- XI - Đám chay đổ máu
Phạm Ngô Cầu, tướng trấn thủ Thuận Hóa, phong tước Tạo quận công, ngồi chỗm chệ trên chiếc sập gỗ trắc, dựa lưng vào gối xếp; bốn tên lính mặc áo nẹp đỏ cầm gươm trần đứng túc trực bốn phía; hai người thị nữ xứ Huế xinh đẹp, trẻ măng, thay phiên nhau phe phẩy chiếc quạt lông và hầu điếu đóm trong khi một thầy đội vòng tay bẩm báo việc quan ở trước mặt. Trông rõ khí tượng một vị quan lớn hách dịch, quyền thế. Thanh kiếm Thượng phương nạm vàng tua đỏ, treo bên chỗ ngồi, càng chứng tỏ quyền thế quan lớn thêm to; ấy là dấu hiệu của bực đại tướng, nguyên nhung, được phép tiện nghi hành sự, tiền trảm hậu tấu.
- Thế nào, chú đội! Ngô cầu hất hàm nói mà cặp mắt lồng trong mục kính không thèm ngó lên. Việc ta giao cho chú xét hỏi người đạo sĩ lạ lùng ấy đã xong chưa?
- Bẩm cụ lớn, xong rồi! Thầy đội chắp tay nói kính cẩn từng tiếng. Hôm nay, chúng con vào hầu cốt để phục mệnh.
- Thế ư?
-Dạ.
- Vậy, người đạo sĩ ấy có chỗ nào tung tích khả nghi không?
- Không thì sao luôn trong mấy ngày hắn ta lảng vàng ở quanh dinh ta, như có vẻ muốn dòm hành gì thế?... Chú có khám xét kỹ trong người hắn không?
- Bẩm, đó là việc chúng con lưu ý trước nhất. Khám kỹ từ trong người cho đến tay nải tùy thân và cả nhà trọ nữa, ngoài ra mấy quyển sách kinh tán bốc phệ, tuyệt nhiên không có lấy mảnh sắt hay một chéo giấy nào tỏ ra hình tích đáng ngờ. Xét ra đạo sĩ chỉ là một nhà tu hành, chuyên môn về thuật số...
- Ấy chết! Không khéo chú bị chúng nó giả trang lừa dối đấy! Ngô Cầu ngắt lời thầy đội và nói. Đời này chúng nó quỷ quyệt lắm, bộ áo cà sa có thế giấu mặt thật của một tên gian tế, một kẻ mưu sĩ bên địch mà mình không ngờ. Vậy chú có tra hỏi hắn ta là người ở đâu?
- Bẩm, chính người ở xứ Sơn Nam, vì thế không có chỗ nào ngờ được là gian tế hay mưu sĩ bên địch trá hình! Thày đội chậm rãi đáp. Chúng con đã xét tung tích đạo sĩ quả người Sơn Nam, bỏ nhà đi tu từ hồi còn nhỏ, lần mò vào Ngũ Hành Sơn, ở trong hang núi học đạo trải ba chục năm, giờ mới hạ sơn, lấy nghề thuật số mưu sinh, tìm cách trở về quê quán.
- Nhưng có điều ta lấy làm băn khoăn lạ lùng nhất, là sao hắn ta cứ tối ngày vơ vẩn ở trước dinh này, mắt dòm lên trời, khi reo, khi cười, khi vỗ tay mừng rỡ, khi nói gì lầm rầm một mình, làm như thằng điên, là nghĩa thế nào?... Mà không phải một chốc một lát, kỳ thật suốt bảy tám hôm nay, hôm nào cũng thế. Vì đó ta cho là đáng ngờ, truyền lệnh cho chú nã tróc, xét hỏi cho ta. Thế chú có hỏi và tại sao có những cử chỉ kỳ quái ấy không?
- Bẩm, có ạ!... Đạo sĩ thủ thật rằng từ hôm đến thành Phú Xuân này, liền trông thấy những vầng mây ngũ sắc, cuồn cuộn từ trên không trung, tỏa xuống nóc dinh trấn thủ, cho nên ngày nay ông ham mê đứng xem, nhận thấy vượng khí trời đất chung tụ ở đây, khiến ông không sao đừng được vui mừng, đến nỗi có những cử chỉ kỳ quái trước mắt thiên hạ...
- Ha! Ha! Chú bảo rằng ông đạo sĩ trông thấy những vầng mây ngũ sắc? Ngô Cầu hớn hở cười hỏi và bây giờ mới ngước mắt lên nhìn thầy đội.
- Dạ, ông nói trông thấy rõ ràng.
- Những vầng mây ấy tỏa xuống nóc dinh Trấn thủ ta đây?
- Dạ, ông tả hình dạng như nhưng rồng phượng che phủ lấy dinh này, mà con mắt kẻ thường không thể nhận thấy.
- Thật thế?
- Bẩm vâng, chúng con không dám nói sai tí nào; cụ lớn tự hỏi đạo sĩ khắc biết.
- Ừ, chứ đi dẫn ông ta lên đây cho ta hỏi chuyện ngay, nhé! Ngô Cầu bảo thầy đội và giục quân hầu sửa soạn pha nước, rồi tự nói rầm rì một mình. Quái lạ! Thảo nào đêm hôm nọ ta nằm mộng thấy mặt trời rơi trúng đỉnh đầu ta, lửa bắn tung tóe. Chắc hẳn là giai triệu đây!
Ngô Cần làm tôi chúa Trịnh, đã phong tới bực quận công, đại tướng, phú quý tột vời, nhưng không phải là con người tự biết mình chỉ gặp thời dựa thế mà lên, chẳng có tài đức gì; con người không tri túc, trong lòng chứa đầy tham vọng cao quá tầm sức, ngấm ngầm muốn trèo lên đến ngôi đại vương, chư hầu nghênh ngang vua chúa, một cõi như ai kia. Cho nên khi nghe nói đạo sĩ trông thấy vượng khí chung tụ ở dinh mình, Ngô Cầu khấp khởi mừng thầm, tưởng chắc thiên vận đã đến, muốn giáp mặt đạo sĩ để hỏi cho rõ.
Đạo sĩ theo chân thày đội khúm núm bước vào đến trước mặt Ngô Cầu, hai mắt nhìn sững từ trên mái nhà xuống đến sập Ngô cầu ngồi, đầu gật gù, miệng tấm tắc không ngớt, trong lúc chính Ngô cầu cũng sửng sốt về trạng thái của đạo sĩ, chưa kịp hỏi han gì, đạo sĩ đã sụp mình xuống đất, lạy lấy lạy để, vừa lạy vừa nói lia lịa:
- Trăm lại đại vương! Nghìn lạy điện hạ!... Thật quả khí thiêng chung đúc, mây lành giáng lâm... Đó, đó, ngũ sắc tường vân từ trên trời tỏa xuống, xuyên qua mái nhà, phù khắp một vùng, quanh sập đại vương điện hạ đang ngồi, không ai trông thấy, nhưng bần đạo trông thấy rõ ràng: sắc mây tuyệt đẹp, báo ứng, điềm lành...
Đạo sĩ còn một nói nhiều nữa, nhưng Ngô cầu vội vàng gạt đi:
- Ồ! Đạo sĩ chớ có nói nhảm, ta là đại tướng khâm mệnh của triều đình thì có, chứ phải đại vương điện hạ gì đâu!... Mời ông ngồi chơi uống nước nói chuyện.
- Bẩm ngài, hiện thời ngài là đại tướng, nhưng nay mai sẽ tiến phong đại vương. Đạo sĩ lại vái dài Ngô Cầu và nói.
- Chết nỗi! Mệnh trời đã xếp đặt đâu đó an bài, ông đừng nói chuyện cuồng dại mà đắc tội sát thân cả núi đấy, biết không? Ngô Cầu nói ra vẻ nghiêm nghị, nhưng trong bụng thì đắc ý thầm.
- Tâu đại vương, thiên mệnh một khi đưa đến, người ta muốn chối từ cũng chẳng được nào! Tống Thái Tổ khi xưa không phải là một viên đại tướng ở triều nhà Chu đấy ư? Nhưng đến lúc Trần Kiều binh biến, tướng sĩ cứ khoác áo hoàng bào vào mình, rồi la bá tung hô vạn tuế, vậy là trở nên thiên tử. Nay ngài nam chinh bắc phạt, lập công với triều đình đã nhiều, Lê Hoàng và Trịnh vương nghĩ đến công lao ấy, có thể tấn phong vương tước cho ngài, để làm phiên vương chư hầu ở đất Thuận Hóa này, bần đạo dám quyết là việc phải có, vì thấy tường vân hiến hiện đây kia.
Ngô Cầu nghe khoái ý, tiếp đãi đạo sĩ hết sức niềm nở. Bấy lâu vẫn ôm cái mơ ước thầm kín là được phong vương ở một nơi nào, nay nghe đạo sĩ nói trúng tim đen, không khác gì gãi vào chỗ ngứa.
- Ông bảo tường vân năm sắc từ trên tỏa xuống quanh chỗ tôi ngồi, nhưng sao tôi và mọi người không thấy gì cả? Ngô Cầu hỏi căn vặn, có ý còn ngờ vực.
Đạo sĩ ung dung đáp:
- Chỉ có mắt bần đạo mới nhận thấy được thôi.
- Tại sao thế?
- Bẩm ngài, bần đạo tu hành ở chốn danh sơn động phủ trải ba chục năm, ngày nào cũng trông mây nhìn trời để luyện thần nhỡn, cho nên quen mắt đi... Những sự vật mà người phạm tục không thấy, bần đạo thấy rõ.
- Nhưng sao tường vân đã hiện, lại không cho ai cũng có thế trông thấy như hai năm rõ mười?
Câu hỏi thắc mắc và đúng lý luận của Ngô Cầu làm cho đạo sĩ hơi lúng túng về sự trả lời. Nhưng kẻ dụng tâm không thiếu gì cách nói. Đạo sĩ mỉm cười, đầu gật gù, làm như đang chú ý xem mấy câu đối sơn treo cột, song thật ra để hoãn thời giờ, suy nghĩ câu đáp:
- Thưa ngài, tường vân khi ẩn khi hiện, vốn là tùy theo điềm lành cao hay thấp, ít hay nhiều...
- À, có chỗ phân biệt như thế? Ngô Cầu ngắt lời, hỏi.
- Vâng, đám tường vân này ẩn, cho nên ngài sắp được lên ngôi phiên vương, nếu như nó hiện rõ để ai cùng trông thấy được, thì ngài đã là chân mệnh thiên tử, chứ không phải vừa.
Ngô Cầu được bom hót trúng tim thích chí quá, vuốt râu cười ha hả, day mặt sang phía tả, gọi một cô thị nữ châm thuốc.
Giữa lúc ấy, đạo sĩ bỗng dựng phắt lên, hấp tấp đến bên cạnh Ngô Cầu, nhìn tròng trọc vào gò má bên hữu, rồi chép miệng chắt lưỡi, thở vắn than dài:
- Châu cha! Tiếc quá!... Tiếc quá!
Ngô Cầu giựt mình và lấy làm lạ, nhìn sững đạo sĩ, hỏi dồn:
- Có chuyện gì mà ông thở dài và nói tiếc quá, như thế?.,. Tiếc là tiếc cái gì?
- Vâng, tiếc thật! Đạo sĩ vừa nói vừa lắc đầu, như người có ý nghĩ không được thỏa mãn. Vâng, tiếc quá, thưa ngài... Té ra tại cái nám đen này giờ ngài day mặt tôi mới trông thấy... Ồ, thảo nào!...
Trước thái độ lạ lùng vả lời nói giống một của đạo sĩ, Ngô Cầu lo ngại, hồi hộp, giục thị nữ đem gương ra tự so, cặp mắt âu sầu, bàn tay xoa đi xoa lại trên gò má:
- Ừ, chỗ này có cái nám đen này có can hệ gì không hả, ông?
- Can hệ lắm! Đạo sĩ đáp, dằn từng tiếng nói. Chính nó làm cho ngài trắc trở chậm trễ trên đường công danh phú quý.. Đừng có nó thì ngài đã tấn tước phong vương lâu rồi.
- Thế à?
- Vâng, chính thế!... Bần đạo xem xét tướng mạo người ta không sai bao giờ.
- Liệu có cách gì tiêu trừ nó đi được không?
- Thưa có.
- Vậy ông làm sao tiêu trừ nó đi hộ tôi nhé, tôi xin báo đáp cực hậu. Nhưng mà cách tiêu trừ thế nào?
- Bẩm ngài, bần đạo nghĩ ra đấy chỉ là một vầng sát khí, bởi xưa nay ngài cầm quân đi nam chinh bắc phạt, không khỏi chém giết nhiều...
- Ồ, tôi làm việc vua quan, phận sự bắt buộc, chứ nào có phải bản tâm? Ngô Cầu chận lời đạo sĩ mà tự chữa mình.
- Đã đành rằng thế! Đạo sĩ cười nói. Nhưng mà bao nhiêu hờn oan quỷ đói cũng phụ thác quanh quẩn bên ngoài, để cầu siêu độ. Cái nám đen từ đó hiện ra. Bây giờ chỉ có cách tiêu trừ, là đặt một đàn chay thủy lục bảy đêm ngày thật linh đình long trọng, để tụng kinh siêu độ cho những vong hồn chiến sĩ, tự nhiên ngài được tấn phong vương tước chỉ trong sớm tối. Nếu không đúng như vậy, thì ngài cứ cho kê đầu bàn đạo trên thớt mà chặt nghiến ổi... Ngài còn lạ gì, việc đời thường khi trở ngăn bởi một cớ rất nhỏ, hai đàng vẫn có liên lạc quan hệ mà người ta không dè. Ví dụ ta đi đường, chỉ một cái gai nhỏ tí, cắm vào gót chân, đủ khiến ta phải khập khễnh mà đi chậm lại, chừng nào nhổ được nó ra mới có thể lẹ bước tiến mau. Cái nám đen trên gò má ngài tức là mũi gai nhỏ tí đó!
Mấy lời đạo sĩ giảng giải vừa khôn khéo vừa xuôi tai, như gãi đúng vào chỗ ngứa của Ngô Cầu là người kiêu căng, tham vọng mà lại mê tín dị đoan. Giờ thấy nét mặt Ngô Cầu trở lại tươi tỉnh, hớn hở, đầy vẻ tự cao, tự đắc:
- Ha ha! Tưởng là việc khó khăn thế nào, chứ làm đàn chay siêu độ thì ta có thể nay nói mai làm được ngay. Vậy công việc thiết lập đàn chay, tôi ủy thác cả cho ông, ông trông nom giúp tôi nhé!... Quân lính bộ hạ của tôi đó, tha hồ ông sai khiến phục dịch!... Đồ mã phải làm đủ thứ!... Ta lập cả đàn Mông Sơn, phá ngục!... Vời hết thảy tăng ni ở Thiên Mụ và các sơn môn về đây!... Tóm lại, tôi không ngại sự tốn kém cứ việc làm đàn chay thế nào thật lớn, thật sang, thật trọng thế, chẳng những siêu độ vong hồn, lại cho tất cả binh sĩ nhân dân ở thành Phú Xuân này, cùng được lễ bái, cùng được bố thí, sao cho xứng đáng là một đám chay của quan Trấn thủ đứng làm, mà người ở đây thuở giờ chưa hề được thay...
Đạo sĩ trước làm bộ từ chối công việc tổ chức mà Ngô Cầu định giao cho mình, sau nài nỉ mãi thì mới chịu nhận:
- Bần đạo muốn xây đắp đàn trường tứ phương ngũ hành ở ngay trước dinh, cho ra vẻ một đàn chay của bực vương công quyền quý nhất đời... Thể tất phải dùng đến binh sĩ, cờ xí, gươm dáo, để bố trí cho cực uy nghiêm, nhưng e quân sĩ không chịu tuân lệnh một thầy sãi thì làm thế nào?...
- Điều ấy ông chớ lo! Tôi sẽ hiệu lệnh tất cả tướng sĩ bộ hạ phải thuộc quyền ông sai phái, cắt đặt, kẻ nào bất tuân thì có quân pháp.
- Nếu vậy thì bần đạo xin phụng mệnh. Nay mai ngài trèo lên tột bực tôn vinh hiển hách ở đời, bần đạo chỉ xin ngài nhớ công lao hôm nay mà cho một ngôi chùa nho nhỏ làm chỗ tu hành, để trọn đời ôm chân nấp bóng ngài, thế là mãn nguyện.
Ngô Cầu vui cười hể hả, không ngần ngại khôi hài với một thầy tu:
- Cứ việc tận tâm tận lực giúp tôi đi!... Một mai ông muốn rước cả chị Hằng xuống ở chung cho đỡ buồn, tôi cũng cho ngay.
Đoạn, lại nói tiếp:
- Ông tính xếp đặt đám chay này vào khoảng nào thì có thế cứ hành được?
- Bẩm, xin nhất định vào chầu hạ thần tháng 5 này! Đạo sĩ tính đốt ngón tay rồi trả lời nhanh nhẹn.
Hôm ấy là 27 tháng 5 năm Bính Ngọ; đàn chay linh đình của Phạm Ngô Cầu thiết lập đã đến ngày thứ năm hay thứ sáu, rộn rực cả thành Phú Xuân.
Bộ binh và thủy binh Tây Sơn đông như kiến, hiện như ma, nhanh như gió, rần rộ đến sát chân thành, giữa lúc bên trong: chuông trống đàn chay đang inh ỏi, hàng trăm vị sư đang tụng kinh ê a. Phạm Ngô Cầu đang lạy nghi ngúp, quân sĩ đang say sưa vì được nghỉ ngơi, mệt mỏi vì đã phục dịch.
Nếu đội quân canh gác không nhanh tay kịp đóng cửa thành lại, thì dễ thường quân Tây Sơn vào thẳng đến trước đàn chay, bấy giờ người ta mới biết.
Nguyên từ hôm Nguyễn Phu Như đi sứ vào Quy Nhơn đem nội tình Phú Xuân kể cho cống Chỉnh nghe; cống Chỉnh liền khuyên vua Tây Sơn nên thừa cơ hội này phát binh đánh úp lấy Thuận Hóa, đế mở mang thêm rộng bờ cõi. Thái Đức hoàng đế y theo lời tâu ấy, lập tức phong ngự đệ Long nhương tướng quân Nguyễn Huệ làm nguyên soái, Tổng thống quân vụ; phò mã Võ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc; Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, dẫn binh thủy lục, phân làm ba đội cùng tiến đánh Phú Xuân.
Nam quân - tức quân Tây Sơn - khởi hành ngày 13 tháng 5, đến ngày 24 thì bộ binh qua Hải Vân quan; đối với phương pháp giao thông và cuộc hành binh ở đời bấy giờ, như vậy kế là nhanh chóng Hoàng Nghĩa Hồ, tướng Trịnh giữ đồn An Nông là đồn địa đầu, bị đánh bất ngờ tất cả bốn mặt, chết gục trên mình voi sau khi chiến đấu đã kiệt lực. Nam quân chẹn đường chém giết và bắt trọn Bắc quân, không để một tên nào chạy thoát ra Phú Xuân cáo cấp. Thành ra Nam quân ung dung đến thẳng trước mặt thành trì.
Đang lễ hì hụp, nghe dưới đàn chay xao xuyến, bộ hạ chạy xuôi chạy ngược, kêu gọi nhau ràng quân tiền đội giặc Tây Sơn đã tới đóng trước thành, Ngô Cầu xám ngắt mày mặt, líu lưỡi, luống cuống cả người, vội vàng chạy xuống dưới đàn, suýt vấp ngã hai ba lần, đụng ai níu người ấy lại mà hỏi dồn hởi dập, thở chẳng ra hơi:
- Chết chưa!... Giặc... giặc đã đến chân thành ta, thật... thật à?
- Dạ, bẩm cụ lớn, thật thế!... Chúng nó đến đen như kiến ở trước cửa thành kia kìa!... Xin cụ lớn hiệu lệnh, kháng chiến thế nào không thì hỏng mất,
Một viên vệ úy trả lời Ngô Cầu thế rồi vội vã cắm đầu chạy miết về trại. Ngô Cầu lại gọi giựt người khác mà hỏi:
- Trời ôi! Quân giặc có cánh bay từ trên mây sa xuống ư?
- Bẩm, không biết chúng nói ở trên trời hay ở đâu sa xuống, chỉ biết chúng nó hiện đóng hằng hà sa số ở chân thành, đang trí súng thần công, sắp sửa khai pháo...
Người bị hỏi là một viên xuất đội, trả lời xong rồi cũng tìm đường chạy nốt.
Tất cả đàn chay rối rít, mạnh ai nấy chạy. Các ông sư bà vãi ôm áo cà sa cùng chuông mõ, tính quýnh tẩu tán như vịt. Quân sĩ phần nhiều uể oải, đi không muốn vững, vì đã phải khó nhọc phục dịch mấy hôm. Lắm chú vênh váo bướng bỉnh như Tam phủ Kiêu binh ở Thăng Long, bàn nhau thoát thân cửa hậu, chả tội gì đánh nhau với giặc mà chết.
Thấy tình hình rối loạn, lòng quân tan lìa, càng bối rối hoảng sợ già, lại không biết lâm cơ ứng biến thế nào, chỉ thấy mặt tái không còn sắc máu, chân thì run lẩy bẩy, vừa đi chập choạng vừa hô gọi líu tíu:
- Quân ta lên cả mặt thành ứng chiến, mau mau!... Đi tìm ông Phó tướng lại đây cho ta!... Còn ông đạo sĩ đâu? Bay mời ngay vào dinh để tao sai bói một quẻ, xem việc hành binh cát hung ra sao cho biết!...
Tình cờ, Phó tướng Hoàng Đình Thể vừa đến nơi, đã nai nịt chỉnh tề, cốt tìm Ngô Cầu để bàn việc quân và chờ tướng lệnh. Nghe rõ mấy lời sau chót Ngô Cầu vừa mới thốt ra. Đình Thể cười gằn và nói:
- Chết rồi! Giờ khắc này mà ông còn mơ tưởng ông đạo sĩ nữa à?... Đạo sĩ gì? Nó là tay gian tế của quân giặc sai đến Phú Xuân trước để xem xét binh tình, và bày trò dị đoan để trác ông đó... Bây giờ chỉ có việc kháng chiến đáo để, không thì chết tươi cả lũ!
Ngô Cầu trợn mắt tròn xoe, dấu tỏ bất bình về khoản Đình Thể buộc tội đạo sĩ, nhưng không muốn cãi nhau về chuyện đó vội, hãy lo cắt đặt việc quân khẩn cấp hơn:
- Ta phân binh ra làm ba, tôi ở trong giữ thành, ông đem quân ra ngoài đối địch với giặc nhé!
- Thưa ông, đấy là tướng lệnh, hay chỉ là một ý kiến nói giả tỉ mà nghe thế thôi? Đình Thể cau mặt hỏi, có ý hậm hực, vì bấy lâu vẫn khinh ghét Ngô Cầu.
- Đấy là tướng lệnh, không phải chuyện chơi! Ngô Cầu trả lời quyết liệt.
- Vâng, tôi xin đem quân ra ngoài thành đối địch! Đình Thể nói và quắc mắt nhìn Ngô Cầu chăm chăm. Nghĩa là ông đem cái chết mười phần chắc mười, đặt lên mình tôi đấy!... Được rồi, Đình Thể này quyết chiến với giặc đến cùng, đâu có sợ chết. Thôi xin chào ông, để tôi đi làm việc nghĩa vụ; tình thế khẩn cấp lắm rồi.
Đình Thể nói đoạn, day gót đi liền.
Giữa lúc ấy, súng thần công của Nam quân ở ngoài bắn vào trong thành đùng đùng, đốt cháy nhà dân và dinh thự nhiều chỗ.
Mấy hôm trước lũ trên rừng đổ về như tháo, mặt nước sông Hương dâng lên cao, súng thần công Nam quân đặt trên thuyền chiến, có thể nhắm bắn vào thành rất trúng đích.
Tuy vậy, đạo binh Hoàng Đình Thể dựa lưng vào thành, đánh nhau với Nam quân ở trên bộ cực kỳ anh dũng, khiến Nam quân không thể lại gần mà hòng hãm thành. Có khi Đình Thể lại bắn chìm một hai chiến thuyền Nam quân ở trên sóng Hương, mà súng thần công của đạo binh Ngô Cầu đặt trên mặt thành bắn ra, rõ ràng được thế trên cao đánh xuống, lại không ăn thua gì; đạn chỉ rơi xuống nước lõm bõm, làm khổ bầy cá vô tội thì có.
Xông pha mũi tên hòn đạn, Đình Thể ngang nhiên cưỡi voi đi lược trận ở trên mé sông, nhận rõ cống Chỉnh ngồi trên một chiếc thuyền chiến đi xuôi, cất tiếng gọi to và nói:
- Chào ông cống Chỉnh, đi đâu mà vội vàng thế?... Ông đi rước voi thiên hạ về dày đạp mồ mả ông bà, tàn sát anh em đồng loại thế này, anh hùng đấy nhỉ?
Chỉnh nghe nói đâm họng, có ý hổ thầm, lại trông rõ Đình Thể, không nói năng gì cả, chỉ ra hiệu cho quân thủ hạ bắn phóng lên bờ một loạt độ dăm chục mũi tên, và hối thủy thủ chèo thuyền cho mau, đi thẳng.
Tối hôm ấy, Huệ với Chỉnh tới bản doanh đóng ở Phủ Cam, thương lượng quân sự:
- Viên tướng Bắc quân cưỡi voi đó, tên là gì? Huệ hỏi Chỉnh. Người đã có tuổi mà tôi xem rõ là một tay thiện chiến đáo để.
- Bẩm thượng công, hắn là Hoàng Đình Thể, tôi biết. Chỉnh đáp.
- Có phải là bộ tướng của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, từng theo ông này vào Quảng Nam, đã giao chiến với quân ta ở trận Cẩm Lệ năm xưa?
- Thưa, chính là hắn ta.
- À, Đình Thể là một trong số năm hổ tướng Bắc Hà, có tài thiện chiến nổi tiếng, tôi nhớ hình như người Đàng ngoài đã gọi hắn là “Lão tướng Hoàng Trung”, có phải thế không?
- Bẩm có thể.
- Nếu vậy thì ta phải tìm cách trừ thằng cha ấy trước, mới có thể mau hạ được thành Phú Xuân... Mấy hôm nay hẳn ta kháng chiến rát quá!.. Tiên sinh hẳn có diệu kế để nhổ cây đinh trong mắt, lể mũi gai cản đường ấy đi?
- Thượng công chẳng hỏi, chính tôi cũng đã có ý muốn bẩm báo về chuyện đó. Thưa, Phạm Ngô cầu là phường nhút nhát bất tài, thì nghiễm nhiên ở ngôi chủ tướng, còn Hoàng Đình Thể lão thành thiện chiến, lại phải phụ thuộc dưới quyền một kẻ thua kém mình đủ mặt.
Đình Thể vẫn tấm tức âm thầm bất phục Ngô Cầu. Hai người chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng nhau. Sự tình éo le ấy giúp sức cho ta, chỉ thi hành một kế phản gián là đủ vật ngã cả đôi...
- Kế phản gián thế nào mà vật ngã cả đôi? Huệ hỏi săn đón, nóng nảy muốn biết.
Chỉnh ghé bên tai nói nhỏ mấy câu, làm cho Huệ hớn hở, vỗ tay cả cười:
- Hay!... Kế ấy hay thật! Vậy tiên sinh viết cho bức thư ngay đi!
Lập tức cầm bút đặt giấy, Chỉnh viết loay hoay một lát xong bức thư, xem đi xem lại mỉm cười đắc ý, rồi trao tay cho Huệ và nói:
- Bẩm, thư tôi viết đây, nhưng sự thành bại còn phải quan hệ ở cách truyền đạt cho khéo mới được:
Huệ tiếp lấy bức thư đọc qua, cũng mỉm cười đắc ý, khoan thai hỏi Chỉnh:
- Theo ý tiên sinh, cách chuyến đạt nên làm thế nào thì hơn?
- Tôi nghĩ nên bắn theo mũi tên là diệu hơn cả. Chỉnh đáp.
- Ồ!... Nếu thế thì lại phiền đến “Nữ Dưỡng Do Cơ” của ta chứ còn ai?
- Ngài có đem theo trong quân?
- Có!... Có!... Thuở nay không có khi nào đi chinh chiến mà nàng không theo quân!
Huệ nói rồi, sai người đi triệu ngay Thị Xuân đến cho Chỉnh dặn dò cách thức và bảo chỗ đưa thư.
Tang tảng hôm sau, trời còn mờ mờ, chưa thể nhận rõ mặt người, Thị Xuân buộc thư vào mũi tên sẵn sàng, cỡi ngựa đen trước nam môn, réo gọi ông Hoàng Đình Thể, có thư của cống Chỉnh gửi đây này, ra mà nhận lấy. Quân sĩ trên thành, nhắm chừng tiếng nói mà bắn xuống rào rào, chứ không trông thấy ai cả. Bấy giờ Thị Xuân mới đặt tên vào cung, nhắm rất thân thiết, bắn lên vọng lâu, mũi tên cắm chặt vào cột giữa; thế rồi nàng tế ngựa chạy.
Vọng lâu cửa nam là chỗ Ngô Cầu vẫn ngồi giám trận, ốp quân giữ thành.
Bức thư đáng lý đưa cho Đình Thể đã lọt vào tay Ngô cầu.
Quân canh nhổ lấy bức thư, đánh thức Ngô Cầu dậy để trình. Ngô Cầu ra trước ngọn đuốc, xem bức thư vắn tắt sau này:
“Đồng Châu Hoàng tướng quân túc hạ. Túc hạ đã hiểu rõ thời thế và thể tất lòng tất của tôi, mà tình nguyện hiến thành, vậy xin y ước đêm mai, trước giờ tý, mở cửa thành cho Nam quân tiến vào. Túc hạ thừa cơ lấy đầu Ngô Cầu làm lễ tiên kiến, ấy là quân công thứ nhất. Đệ đã sai người về Quy Nhơn, tâu xin Tây Sơn hoàng đế sắc phong túc hạ là Phủ Xuân vương, trấn giữ Thuận Hóa đời đời.
Cố nhân Hữu Chỉnh bái thư. ”
Ngô Cầu xem xong, vừa tức vừa sợ, càu nhàu nói một mình:
- À!... Thằng khốn nạn này mưu mô hiến thành đầu hàng, bán đầu ta cho giặc! Nhưng quyền chủ tướng ở ta, ta đóng chặt cửa thành thì nó lấy gì mà hiến?
Đoạn, suy nghĩ trong trí:
- Đình Thể mà hàng thì còn lấy ai chống với quân giặc?.., Vả lại, Tây Sơn binh ròng thế mạnh quá, chống cự cũng chẳng được nào!... Chi bằng ta cho người dò ý Tây Sơn nếu họ chịu theo điều khoản ta xin, thì ta cũng hàng trước cho xong.
Dưới chân thành, hai bên vẫn xung sát dữ dội. Những tiếng súng nổ, quân reo, loa truyền, trống giục, làm rung động cả dòng nước Hương Giang, vách tường Phú Xuân. Đình Thể ngồi trên mình voi đốc chiến, lấy sức một chọi năm, giết hại Nam quân vô số. Nhiều lần Nam quân ồ ạt phá thành, đều bị bộ hạ Đình Thể tung máu thịt ra đánh lui. Quân hai bên chết nằm ngổn ngang, từ chân thành ra đến bờ sông, và trên mặt nước, chỗ nào ràng có. Trời tháng năm nóng nực, người ta mải miết đánh nhau luôn mấy đêm ngày rồi, bỏ mặc tử thi chẳng ai lượm lặt chôn cất, mùi hôi thối xông lên ghê tởm.
Xế chiều Đình Thể hết cả đạn dược, sai người gõ cửa thành xin thêm đạn dược và binh tiếp tế. Ngô cầu giả điếc làm ngơ, không nói gì hết, chỉ truyền quân lính canh gác các cửa thành kỹ lưỡng, chớ để một tên quân nào của Đình Thể lọt vào.
Quân sĩ chết dần mòn thuốc đạn thì đã hết, mà đợi mãi không thấy viện binh trong thành ra, Đình Thể chạy đến nam môn nhờ lính gác mở cửa cho mình vào gặp mặt chủ tướng Ngô cầu.
Lính gác trả lời bằng một loạt súng bắn xuống. Một quả đạn trúng vào chân con voi Đình Thể cưỡi. Voi đau kêu rống và chạy, viên quản lượng kềm mãi mới được.
Đình Thể ngảnh mặt trông lại, thấy kỳ đài trong thành đã treo cờ trắng bay phất phới, sóng giận dâng đầy ruột gan, thúc voi trở về mặt trận, gọi bộ tướng Vô Tá Kiên, và đốc chiên Nguyễn Trọng Đang, ứa nước mắt nói:
- Thằng phản quốc, thằng hèn nhất Phạm Ngô Cầu đã treo cờ đầu hàng quân giặc rồi các ông ạ!... Các ông tự xử lấy mình thế nào tùy ý, còn cha tôi thì quân giặc sẽ bới thấy xác ở chỗ này!
- Chúng tôi xin chết theo tướng quân.
Mặt mũi nào phụ nước mà hàng giặc cho đành? Võ Tá Kiên và Nguyễn Trọng Đang cùng nói:
Lúc ấy thuyền Chỉnh đậu khít mé sông, Chỉnh ngồi chễm chệ trên mui thuyền đốc chiến, giữa bốn cây lọng xanh và lá cờ lệnh oai nghiêm trước gió, sai lính bắc loa réo gọi Đình Thể chiêu hàng:
- Bớ lão tướng Hoàng Đình Thể!... Đầu hàng thì ta tha chết cho!
Đình Thể gầm thét như con hổ đói, muốn vồ lấy thịt cống Chỉnh mà nhai ngấu cho đã thèm:
- Phản tặc cống Chỉnh ơi! Mi cõng rắn về cắn gà nhà, để xem có được trọn đời an hưởng phú quý không, nhớ!
Đồng thời miệng nói, tay ra hiệu cho hai người con lấy cung tên nhắm thẳng cống Chỉnh bắn luôn mấy phát; cống Chỉnh phải cúi rập mình xuống để tránh tên.
Thế rồi ba cha con Đình Thể và Trọng Đang, Tá Kiến chia nhau mỗi người một ngả, đông xung tây đột, hò hét đánh giết, Nam quân tới đâu rạp đó. Nhất là Đình Thể giục voi xông bừa vào trận, tay múa trường đao, chém bên tả, đâm bên hữu, dũng mãnh đáo để, Nam quân không dám lại gần.
Một chặp, thế cô lực kiệt, quanh mình chỉ còn vài chục thủ hạ,
Đình Thể biết thế không đánh được nữa, nếu chậm thì bị giặc bắt sống, liền rút gươm đâm cổ tự sát trên lưng voi, sau khi hét rống mấy tiếng: Trời hại ta! Trời hại ta!
Hai người con trọng thương giữa trận, đều bị Nam quân bắt sống. Trọng Đang và Tá Kiên cùng chết trong đám loạn quân.
Sáng hôm sau, Nguyễn Huệ chỉnh tề đội ngũ, uy nghi hùng tráng, rần rộ kéo vào trong thành Phú Xuân.
Ngô Cầu bày bàn hương án phía trong cửa chính, mặc áo thụng xanh, thân ra đón trước đầu ngựa Nguyễn Huệ, vái rạp đến đất, trình những sổ bộ kho tàng và đinh điền xứ Thuận Hóa.
Huệ niềm nở an ủi Ngô Cầu, bảo hãy về dinh ở yên chờ lệnh.
Nam quân vào thành tìm người Thanh Nghệ mà chém giết, bất cứ là quân sĩ hay thường dân, vì cho là một tụi với kiêu binh Tam phủ đã làm loạn xứ Bắc. Thêm cư dân trong thành cũng bị vạ lây, số quân dân Bắc Hà chết oan đến một hai vạn, nhuộm đỏ mặt đất Phú Xuân.
Cống Chỉnh trông thấy thảm trạng ấy mà không dám mớ miệng nói gì để cứu với anh em đồng hương, cho nên càng bị người Bắc Hà khinh bỉ thù ghét.
Không để việc quân trễ nải một phút nào, Huệ lập tức phái một đạo binh ngay hôm ấy lên đường, tiến ra đánh lấy hai đồn Cát Doanh và Đông Hải, nghĩa là lấy hết địa giới của Nguyễn chúa khi trước. Thành ra Tây Sơn trở nên lân quốc Bắc Hà.
Riêng phần Ngô Cầu thấy chủ tướng Tây Sơn đối với mình tử tế, trong dạ khấp khởi mừng thầm, tưởng chắc bề nào họ cũng nghĩ lại công mình hiến thành quy thuận, mà để cho ở nguyên chức Trấn thủ xứ này và tặng thêm quả ấn phiên vương.
- Nếu vậy thì chỉ có cuộc diện thay đổi thôi! Ngô Cầu nghĩ thầm trong trí. Còn ta vẫn nghiễm nhiên là ta, mà lời đoán vận mệnh của ông đạo sĩ hôm nọ cũng vẫn là!...
Nửa buổi hôm sau, có lệnh triệu Ngô cầu đến hành dinh của Hữu quân đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh có việc.
Đến nơi, thấy trước thềm bày sẵn một cái cũi to và binh lính rộn rịp, Ngô Cầu tái mặt, giựt mình, chưa kịp chào hỏi gì đã nghe Chỉnh gọi đích danh mà nói nghiêm nghị như là truyền lệnh:
- Phạm Ngô Cầu! Chui vào cũi kia để người ta đưa đi Quy Nhơn!
- Đi Quy Nhơn làm gì? Ngô Cầu run và hỏi, thừa hiểu số phận đợi mình ra sao.
- Cứ vô đó sẽ biết! Chỉnh đáp vắn tắt,
- Thế ra Tây Sơn các ngươi phụ ước với ta ư?
- Ước gì mà phụ?
- Ta đã giao hẹn hiến thành quy hàng thì phong tước thiên vương, vẫn trấn thủ Thuận Hóa; chính các ngươi đã nhận điều ấy với người mà ta sai đến thương thuyết hôm trước?
- Có lẽ người ông sai đi, đã nghe lầm thế nào đấy! Chỉnh nói và mỉm cười. Phong ông làm Diêm vương, chứ phiên vương hãy còn bé. Thôi, chui vào cũi đi, đừng nói nhiều!
Ngô Cầu khóc rống, mắng chửi cống Chỉnh thậm tệ. Rốt cuộc đành phải vào cũi để cho người ta đưa về Hoàng đế thành, làm lễ hiến phù trước nhà Thái miếu.