Khoa Kiên là một hổ tướng bên địch, nhưng các người thử nghĩ xem cái nhà đã dột nát lung tung, sắp đổ đến nơi, dù có một vài tày lá mới đậy che, một vài cây tre tốt chóng đỡ cũng không ăn thua vào đâu?... Nhất là ta rất thương người tài, muốn họ tâm phục, chứ không muốn đa sát. Vả lại bây giờ, ta thả cho đi, nay mai lại tóm cổ nó cũng không khó kia mà!
Bây giờ mọi người mới hiểu chỗ dụng tâm của Huệ là cao.
Tây Sơn thừa thắng đuôi theo binh Nguyễn và quét sạch từ đấy vào mãi Bình Thuận, mỗi chỗ đều phân binh trấn thủ, đặt quan cai trị.
Tiện đường, Huệ dẫn vợ chồng Quang Diệu lên núi Bia thăm ông Giáo Hiến. Thầy trò gặp nhau rất vui vẻ. ông Giáo Hiến vẫn yêu mến Huệ nhất trong đám môn đồ, lại có nhỡn lực biết Huệ là bậc anh hùng, sau này tất làm nên sự nghiệp hiển hách.
Vừa gặp dịp mới săn được con heo rừng, ông đem ra khao đãi tướng Tây Sơn. Trong lúc thầy trò đánh chén, ông hào hùng nói với Diệu:
- Năm nọ ta đoán tiền định cho ngươi rồi có vợ cũng tài giỏi, có sai đâu nào. Mà tưởng ai lạ, té ra Xuân cũng là học trò ta, hồi còn thụ nghiệp ở đây ta đâu ngờ là con gái giả trang... Thế là hợp cơ trời đấy! Vợ chồng anh em tận tâm phù tá Huệ nghe.
- Bẩm thày, vợ chồng con đã thề nguyền với nhau điều đó! Diệu và Xuân đồng thanh nói.
Trước khi sắp từ biệt, Huệ cũng hiếu kỳ, yêu cầu ông Giáo Hiến xem tướng số cho mình, thử coi hậu vận thế nào? Ông lắc đầu và nói:
- Người ta bảo “quý nhân bất tướng” còn phải xem xét gì nữa!,.. Có điều lão có mười sáu chữ này, để sau mà nghiệm...
Tức thời ông cầm bút viết 16 chữ sau này đưa cho Huệ:
“Nội huých vu tương
Ngoại ngữ kỳ vũ
Lưỡng tiểu tương thừa
Thập hậu hữu tứ”
- Huệ đón lấy xem đi xem lại không hiểu gì cả, xin thầy giảng nghĩa rõ ràng cho nghe, nhưng ông Giáo Hiến dồn cả nỗi buồn vào trong tâm, gượng cười và nói:
- Ông cứ giữ lấy, để sau nghiệm xem, lão không dám tiết lộ thiên cơ, sự trời bắt tội... Cố lên! Tiền đồ của ông to lắm đấy!
Mười sáu chữ trên chỉ là ẩn ngữ của ông Giáo Hiến nói về vận số họ Tây Sơn. Hai câu trên chắc là ám chỉ vào việc anh em Nhạc Huệ bên trong, sẽ có chuyện lục đục tới đánh nhau, nhưng bên ngoài thì sẽ chống cự cường địch, có lẽ trở về trận Quang Trung hoàng đế đại phá quân Thanh sau này. Còn hai câu dưới, ông tiên tri tới chỗ mai sau Huệ xưng đế, kỷ nguyên Quang Trung, rồi truyền cho con là vua Cảnh thịnh, cả hai đời chỉ được 14 năm là hết; mà trên chữ Quang và dưới chữ Cảnh đều có chữ “tiểu”, thể là “Lường tiểu tương thừa”.
Kể ra ông thật đáng là một bực cao ấn kỳ nhân đương thời, hình như tinh thông về Lý học của ông Trạng Trình. Đến sau chúa Nguyễn Ánh ra đánh Quy Nhơn, nghe đồn tiếng ông, sai người đi tìm, thì núi Thạch Bi trở lại hoang vu, tung tích ông đâu mất không biết. Có người nói ông bỏ đấy mà vào tận trong xứ mọi Thủy xá, Hỏa xá. Người khác kể chuyện khi ông thấy vận Tây Sơn suy và chúa Nguyễn chắc nắm phần thắng, ông thở dài và nói: “Ta đã thề bao nhiêu năm nay không chịu làm dân Nguyễn chúa, bây giờ lẽ nào để họ làm nhục được ta ư?”, thế rồi gieo mình xuống bể mất tích.
Sau khi Huệ thắng binh Nguyễn ở miền trong về, Nhạc sai người báo tin thắng trận cho Hoàng Ngũ Phúc biết, nhân thể xin chúa Trịnh phong thưởng cho em mình chức vị gì đó lấy danh diện với ba quân.
Trịnh Sâm lập tức phong Huệ làm Tây Sơn hiệu Tiên phong tướng quân.
Đó là Nhạc theo đuổi chính sách tam hòa phía Bắc, che được chuyên tâm đánh phá chúa Nguyễn ở miền nam rồi sẽ hay. Trong tướng sĩ vẫn có nhiều người chưa thấu rõ thâm mưu viên lược ấy, cho là Tây Sơn tự hạ quá; tưởng là chức gì chứ Tiên phong tướng quân hay to hơn thế nữa, ông Tiết chế (tức là Nhạc) tự phong cho em không được ư, hà tất phải chờ có tờ giấy vàng đóng ấn chúa Trịnh mới là vinh?
Huệ nghe chỉ cười nhạt, nói riêng với Quang Diệu:
- Cái chí của chim hồng, lũ sẻ kia làm sao hiểu nổi!
Thật thế, cử chỉ Tây Sơn giả vờ quy thuận, chẳng những gắn chắc lòng tin của chúa Trịnh, lại giúp họ được lợi thêm đất nữa.
Nguyên lúc bấy giờ quân Trịnh đóng ở Châu ổ, địa đầu Quảng Nghĩa, bị lam chướng dịch lệ vật chết rất nhiều. Đến tháng chạp năm Ất tị (1775), Hoàng Ngũ Phúc thấy bộ hạ mình chết hao chết mòn nhiều quá, lấy làm lo sợ, lại chính mình cũng mắc phải bệnh lị, bèn viết thư khẩn thiết và sai ngựa cấp truyền chạy ra Thăng Long, xin chúa Trịnh cho rút quân về giữ Thuận Hóa. Còn Quảng Nam thì giao cho Tây sơn trấn thủ, vì anh em họ đã tỏ hết lòng trung thuận đáng tin.
Trịnh Sâm chuẩn y ngay. Hoàng Ngũ Phúc tuổi già bệnh nặng, chỉ kịp rút binh về đến thành Thuận Hóa để thở hơi cuối cùng.
Ngũ Phúc vừa nhắm mắt, thì Hoàng Đình Thế từ Bắc Hà trở vào đến Thuận Hóa[1], vâng lệnh chúa Trịnh sai đi ngày đêm thuốc men vào cho, và nếu bệnh không thể cứu, thì hỏi han Ngũ Phúc về quốc gia đại kế sau này.
Đinh Thể hộc tốc chạy vào bên giường, ném tọt bọc thuốc xuống đất, bưng mặt khóc hu hu tiếng rất thảm thiết, làm não nề ruột gan tất cả mọi người:
- Trời cao đấy dày ôi!... Tôi đi chậm hết mấy giờ, để lầm lơ mất việc lớn nhà nước rồi còn gì?... Trời hỡi trời!
Có lẽ Ngũ Phúc chỉ mới bắt đầu trạng thái chết giả, chưa phải tắt hơi thật, cho nên khi có những tiếng náo động gây nên bởi mọi người chung quanh, khiến ông hồi tỉnh, từ từ mở mắt trông thấy Đình Thế đứng gào khóc bên cạnh. Ông nhẹ nhàng hỏi:
- Hẳn nhà ngươi vâng lệnh chúa thượng sai vào?
- Bẩm vâng!... Đình Thế gạt nước mắt và nói, nét mặt hớn hở. Lão tướng quân đã lai tỉnh!... May quá, thiếu chút nữa tôi có tội to với quốc gia, không biết đến đâu!
- Chúa thượng sai nhà người vào tất có việc trọng yếu gì?
- Vâng, trọng yếu lắm. Trước hết là đem thuốc của ngự y bào chế, ban cho tướng quân...
Ngũ Phúc ngắt lời Đình Thế, thở dài và nói; lời nói bây giờ minh bạch, rắn rỏi, hầu như một người vô bệnh vậy:
- Phiền nhà ngươi chuyển tấu hộ tôi muôn vàn cảm tạ thâm ân chúa thượng; nhưng bệnh ta đã vào tận cao hoang rồi, còn thuốc men nào kịp nữa, dù cho với những tay danh y như bực Cao Hoãn, Hoa Đà ngày xưa.
Ta vừa tắt thở trước khi nhà ngươi bước chân vào, không hiểu sao tự dưng tỉnh lại, có lẽ trời khiến ta thế, vì việc quốc gia hậu sự, chúa thượng có lòng tin yêu ban hỏi ta.
- Vâng, quả thật có thiện ý bên trong... Đình thể đáp. Chúa thượng có một việc khẩn yếu, muốn hỏi riêng tướng quân.
Ngũ Phúc khoát tay đuổi tả hữu ra ngoài hết, chỉ lưu lại một viên tòng quân thơ lại tin cẩn xưa nay, để ghi chép những lời cơ mật sắp nói và ký tên đóng ấn làm bằng, gửi Đình Thể mang về dâng chúa Trịnh.
- Nào, chúa thượng truyền hỏi những gì, nhà ngươi cứ việc nói đi! Ngũ Phúc mở lời sau khi thấy tả hữu lui ra khỏi buồng mà viên thơ lại đã chạy theo gài then đóng cửa cẩn thận.
...............(mất một số báo)
Huệ tiến binh đến Gia Định đánh có một trận, Lý Tài, Tân chính vương và Thái thượng vương, mỗi người tháo chạy một đường. Thừa thắng, Huệ ruổi quân đến Long Xuyên, Vĩnh Long, bắt được cả ba người đem giết. Tàn binh chúa Nguyễn vỡ chạy tan nát, chỉ nghe tiếng quân Tây Sơn đã đủ khiếp vía.
Sử chép Nguyễn Huệ bốn lần đánh Gia Định, trận này là lần thứ nhất.
Lúc bấy giờ, nhân tâm trong Nam thương mến chúa Nguyễn, vẫn ngấm ngầm cừu địch với Tây Sơn, chỉ đợi cơ hội là quật khởi. Huệ dò biết rõ ràng như thế, cho nên sau khi hạ được Gia Định rồi, muốn xin anh cho mình ở lại trấn thủ miền nam, phòng giữ thế lực chúa Nguyễn. Nhưng mà Nhạc không nghe, vội vàng ra lệnh triệu về; thâm ý là sợ để em hùng trấn một phương, quyền to thế lớn, sau này khó trị. Thói đời vẫn thế, anh em ruột thịt, khi còn hàn vi nghèo khổ với nhau thì không sao, song đến lúc chung lưng đấu cật, làm nên có ruộng trước vườn sau, nhà ngói cây mít, cái mối tham lam nghi kỵ cũng theo đó mà nảy ra.
Thông minh, thao lược, Huệ hẳn biết ý của ông anh như thế, cho nên khi tiếp được lệnh Nhạc triệu về, chỉ cau mặt thở dài một cách kín đáo, rồi truyền cho ba quân sửa soạn lên đường, chứ không than phiền bàn nói gì cả. Trần Quang Diệu hỏi:
- Việc bình định Nam kỳ sự thật chưa xong, sao Thượng công đã vội rút quân về?
Có lệnh của Đại vương; Huệ đáp.
- Ông tướng cầm binh ở ngoài, có khi mệnh vua không tuân cũng được, Thượng công không biết sao? Ta rút binh về hôm nay thì ngày mai đồ đảng Chúa Nguyễn nổi lên như ong lập tức; bấy giờ lại phải trở vào đánh dẹp mất công.
- Nhà ngươi nói phải, ta cũng biết thế, nhưng mà có lệnh của Đại Vương.
Diệu toan nói nữa, nhưng Bùi Thị Xuân ở đằng sau khẽ kéo vạt áo chồng, ra hiệu bảo thôi.
Liền ngày hôm ấy, Huệ giao kiếm ấn cho Đô đốc Chu ở lại giữ thành Gia Định, rồi cùng Lữ đem đại binh trở về Quy Nhơn.
Mùa xuân năm sau, Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc ngầm bảo tướng sĩ bộ hạ dâng biểu khuyến tiến, rồi lập đàn làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Đế kỷ nguyên là Thái Đức.
Người áo vải ở ấp Tây Sơn tiêu chằng tiền thuế nhà nước, bây giờ mặc áo hoàng bào; thống trị ngót mười triệu dân, từ bên này đèo Hải Vân cho đến mũi Cà Mau.
Thái đức Hoàng đế đóng đô ngay ở thành Đồ bàn đã tu bổ năm trước, nay đổi tên là Hoàng đế thành, giáng chỉ phong cho ngự nhị đệ Nguyễn Lữ làm Tiết chế, ngự tam đệ Nguyễn Huệ làm Long nhương tướng quân; trở xuống các quan văn võ đều được phong thưởng, tùy theo công lao trận mạc bấy lâu.
Giữa lúc làm lễ đăng quang, quần thần đang bài ban triều hạ, bỗng thấy một đoàn chim cắt, từ trên nóc nhà Thái cực điện bay ra, mổ nhau kêu inh ỏi. Duy có một con bay vụt lên cao, còn mấy con kia bay ra ngoài bể. Những người có tâm cơ, đều cho đấy là một điềm đáng nên suy nghĩ.
Chiều hôm ấy, Hoàng đế ban đại yến cho tất cả nội cung, ngoại triều và thủy bộ chư quân.
Dự yến xong, trở về bản dinh, Quang Diệu có vẻ ngà ngà say, vừa cởi áo mũ nhìn vợ và gật gù hỏi:
- Thế nào? Em có lấy làm thích khẩu với bữa yến Ngài ngự ban cho hôm nay không?
- Phát ngấy thì có!... Thị Xuân trả lời vắn tắt, gương mặt không vui.
- Ừ, có thể, phát ngấy!... Toàn là sơn hào hải vị, tôi không thích... Tôi chỉ thích ngồi trên mình ngựa ăn cơm nắm với muối tiêu đã quen đi rồi.
- Không, em không phát ngấy vì nhiều sơn hào hài vị đâu! Chỉ phát ngấy vì trông thấy cái mặt Biện Nhạc thế mà cũng vua với chúa...
Giá có sét đánh khít ngay bên tai, Quang Diệu cũng không giật mình khiếp vía cho bằng nghe vợ mới nói mấy câu bất ngờ ấy. Chàng tỉnh rượu hẳn, vội vàng đưa tay bưng lấy miệng Thị Xuân, không để cho nàng nói hết câu:
- Trời ơi! Tai vách mạch rừng, em muốn vợ chồng ta chết chém à?
Đoạn, chàng ghé bên tai hỏi:
Tại sao em có ý nghĩ hằn học như thế?... Nói cho tôi nghe, nhưng nó khe khẽ chứ, tôi van em đừng có gây nên tai họa vô ích!
Thị Xuân vâng lời chồng, nói khẽ, nhưng nếu có người rình ngoài sân, chắc cũng nghe rõ:
- Mình nghĩ không bực bội sao được? Giá như người ta, đã xưng hoàng xưng đế như vậy, tí nào cũng phải tấn phải tấn phong cho em mình tới quốc công hay là vương tước cũng đáng. Nhất là người em như ông Huệ, đã lập bao nhiêu công lao chinh chiến mới dựng lên cơ nghiệp này!... Hừ!... Long nhương tướng quân? Chức tước ấy quý báu gì? Nó không xứng với công lao ông Huệ một chút nào!... Tôi xem ra Nhạc nham hiểm, tham lam, có ý nghi kỵ em; lúc thành công phú quý không muốn cùng em chung hưởng... Thế nào rồi cũng có cuộc xung đột cho mà xem. Mình không nhớ bốn chữ “Huynh đệ huých tường” của cụ Giáo Hiến ư?... Tôi nghĩ ông Huệ bị bạc đãi mà bực thay!... Rồi đây chúng ta cũng nên tôn ông lên làm hoàng đế không được sao?
Mấy lời Thị Xuân nói, như liều thuốc đánh thức Quang Diệu sực tỉnh cơn mê, bắt chàng suy nghĩ, phải chịu rằng nàng nhận xét đúng.