← Quay lại trang sách

- X - Con diều biển cất cánh về Nam

Quả như lời Quang Diệu đã tiên đoán: Tây Sơn lấy được Nam kỳ lần đầu, mà không để Nguyễn Huệ ở lại xếp đặt mọi việc nội trị, phòng thủ, chỉ cốt lấy thóc gạo tiền bạc rồi về, giao cho một hai viên tướng bất tài giữ thành Gia Định, thành ra những tôi trung nghĩa của chúa Nguyễn có thể nổi lên chống cự và làm nên to chuyện.

Sau đó Nguyễn Huệ lại vào đánh Gia Định ba lần nữa và một lần phá tan quân Xiêm ở Mỹ Tho, kế võ công thật hiến hách, nhưng mà cơ sở và thanh thế của Nguyễn vương Phúc Ánh đã bắt đầu xây dựng chắc chắn ở đất Nam Kỳ, trở nên đối địch với Tây Sơn rồi. Tuy lúc sơ khởi, Nguyễn vương hay bại trận mặc lòng, nhưng thế lực về tinh thần thì càng ngày càng mạnh; dần dần lấn được Tây Sơn ở miền Nam.

Thế là nhất thời thất sách, Tây Sơn phải mất công đánh dẹp luôn mà vẫn không hoàn toàn làm chủ được cả xứ Đồng Nai, lại còn chậm trễ cả cuộc tiến ra miền Bắc.

Vua Thái Đức lên ngôi được hơn bốn năm có con diều biển bay về Hoàng đế Thành, bấy giờ Tây Sơn mới có cơ hội Bắc tiến. Con diều biển ấy tên là Nguyễn Hữu Chỉnh.

Chỉnh là người Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, khôn ngoan giảo hoạt từ bé, lúc đi học văn ông thầy đã nói: “Thằng này về sau là bầy tôi giỏi ở đời trị; nếu gặp đời loạn, nó sẽ là một tay gian hùng đáo để” tuổi trẻ đỗ hương cống, Chỉnh lại học binh thư võ nghệ, định theo đuổi con đường này cho đi tới công danh sự nghiệp to tát ở đời.

Nhưng hai ba khoa đi thi tạo sĩ không đỗ, Chỉnh bực mình không học nữa, lần mò được làm môn hạ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, tỏ ra người túc trí đa mưu, Ngũ Phúc đem lòng yêu mến và rất tin dùng.

Ta còn nhớ hồi Ngũ Phúc vâng mệnh chúa Trịnh vào đánh Thuận Hóa, Chỉnh đi theo trong quân, giúp đỡ nhiều mưu hay chước lạ, và có dịp đem kiếm ấn bằng sắc vào Quy Nhơn phong chức Tây Sơn Hiệu trưởng cho Nguyễn Nhạc.

Chỉnh làm quen với anh em Tây Sơn từ đó. Lúc đưa trở về, Chỉnh đã nói với Ngũ Phúc:

- Tôi xem anh em Tây Sơn có khí phách ngang tàng, không chịu ở dưới thiên hạ. Nhất là Nguyễn Huệ chí khí khác thường có tài thao lược hơn cả hai anh!

Ngũ Phúc biết rõ rài năng tâm địa Chỉnh, cho nên khi hấp hối trên giường bệnh ở thành Phú Xuân, đã căn dặn Hoàng Đình Thế về tâu chúa Trịnh nên trọng dụng Chỉnh, không thì giết đi, chớ để hắn qua tay địch quốc, sinh sự bất lợi cho nước nhà.

Không biết Hoàng Đình Thế nói với chúa Trịnh thế nào chỉ biết Ngũ Phúc qua đời rồi, Chỉnh về Nghệ An quê nhà, theo Hoàng Đình Bảo, làm chức tham quân, trông nom tuần phòng mặt biển. Chỉnh tài thủy chiến, đánh dẹp bọn hải khấu khiếp sợ, nhân đấy có tên là con diều biển, không mấy chốc được phong Bằng tĩnh hầu.

Sau chúa Trịnh Sâm với Hoàng Đình Bảo ra Thăng Long, giao cho quyền chính, vì chúa đã nhất định bỏ con trưởng, lập con thứ, con của Đặng phi, cho nên muốn đặt tương lai người con thứ ấy vào lòng trung thành hộ vệ của Đình Báo. Tội nghiệp Trịnh Sâm không ngờ mình đang mở cửa đón rước nội loạn vào trước rồi ngoại xâm đến sau.

Tháng mười một năm Nhâm Dần (178?) một người môn hạ Chỉnh là Hoàng Viết Tuyến ở Thăng Long về Nghệ, bộ mặt hớt hơ hớt hải, đầy vẻ lo buồn. Tuyên mới bước chân vào, Chỉnh đã cười và hỏi đón:

- Trông cái bộ mặt anh đủ biết ngoài kinh sư mới có chuyện chi lạ phải không?

- Bẩm, có thế! Tuyển thở dài đáp. Chuyện nguy biến to chứ không phải lạ mà thôi.

- Thế nào? Chỉnh hỏi vồ vập, biến sắc.

- Thưa, máu nhuộm vương phủ, xác đầy kinh sư! Tuyển tóm tắt thời cuộc Thăng Long bằng tám tiếng ấy, ngồi phịch trên chiếc ghế đẩu, nghỉ hơi giây lát rồi mới nói tiếp. Tĩnh đô vương (tức Trịnh Sâm) vừa mới nhắm mắt xong, kiêu binh Tam phủ nổi lên giết Tôn đô vương Trịnh Cán (con Đặng phi) lập Đoan Nam vương Trịnh Khải. Nhiều đại tướng triều thần bị chúng sát hại, thây nằm ngổn ngang phủ đường, thấy mà ghê khiếp!... Khắp kinh thành đang xôn xao đẫm máu vì kiêu binh, thì tôi bỏ trốn về đây, báo tin cho ông hay...

- Khổ quá, Huy quận (tức Hoàng Đình Bảo, tước phong Huy quận công) không trấn áp nổi bọn lính làm loạn ư? Chỉnh ngắt lời hỏi.

- Trời ơi! Chính Huy quận nhu nhược mà gây nên cuộc đại biến này, bị kiêu binh làm thịt phanh thây trước nhất.

- Thật à?

- Vâng, mắt tôi trông thấy loạn quân xả Huy quận ra làm năm bảy mảnh ở dưới chân voi, đầu một nơi, mình một nẻo... Bọn khởi loạn lại lùng bắt tất cả vây cánh đồ đảng Huy quận mà giết, bất cứ xa gần. Chúng nói phát cỏ phải bứng cả rễ, bởi vậy, tôi nghe có tên ông ở trong số “trảm thảo trừ căn” ấy nữa... Thấy sự tình nguy cấp cho ông, nên chi tôi phải lật đật về đây báo tin, để ông liệu cách đối phó với thời cuộc làm sao cho thầy trò ta cùng được an toàn.

Cống Chỉnh thoạt nghe, hoảng sợ tái mặt, nhưng lại đổi ngay sắc mặt tỉnh táo:

- Ồ! Đại trượng phu gặp lúc biến thì phải tìm cách chống trả cuộc đời, tự toàn lấy thân, chứ khi nào chịu để ba thằng lính đắc chí ấy làm hại được mình!... Nhà ngươi cứ lẳng lặng theo ta, không phải hỏi gì hết.

Tức thời, Chỉnh cưỡi ngựa vào thành, yết kiến Vũ Tá Giao, trấn thủ Nghệ An, cung kính vái chào và nói:

- Việc đại biến vừa phát ở kinh sư, chắc hẳn tướng quân đã biết?

- Vâng, tôi cũng vừa mới được nghe; Tá Giao trả lời. Nhưng tại sao hôm nay phải đến đây lại bầy vẽ lễ mạo quá thế?

Chỉnh ung dung nói tiếp:

- Nếu vậy thì hôm nay không phải Nguyễn Hữu Chỉnh đến ra mắt Vũ Tá Giao mà chính là Khoái Triệt đến nói lẽ lợi hại với Hàn Tín, chẳng hay tướng quân có vui lòng hay không?

Tá Giao nhìn Chỉnh sửng sốt:

- Có lẽ ông là Khoái Triệt đời nay, nhưng tôi đâu dám sánh với Hàn Tín! Tuy vậy, lẽ lợi hại thế nào, xin ông bảo cho biết.

Không úp mở gì hết, Chính nói thẳng:

- Sự thể thiên hạ ngày nay, người có địa vị như tướng quân, nếu biết tự lập thì còn, hễ do dự thì chết. Việc triều đình rối nát và loạn đảng đắc chí thế nào, tướng quân đã rõ; chúng đã quyết định tẩy trừ vây cánh gần xa của Huy quận, tôi với tướng quân cùng ở trong số đó... Vậy tướng quân nên nhanh bước đi trước người ta thì hơn, ngồi đợi cho lũ tiểu nhân kia ám hại được mình, chẳng hóa bất trí; sao bằng tướng quân giữ ngay lấy đất Hoan Châu này mà xưng vương tự hùng; một mặt ta đóng đại binh ở Hoàng Mai để ngăn đường quân địch, một mặt bảo Hoàng Đình Thế giết Phạm Ngô Cầu mà giữ lấy đất Thuận Hóa để làm thanh viện cho ta, còn về mặt bể thì Chỉnh này xin đảm đương vô sự. Như thế là tướng quân chia phân thiên hạ, giữ được lâu dài, không hơn luồn cúi bọn cừu địch, mà tính mạng treo ở trong tay chúng ư? Cổ lai, những người dựng lên cơ nghiệp đồ vương, phần nhiều bởi khéo lựa cơ và biết thừa thời; nay chính là thời cơ rất tốt, tướng quân chớ nên bỏ qua.

Tá Giao lắc đầu lia lịa:

- Thôi, thôi, ông bảo tôi làm phản triều đình mà giữ đất xưng vương, thật tôi không dám!

Chỉnh muốn thuyết một câu trót:

- Này, thủa xưa Khoái Triệt hiến kế xưng vương đất Tề mà Hàn Tín không biết nghe, quả nhiên về sau Hàn Tín bị giết đấy!... Địa vị tướng quân ngày nay cùng tương tự, nên nghĩ cho kỹ.

- Tôi nghĩ kỹ rồi! Tá Giao đáp.

- Nghĩa là chờ bọn cừu địch hạ lệnh bắt về Thăng Long thì về?

- Phải, tính mạng sinh tử, tôi đành nhờ trời! Tá Giao nói thế rồi hỏi lại Chỉnh. Còn ông thì ông tính thế nào?

Chỉnh làm bộ bưng chén nước uống cho kịp thời giờ suy nghĩ xoay đổi mưu mô trong trí, rồi thản nhiên trả lời:

- Tôi thành tâm phù trợ tướng quân lên bực chí tôn chí quý, tướng quân không khứng nghe thì thôi. Còn tôi thì nội ngày mai tôi xuống thuyền đi ra Thăng Long...

- Chết! Ông ra Thăng Long để tự đưa thịt vào miệng hùm ư! Tá Giao ngắt lời Chỉnh và hỏi lại, kinh ngạc.

- Vâng, tôi ra để tự thú với bọn cừu địch, vì đằng nào cũng chết. Thà rằng tự thú trước, chúng còn lượng tỉnh mà nới tay cũng nên, chứ ở đây chờ đợi lệnh bắt, thì thế nào cũng không còn đầu lâu. Huống chi tôi ra tự thú chẳng những may ra tự cứu được mình lại cứu cả tướng quân nữa.

- Ủa! Ông này nói nghe lạ quá! Lại cứu được cả tôi!

- Có lạ gì? Tôi ra trước mặt chúng, sẽ nói ngay thật rằng có kẻ khuyên tướng quân giữ đất Hoan Châu làm phản, nhưng tướng quân nhất định không nghe, như vậy là tỏ lòng tướng quân trung nghĩa với triều đình và tán thành việc làm của kiêu binh Tam phù, tất nhiên chúng hoan hỉ tha giết tướng quân, lại còn trọng dụng thêm không chừng.

Nói đoạn, Chỉnh vái chào đi thẳng, không đợi cho Tá Giao ngỏ lời cảm tạ hảo ý của mình hay là hỏi gì thêm nữa.

Trở về dinh, Chỉnh hối hả Viết Tuyển dọn sẵn hai chiếc thuyền to, túc trực ở bên, để ra Bắc có việc quan.

Viết Tuyển biết tính khí Chỉnh độc đoán, không muốn hỏi cặn kẽ, cứ việc lẳng lặng đi sắp sẵn thuyền bè, theo lời đã dặn.

Nửa đêm hôm ấy, Chỉnh đem cả gia quyến, hành lý và bọn Viết Tuyển tùy tùng thân tín hơn hai chục người xuống thuyền ra lệnh nhổ neo dời bến lập tức. Chỉnh không quên lớn tiếng truyền bảo thủy thủ trước lúc khởi hành:

- Mùa này đường ra Bắc Hà thường có sóng gió to, chúng bay liệu xem buồm lái cho tử tế nghe!

Trên bến dưới thuyền, ai cũng định chắc Bằng lĩnh hầu đi ra Bắc thật. Trong bọn thuộc hạ có nhiều người ra tận nơi sụt sùi tiễn biệt, vì họ tin rằng trưởng quan họ đi ra Thăng Long phen này hẳn là dữ nhiều lành ít, một đi không về. Vũ Tá Giao cũng thân ra tiễn, nhưng kỳ thật là muốn thám thính hư thực; lúc về cười ha hả, nói với mọi người:

- Thế mà người ta vẫn ca tụng cống Chỉnh khôn ngoan nhất đời này?... Tôi cho là thằng chí dại... Chẳng thế lại tự nhiên đi ra kinh sư cho chúng làm thịt!

Thì ra Chỉnh đánh lừa được cả mọi người, bắt đầu từ bọn thủy thủ trở đi.

Lúc thuyền ra cửa Hội Thống, Chỉnh bảo lái sang tay phải, nghĩa là đi vào Đàng trong, bấy giờ ai nấy đều chưng hửng, biết Chỉnh cốt lập kế thoát thân, nói một đàng, đi một ngả.

- Ngài đưa chúng tôi đi đâu đây? Viết Tuyển đánh bạo hỏi.

- Đưa các ngươi đi đến chỗ yên ổn phú quý, chứ còn đi đâu! Chỉnh cười nói. Ta đã bảo cứ nhắm mắt đi theo ta.

- Có lẽ vào Huế với Phạm Ngô Cầu?

- Ai thèm nương nhờ bọn vô dụng ấy?... Vả lại, Phạm Ngô Cầu, Hoàng Đình Thể không ưa gì ta.

- Hay là vào Đồng Nai?

- Không! Không đi xa quá thế đâu. Chỗ này còn gần hơn, ta cho nhà ngươi đoán xem.

Còn gần hơn thì là Quy Nhơn, nhưng không lẽ ngài đi vào Tây Sơn?

- Sao lại không có lẽ? Chính thật ta định vào Tây Sơn đây. Ai biết dùng tài năng mình thì mình đến với họ, miễn là có nơi cho mình dương mi thế khí ở đời... Tây Sơn được ta sẽ đãi như khách quý, vì họ có con mắt sáng hơn chúa Trịnh và hạng Vũ Tá Giao.

- Nhưng sao lúc đi, ngài lại phải thanh ngôn là đi ra Bắc?

- Ồ! Nhà ngươi thơ ngây đến thế kia ư? Không lập mưu thanh đông kích tây như vậy, Vũ Tá Giao có thể tâng công với bọn kiêu binh Tam phú mà sai người trói ta giải ra Thăng Long còn gì!... Rồi ta sẽ cho tất cả chúng nó một bài học, bấy giờ mới tiếc xưa kia sao không biết dùng cái tài vá trời lấp biến của thằng Chỉnh này!

Chỉnh nói và nghiến răng, ngảnh mặt nhìn về hướng Bắc, hai con mắt như nảy lửa ức uất, hằn thù, đến nỗi trong trí đã sắp sẵn cơ mưu một ngày kia sẽ đem ra thi hành cho hả, dù phải mượn tay nhờ sức thiên hạ về dày xéo gia hương cố quốc cũng là.

Giữa lúc con diều biển vỗ cánh bay vào nam, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng ngự đệ Nguyễn Huệ đã đánh thắng chúa Nguyễn Ánh một trận rất lớn ở Thất Kỳ giang, vừa mới từ Gia Định ban sư về Quy Nhơn được một tuần.

Hôm đó, Long Nhương tướng quân đang ngồi trong phủ, xem những giấy tờ quan hệ việc binh, chợt thấy tên lính vào bẩm có Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà mới vào, đến xin ra mắt.Vừa mừng vừa lấy làm lạ, Huệ quên cả giày dép, vội vàng chạy ra cổng phủ đón rước, tay bắt miệng cười, rất mực niềm nở:

- Kính chào tiên sinh!... Cái túi khôn đệ nhất xứ Bắc vào đây hẳn không phải một sự ngẫu nhiên!

- Con người bốn bể không nhà đâu dám đương lời đại tướng quân quá tặng! Chỉnh vái chào lễ phép và nói. Tôi là kẻ đắc tội ở cố hương, đến phải đem thân bô đào, thật không thể nhận mình là cái túi khôn.

- Tuy vậy, tiên sinh bỗng dưng chiếu cố, tất có nhiều việc hay chỉ giáo cho chúng tôi.

- Hai tiếng chỉ giáo, tôi cũng không dám lĩnh. Chỉ xin tự đem tài hèn sức mọn vào đây nương dựa vào uy đức của Hoàng thượng và chờ nghe hiệu lệnh tướng quân sai khiến đấy thôi.

Huệ ân cần dắt Chỉnh vào công đường nói chuyện chốc lát, rồi thân dẫn vào cung bái kiến Thái Đức hoàng đế.

Trước khi dẫn kiến, Huệ để Chỉnh ngồi ở chái điện, vào nói riêng với anh rằng Chỉnh là bực tài trí xứ Bắc, nếu ta muốn Bắc tiến thì nên lợi dụng hắn, vậy xin lấy khách lễ tiếp đãi, để lưu hắn ở đây, một mai tất sẽ vì ta hiệu lực. Nhưng Chỉnh là người gian hiểm, phản phúc, lại hay tự phụ, tưởng trong thiên hạ không còn ai bằng mình, cho nên trước hết ta phải tìm cách dè chừng, hạ bớt kiêu khí của con người ấy xuống, khiến phải thiếp phục thì mới dùng được việc.

Thái Đức hoàng đế cười nói:

- Sở kiến của ngự đệ rất hợp ý ta... Nhỡ là ai, chứ Cống Chỉnh thì ta thừa biết, năm xưa phụng mệnh đem sắc phục vào đây, Chỉnh làm bộ khúm núm bước vào ta có dịp đàm đạo với nó luôn ba hôm, đã thấy rõ gan ruột nó lắm rồi. Hiền đệ đưa nó vào đây!

Chỉnh làm bộ khúm núm, bước vào, toan sụp lạy, vua Tây Sơn vội vàng đưa tay đỡ lên và nói:

- Tiên sinh là bực đại hiền thượng quốc, tôi như là một chư hầu tiểu bang, đâu dám nhận lễ của tiên sinh!

Đoạn, sai lính đặt ghế một bên ngự tọa mời Chỉnh ngồi. Vua Tây Sơn nói tiếp:

- Mới hồi nào mà nay trông dung nhau tiên sinh tiều tụy đi nhiều, không được phong quang như xưa, ý chừng gần đây phải lo nghĩ việc nước nhiều lắm?

Cả người nói thù tạc nhã nhặn, mà ở trong có vô số mũi kim châm vào tâm sự riêng của Chỉnh, khiến Chỉnh tự thấy sượng sùng khó chịu, ngồi điếng lặng giây lát mới dám mở lời:

- Tâu ngài, kẻ viễn thần này tài học kém cỏi, không có chỗ thi thố ở quê hương, cho nên phải bộ bá vào đây, mong được hiệu lực nhiều ít, chẳng dám có xa vọng gì khác hơn.

- Ồ! Sao tiên sinh tự khiêm quá? Tiên sinh đã hạ cố vào đây, tức là quốc tân của chúng tôi, xin cho thời thường nghe lời giáo huấn.

Tức thời, Thái Đức hoàng đế chiểu theo nghi lễ đời Chiến quốc bên Tàu ngày xưa, phong Chỉnh làm Khách khanh, truyền dọn một dinh thự rộng rãi cho Chỉnh ở, và cắt riêng năm chục tên lính hầu hạ. Lại sai đem vải lụa cùng các thứ vật dụng ở trong cung ra ban cho, ân lễ cực kỳ trọng hậu.

Hôm sau, vua Tây Sơn bày đại yến ở điện Tập hiền để khao thưởng các tướng sĩ chinh Nam mới về, nhân thể khoản đãi Chỉnh.

Rượu được vài tuần, một người ngồi ở hữu ban cất tiếng nói:

- Thuở nay vẫn nghe Bằng Lĩnh tiên sinh tự phụ là trí sĩ đất Bắc Hà, không ai bì kịp. Nhưng cứ theo việc xét người, thì tiên sinh, bất trí vô cùng. Không được chúa Trịnh tin dùng ở bên tả hữu, đến nỗi phải bất đắc chí với một chức quan xa xôi ở trấn Nghệ An. Tới khi kiêu binh Tam phủ hoành hành, để giết cả vây cánh Huy quận, tiên sinh khuyên Vũ Tá Giao kéo cờ tự lập ở xứ Nghệ không được, phải đem thân đi lưu lạc nương nhờ nước khác; may gặp được chúa ta nhân từ thu dụng, nếu không thì chưa biết tiên sinh phải trôi nổi đến đâu? Như thế mà tự phụ trí sĩ, tôi không hiểu tiên sinh trí ở chỗ nào?

Đình Thể cúi xuống bên gối, nói nhỏ chỉ vừa đủ nghe, trong khi viên thơ lại, sửa soạn giấy mực, làm việc tốc ký:

- Chúa thượng biết tướng quân là bực lão thành ưu quốc, về hậu sự nhà nước tất nhiên tướng quân hiểu sâu biết rõ hơn cả mọi người. Cho nên chúa thượng sai tôi đi đêm ngày vào đây cho kịp trước khi tướng quân thành thần, để hỏi quốc gia hậu sự, tướng quân sở kiến lợi hại thế nào, xin cứ trực tình, tâu gửi... Chúa thượng chỉ cần hỏi có thế, nhưng xem tướng quân nhọc mệt quá rồi, không biết còn đủ trí sáng và sức khỏe để tỏ bày mọi việc theo ý ngài muốn chăng?

- Được... Được... Ta cảm thấy mình ta lúc này tỉnh táo và khỏe khoắn trở lại, dường như cái chết muốn buông tha ta vậy.

Ngũ Phúc nói đoạn, ngước mắt nhìn về phía bắc, chắp tay vái ba vái rồi lại vòng tay xếp đế trên ngực, khoan thai nói tiếp:

- Ta phụng mạng chinh nam, công việc dở dang chưa xong, lại phải lui binh về đây mà từ giã cõi đời, trong lòng ta thật lấy làm băn khoăn, ân hận... Nhưng việc ở đây ta không quan tâm lo nghĩ cho bằng việc ở Bắc Hà, nơi căn bản đại nghiệp của chúa thượng... Quốc gia hậu sự?... Ta không thấy có việc gì đáng nguy ngập đề phòng cho bằng Tam phủ kiêu binh[2]... ừ, cái họa kiêu binh như con hổ đói chỉ chực vồ cắn người, đáng sợ lắm đấy. Phàm là quân lính, khi nhà nước biết cách dạy dỗ, kiềm chế, thì họ rất đắc lực cho triều đình, quốc gia; nhưng một khi để họ ỷ thế cậy công, kiêu căng trái phép, thì việc gian ác đến đâu chúng cũng dám làm rất khó ngăn cản, vì chúng quá đông, trong tay sẵn có khí giới... Ta còn sống ngày nào, còn có thế lấy mình làm con đê ngăn cản tai vạ, nước lụt ấy cho quốc gia; chỉ e sau lúc ta chết rồi, kiêu binh lại sẽ thừa cơ quật cường bạo động, chẳng hạn bên trong dựa vào thế lực chốn cung vi, bên ngoài a dua với lũ tranh quyền hiếu danh, nổi lên làm loạn, có thể rung động tới căn bản nhà nước, chứ không phải chuyện chơi đâu!... Nhà ngươi nên nhớ lời ta, khẩn khoản tâu bày chúa thượng về việc quốc gia, đại kế đó... Ấy là trung can nhiệt huyết cuối cùng của ta đối với Chúa thượng... Thánh nhân đã dạy: con chim sắp chết, tiếng kêu ai bi, người ta sắp chết, lời nói ngay thật!... Giờ có hai cách, một là giải tán họ đi các trận, hai là tìm cách kiềm chế phòng bị hẳn hoi. Không vậy thì mầm họa còn mãi, một mai nó lại đột phát lên, sự nguy hiểm không biết làm sao mà lường trước được!

- Vâng, lão tướng quân thật là thâm mưu viễn lược, tôi xin tâu bày cặn kẽ với chúa thượng! Đình Thể gật gù nói. Chính tôi cũng từng lo nghĩ nhiều về việc ấy.

Còn chén sâm thang để gần chỗ nằm. Ngũ Phúc bảo viên thơ lại, đổ cho vài thìa, nằm lặng nghỉ hơi chốc lát, rồi lại nói tỉnh táo:

- Ta còn một chuyện quan hệ, suýt nữa quên mất... Ban nãy, một người cao rộng, làm bộ khép nép đi ra sau cùng, nhà ngươi có để ý không?

- Thưa, có phải cống Chỉnh cử Nghệ? Đình Thể trả lời:

- Chính hắn đấy!

- Lão tướng quân suy nghĩ về người ấy thể nào?

- Nhà ngươi không hỏi ta cũng định nói. Chỉnh có tướng gian hiểm phản phúc, nhưng chính là bực kỳ tài hiếm có ở nước ta hiện nay. Vậy sau khi ta chết, nhà ngươi trở về, nhớ tâu chúa thượng nên vời ngay Chỉnh ra Thăng Long mà dùng... Điều cốt yếu là đã dùng hắn thì nên trọng dụng, cho hắn được thi thố tài năng; nếu không trọng dụng thì nên tìm cớ mà giết đi... Chớ để con người ấy chạy theo địch quốc thì tất đa đoan sinh sự, trở nên mối hại cho nước nhà...

Ngũ Phúc nói đến đó thì kiệt sức, nằm điếng lặng giây lâu, lại mở mắt hồi tỉnh, gọi viên thơ lại đưa cho xem tờ chép những lời đã nói, tay cầm bút run run, viết được tám chữ "Thần Hoàng ngũ Phúc lâm chung cần tấu ". Thế rồi thở hắt ra một hơi nhẹ, hai mắt từ từ nhắm lại, mà diện mạo có vẻ tươi sáng, như người lấy làm hài lòng đã xong công việc ở đời và trọn phận sự với vua chúa vậy.

Quân Trịnh rút về Thuận Hóa rồi, Tây Sơn thống trị toàn hạt Quảng Nam, không phải mất một mũi tên, nhiễu một giọt máu nào cả.

Lúc này đất nước ta thành ra thế tam phân đỉnh túc rõ ràng; nước Trịnh ở Bắc Hà, nước Nguyễn trong Gia Định, Tây Sơn chiếm một giải đất chạy dài từ đèo Hải Vân vào đến Bình Thuận, giống như nước Thục Hán ở giữa Ngụy với Ngô đời Tam quốc; nhưng có điều khác, là nước Thục này không phải suy vi, mà lại có thế mỗi ngày hùng cường sắp nuốt cả hai nước kia.

Hai năm Bính Thân và Đinh Dậu (1776 - 1777), Nguyễn Nhạc lo sửa sang nội trị, rèn tập quân lính, chiêu mộ lưu dân, tu bổ thành Đồ Bàn của nước Chiêm Thành cũ, tự xưng là Tây Sơn vương, định ra triều nghi, quan chế, phong chức tước cho mọi người; tóm lại quy mô xây dựng nghiễm nhiên thành một nước riêng.

Trong thời gian ấy, chỉ có một lần Nguyễn Lữ phụng mạng vào đánh lấy được thành Sài Gòn, rồi tạm bỏ, chỉ thu hết thóc gạo trở về Quy Nhơn. Ngoài ra, Tây Sơn không có việc động binh, dụng võ nào khác, với Trịnh hay với Nguyễn cũng vậy.

Những tướng tá mong được chiến trận đề lập công danh, khuyên Nhạc nên xuất sư Bắc phạt, thì Nhạc mỉm cười gạt đi:

- Các ngươi thích được chém giết thế kia ư? Mấy năm trước đã chém giết mãi chưa chán à? Giờ chúng ta ngồi yên mà hưởng cảnh thái bình, phú quý với nhau chẳng hơn!

- Chúa công dạy thế, thật là có lòng chí nhân đối với tướng sĩ nhưng chúng tôi nhàn cư lâu ngày, không cầm thương lên ngựa, ra trận giết giặc, thấy sao không vui!... đô đốc Đặng Văn Châu nói:

- Các ngươi muốn được vui thì để nay mai ta cho vào cứ Đồng Nai, tha hồ chém giết!

- Bẩm vương thượng, thế còn mặt Bắc?

- Không nói chuyện ấy vội! Nhạc vừa nói vừa nhìn quanh ban văn ban võ, hình như có ý tìm một người, ừ, không nói chuyện ấy vội. về mặt Bắc, hiện thời ta chỉ cần dùng một cái lưỡi như lưỡi Phan Văn Tuế chẳng hạn, chưa muốn phiền đến thanh gươm của các ông.

- Vâng, Tam quốc đời nay phải đổi nước cờ bắc hòa Tào Tháo, đông cự Tôn Quyền, ấy đó là sở định của chúa công? Tán lý Trần Văn Năng hỏi.

- Phải, chính thế đấy! Nhạc cười nói ra vẻ đắc ý. Chủ kiến của tôi mấy năm nay chưa thay đổi mà! Ông Tán ý thuộc truyện Tam Quốc nhỉ!... Phiền ông tháo một tờ biểu ra Bắc Hà đi! Nhưng trong biểu chớ có xưng là Tây Sơn vương nhé!...

Đoạn Nhạc giữ Trần Văn Năng ngồi lại, tức tịch ngỏ bày ý tứ, sai viết tờ biểu gửi ra Thăng Long, lời lẽ rất khiêm tốn, xin chúa Trịnh phong cho mình làm Quảng Nam Trấn thủ sứ, để vì họ Trịnh làm hàng rào che chống Đàng trong.

Sứ giả Tây Sơn đến Thăng Long, vãi tiền bạc châu báu ra đút lót từ Đặng phi cho tới cận thần, nội thị. Lúc nào triều kiến, lại kẻo thêu dệt, tỏ ra Nguyễn Nhạc hết lòng sợ uy mến đức, khiến cho Trịnh Sâm vui vẻ tưởng thật, không nghi gì hết. Vả lại, lúc ấy Trịnh Sâm đang buồn vì mới mất Hoàng Ngũ Phúc, thêm phần chán ghét chiến tranh lập tức hạ chiếu, phong Nhạc làm chức Quảng Nam Tuyên phủ đại sư, Cung quận công.

Một lần nữa, Nhạc lại được yên tâm không phải lo ngại mặt Bắc, đề dồn cả lực lượng vào việc đánh Gia Định, diệt trừ chúa Nguyễn.

Trong những lúc Tây Sơn lặng lẽ tự xây thế lực, làm con hổ co mình lại để chực vồ xa, như ta đã thấy trên đây, chúa Nguyễn Định vương nương náu trong Nam kỳ, nhờ có mấy tay hào kiệt Trung nghĩa mộ binh tôn phù. Đông cung Dương, tức là Hoàng tôn Dương mà Nguyễn Nhạc đã gả con gái cho thừa dịp trốn khỏi Quy Nhơn, lần mò vào Gia Định với Định vương, viên tướng khách Lý Tài theo Tây Sơn lúc đầu, năm trước theo Nguyễn Huệ vào đánh Phú Yên, sau Huệ giao cho trấn giữ thành này, chỉ vì Lý Tài làm sai tướng lệnh mà để mất di chiếu theo quân pháp, không khỏi bị chém. Hắn ta sợ lộ, bèn phản Tây Sơn chạy vào miền Nam, chiếm thành Sài Gòn, tôn Đông cung lên làm Tân chánh vương. Định vương làm Thái thượng vương mộ binh tập trận, tích thảo dồn lương, ra mặt chống cự Tây Sơn và thề nguyền khôi phục cơ nghiệp chúa Nguyễn.

Người ta kể chuyện cho Nguyễn Huệ nghe, có ý lo ngại Lý Tài kiêu dũng, khó bề trừ nổi; Huệ cười và nói:

- Thằng bất nhân ấy, tôi chỉ cho cái đầu nó ở tạm trên cổ đến ngày nào tôi vào Đồng Nai!

Cuối năm Đinh Dậu, Nhạc sai Lữ và Huệ đem đại binh vào đánh Gia Định, thủy bộ cùng tiến, thanh thế như Thái sơn đè quả trứng.

- Bẩm phải! Một người lính đáp.

- Anh biết đích con nào là con của vườn ngự uyển không?

- Thưa có, chính con có buộc sợi dây nhiễu đỏ dưới chân, đang lòng thòng xuống nhành cây, trông thấy rõ ràng đó.

Tức thời hai mũi tên vụt đi như biến, mấy trăm con mắt cùng trông thấy hai con công ngã từ trên nhành cây lao xuống, sống chết chưa rõ. Con thứ ba thì kêu thảm thiết và bay đi mất.

Nữ Dưỡng Do Cơ thúc giục bọn lính:

- Mấy anh chạy ra ôm vào đây, mau! Tôi nhằm vào chân, cả hai chỉ què thôi, không chết đâu!... Tiếc thay tôi không đem theo ba mũi tên để sửa nối con kia!

Lính ôm hai con công vào, nhất nhất đúng như lời nữ tướng đã thanh minh, Chỉnh thành thật thán phục:

- Người đàn bà có tài cung nỏ như thế, gọi là Nữ Dưỡng Do Cơ cũng đáng.

- Ấy là Bùi Thị Xuân, nữ tướng duy nhất trong quân đội Tây Sơn đấy! Huệ giới thiệu tên nàng với Chỉnh, còn bản thân nàng thì đã lặng lẽ ra khỏi cung môn ngay sau khi làm xong công việc tướng lệnh sai khiến.

- Thưa, có phải người cầm đầu toán lính cung thủ đã giết hại nhiều quân Trịnh trong trận Cẩm Lệ?

- Phải, dưới trướng tôi không có hai người.

Rồi đó vua tôi quan khách lại ngồi vào tiệc, uống rượu nói chuyện vui vẻ.

Sau một hồi lâu, Thái Đức hoàng đế trông hút ra ngoài, thấy hai tên lính đeo mã tấu, dẫn một người đóng gói và trói thúc ké đi qua trước cổng mình liền sai thị vệ triệu vào đe hỏi:

- Bay dẫn thằng này đi đâu thế? Vua Tây Sơn phán hỏi:

- Muốn tâu bệ hạ, lữ thần đưa nó đi chém! Một trong hai người lính quỳ tâu.

- Nó là người ở đâu?

- Bẩm ở Đàng ngoài.

- Vô đây từ bao giờ, làm công việc trong quân ta?

- Bẩm hoàng thượng: hắn vô Quy Nhơn ba bốn năm nay; ban đầu bơ vơ đói rách quan Vận lương sứ trông thấy thương hại, vì xét ra là con nhà khác, có học ít nhiều bèn cho hắn vào một chức biên số trong kho.

- Thôi, chắc nó trộm cắp binh lương phải không? Vua Tây Sơn cười nói. Một trăm người vào làm chỗ binh lương, khó chọn lọc được nửa số liêm khiết thật thà.

- Tâu bệ hạ: Quân số xét ra nó phạt tội nặng hơn thế nhiều. Một là gấp ghé tư thông với ngoại địch; hai là phụ bạc vong ân người cứu vớt mình, cho mình có việc làm, có cơm ăn; vì thế Quân bộ kết án trảm quyết.

- Ồ! Tưởng là tội gì nhẹ thì quả nhất sinh phúc miễn tử cho, nhưng đến tội gấp ghé tư thông ngoại địch, phụ bạc ân nghĩa người ta thì chém quách là phải!... Để những người ấy sống ở đời làm gì vô ích. Thôi, bay dẫn ra pháp trường hóa kiếp cho nó đi!

Bọn lính đao phủ dạ vâng một nhịp, rồi dẫn tội nhân đi ra. Chỉnh đưa mắt nhận thấy tội nhân không có vẻ gì buồn rầu sợ hãi sắp phải chết chém, mà trên gương mặt đao phủ cũng không thấy có sát khí chút nào, trong ý càng tin chắc chỉ là một trò Tây Sơn bày ra để rung cây nhát khỉ, một dằn mặt mình đấy thôi. Quả nhiên, Chỉnh trông theo hút thấy đao phủ dắt tội nhân ra khỏi cung môn thì mỗi đàng đi một ngả, sau khi ai đóng vai tuồng nấy đã xong.

Sự thật, những trò dằn mặt Tây Sơn cốt đặt ra để răn he Chỉnh không phải vô ích. Từ đấy, Chỉnh làm quan ở triều Tây Sơn, rất mực trung thành, chăm chỉ; có những trí mưu gì đều tuôn ra hết, chỉ cầu được Thái Đức hoàng đế và Nguyễn Huệ tin dùng.

Nào sửa sang triều nghi, định lại quan chế; nào đóng chiến thuyền, rèn tập thủy quân; lại mở trường Thái học và đặt phép thi cử để kén chọn nhân tài, bao nhiêu chính lệnh mới, chế độ mới, Tây Sơn thi hành từ năm Nhân Dần trở đi, đều do Chỉnh trù mưu hiến kế và một tay xếp đặt kinh doanh hết thảy.

Chỉnh trung thành với chức vụ đã hai ba năm, tuy được vua Tây Sơn tin yêu trọng đãi, ngôn thính kế tòng, nhưng trong thâm tâm Chỉnh vẫn lo sợ nơm nớp. Là vì bọn văn võ đồng liêu, không ưa mình rất nhiều, thường dòm nom kẻ vạch từ ly từ chút, bất cứ lúc nào Nguyễn Nhạc có thể nghe lời sàm tấu mà trở mặt giết Chỉnh như chơi. Phe thù nghịch luôn luôn có có nói với Nguyễn Nhạc rằng Chỉnh tuy làm quan ở Tây Sơn, nhưng bụng dạ không khi nào quên bỏ cố hương ở Bắc Hà, không khi nào vô tình với chủ cũ là chúa Trịnh. Đã ở Quy Nhơn lâu ngày, nội tình Tây Sơn thế nào Chỉnh thừa hiểu rõ, một khi biến tâm, bỏ Tây Sơn mà trở về Trịnh thì nguy cho Tây Sơn lắm thay!

Thấy phe thù nghịch rình rập đánh mình bằng trận đòn ngầm ấy, Chỉnh ngày đêm lo nghĩ phòng bị, chỉ mong có cơ hội gì chứng tỏ mình đã tuyệt tình với Trịnh rồi.

Người em rể Chỉnh từ Bắc Hà vào, trong trí đinh ninh rằng thế nào cũng được ông anh vợ tiếp rước niềm nở, không ngờ mới bước chân vào dinh, liền thấy người chí thân chờ đợi bằng bộ mặt cực kỳ lạnh lẽo, nghiêm khắc.

Chỉnh quắc mắt hỏi.

- Mi vô đây làm chi?

- Thưa, tôi vô thăm anh! người em rể đáp, lấy làm lạ thái độ Chỉnh đối với mình.

- Ai báo cho mi biết ta ở trong này mà vô thăm?

- Lâu nay anh làm quan lớn ở triều Tây Sơn, tiếng tăm vang dậy xứ Bắc, còn ai mà không biết!

- Hừ! Bây giờ chúng nó mới biết thằng Chỉnh không phải vô dụng nhỉ?...

Chỉnh nhìn người em rể với cặp mắt sát hạch gay gắt và nói tiếp:

- Tuy vậy, mi vô đây tất có kẻ sai khiến, chứ không được ngẫu nhiên?

- Bẩm, có thế!

- À! Ta muốn biết ai sai mi?

- Bẩm, chúa Trịnh.

- Thật à? Chỉnh nói và đảo mắt tứ phía, xem có ai rình nghe không.

- Vâng, chúa căn dặn tôi vô nói với anh nên nghĩ tình cố quốc, trở về sẽ được trọng dụng tức thời, Em nghĩ anh nên về là phải, ai nỡ bỏ quê cha đất tổ, đem tài trí đi phục dịch thiên hạ như thế cho đành?...

Vô phúc cho người em thổ lộ những câu tâm sự ấy, vừa lúc mấy thầy thơ lại bước vào, đem giấy tờ đến hầu chữ quan. Chỉnh thấy trong lòng rạo rực cảm xúc khi nghe em rể nhắc đến cố hương và chúa Trịnh có tình đoái tưởng, nhưng ngoài mặt phải làm ra vẻ giận dữ, vì có mấy kẻ làm chứng bất ngờ:

- Mi là thằng ngu, có chết cũng đáng đời! Mấy năm nay tao chịu ơn tri ngộ rất hậu của đức hoàng đế Tây Sơn, chứ có phải là bầy tôi chúa Trịnh đâu, mà chúa Trịnh sai mi vô đây thuyết tao!... Chẳng qua số phận em gái tao đến ngày phải góa bụa, cho nên mới xui mày lần mò đến chỗ này tự tìm lấy cái chết!... quân đâu? Đưa thằng này ra cổng dinh chém đi cho tao!

Tội nghiệp người em rể run sợ, mặt không còn máu, bị quân sĩ lôi kéo đi, còn ngoái cổ lại kêu gào van lơn, xem Chỉnh có hồi tâm tha thứ cho chăng? Nhưng Chỉnh không thèm đoái hoài, lại thét mắng theo:

- Mi chết, đừng oán hận tao!... Có khôn thiêng thì oán hận đứa nào sai khiến mi dại dột vào đây ấy!

Thảm họa của kẻ này thường làm hạnh phúc cho người kia. Cái chết cùa người em rể giúp Chỉnh được lòng tín nhiệm hoàn toàn của vua Tây Sơn. Thế là Chính tỏ mình đoạn tuyệt quan hệ với Trịnh; những kẻ ganh ghét không còn chỗ nào vạch lá tìm sâu đe hại ngầm Chỉnh được nữa. Từ danh nghĩa khách khanh nghiễm nhiên bước lên quyền vị đệ nhất mưu sĩ; phàm việc quân cơ quốc chính, vua Tây Sơn đều hỏi Chỉnh rồi mới thi hành.

Nhân đấy, Chỉnh khuyên Tây Sơn nên đánh Thuận Hóa để mở mang bờ cõi ra phía bắc; Thái Đức hoàng đế cho là phải, nhưng xét chưa có cơ hội thuận tiện.

Qua đầu năm Bính Ngọ (1786) Chỉnh đang bóp trán suy nghĩ mưu chước lấy đất Thuận Hóa, bỗng có tin báo tướng Trịnh trấn thủ Thuận Hóa là Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như và Võ Vĩnh Thành đi sứ vào Quy Nhơn.

Mừng quá, Chỉnh bở dở bữa ăn vội vàng vào tâu vua Thái Đức:

- Tây Sơn ta có cơ hội lấy Thuận Hóa rồi!... Việc thành bại quan hệ ở hai viên sứ quan. Sắp đến nay mai, xin Hoàng thượng cho tiếp đãi cực trọng hậu, hạ thần sẽ có diệu kế ở trong.

Vua Tây Sơn y lời, sai đón rước và khoản đãi bọn Phu Như hết sức long trọng; nay mở yến diên, mai mời đi thưởng hoa trên núi, tuyệt nhiên không đả động gì tới việc Thuận Hóa. Phu Như đợi Chỉnh gợi chuyện ra trước, nhưng Chỉnh cũng một mực làm thinh, chỉ than vãn mình được Tây Sơn hậu đãi bấy lâu mà chưa lập được công lao gì đền bù lại.

Sau rốt, Phu Như phải thú thật rằng Phạm Ngô cầu sai mình với Vô Vĩnh Thành vào đây là cốt dò la ý hướng Tây Sơn để mà phòng bị, nhưng Phạm Ngô Cầu là thằng bất tài. Tây Sơn muốn lấy Thuận Hóa lúc này dễ dàng như chơi. Đoạn, Phu Như đem nội tình Thuận Hóa, kể hết với Chỉnh.

- Nhưng ở đấy còn có Hoàng Đình Thể cũng là một tướng tài, không nên khinh thị. Chỉnh nói.

- Phải, Đinh Thể là tướng tài, nhưng bất hợp với Ngô Cầu, chẳng làm được trò gì đâu mà lo! Phu Như đáp.

- Thế bác ở trong giúp cho tôi một tay nhé?

- Xin vâng! Tôi biếu cố nhân món quà Thuận Hóa đấy, cố nhân ra mà lấy. Ngô Cầu là người mê tín và hiếu danh, ta cứ đánh vào chỗ yếu đó, bắt nó bỏ rọ lúc nào xong lúc ấy mà!

Chỉnh hiểu ý cả cười, tức khắc xin vua Tây Sơn quyết định việc cử binh đánh Huế.