← Quay lại trang sách

Chương IV Ngày Lịch sử, 5 tháng Mười Hai

Sáng thứ Hai, tôi cùng vợ mình thức dậy sớm hơn bình thường. 5 giờ 30 chúng tôi đã dậy và ăn mặc gọn gàng. Ngày bắt đầu sự phản kháng đã đến, và chúng tôi phải được chứng kiến màn đầu của câu chuyện sắp sửa diễn ra này. Lúc này tôi vẫn cho rằng nếu sự kiện mạo hiểm này đạt được 60% tỷ lệ tham gia thì xem như đã thành công.

May mắn thay, có một trạm xe buýt nằm cách nhà chúng tôi chỉ 1 mét rưỡi, chúng tôi có thể quan sát màn đầu tiên từ cửa sổ nhà mình. Chiếc xe buýt đầu tiên thường sẽ đi ngang qua vào khoảng 6 giờ sáng. Chúng tôi chờ đợi tầm khoảng nửa tiếng mà tưởng chừng như dài vô tận. Tôi đang uống cà phê trong bếp thì nghe thấy Coretta kêu lên, “Martin, Martin, đến đây nhanh lên!” Tôi đặt ly xuống và chạy ra phòng khách. Khi tôi đến gần cửa sổ thì Coretta hồ hởi chỉ tay vào một chiếc xe buýt đang chậm chạp lăn bánh: “Anh ơi, nó trống không!” Tôi gần như không thể tin vào mắt mình. Tôi biết rằng chiếc xe đang đi ngang qua nhà chúng tôi thuộc tuyến South Jackson, là tuyến xe chuyên chở nhiều hành khách da đen hơn bất kỳ tuyến xe nào khác tại Montgomery, và chuyến xe đầu tiên trong ngày thường sẽ chở đầy những người giúp việc đến chỗ làm. Liệu tất cả những chuyến xe buýt còn lại cũng sẽ cứ thế giống y như chuyến đầu tiên? Hồi hộp, chúng tôi chờ đợi chuyến xe tiếp theo. Sau mười lăm phút, nó xuất hiện trên đường, và cũng như chuyến đầu tiên trống không. Chuyến xe buýt thứ ba xuất hiện, và lần này cũng vậy, nó trống không chỉ trừ hai hành khách người da trắng.

Tôi nhảy vào xe hơi của mình và dành gần cả một tiếng đồng hồ rảo quanh từng con đường chính và quan sát từng chiếc xe buýt đi ngang qua. Trong một giờ đó, là giờ cao điểm của giao thông buổi sáng, tôi chỉ thấy không hơn tám người da đen ngồi trên những chiếc xe buýt. Lúc này tôi cảm thấy một niềm vui hân hoan trong lòng. Thay vì tỉ lệ 60% tham gia mà chúng tôi mong đợi, mọi thứ đang cho thấy dường như chúng tôi đã đạt được gần 100%. Một phép màu đã xảy ra. Cộng đồng người da đen trước đây đã từng ngủ vùi và im lặng giờ đã hoàn toàn thức tỉnh.

Cứ thế trình trạng ấy kéo dài suốt cả ngày. Vào giờ cao điểm lúc xế chiều, những chiếc xe buýt vẫn vắng bóng hành khách người da đen như buổi sáng. Những sinh viên của trường Đại học Alabama State thường lấp đầy các xe buýt tuyến South Jackson, đang vui vẻ đi bộ hoặc xin đi nhờ. Nhân viên công chức thì chọn các phương tiện di chuyển khác hoặc đi bộ đến chỗ làm. Trong khi một vài người chọn đi taxi hoặc tự lái xe, những người khác dùng những phương tiện ít thông dụng hơn. Có những người đàn ông đã cưỡi la đi làm, và cả xe ngựa cũng thấy lác đác vài chiếc trên các con đường của Montgomery vào ngày hôm đó.

Vào những giờ cao điểm, rất nhiều những người lao động tay chân và người giúp việc đi bộ trên vỉa hè. Nhiều người trong số họ đã ngoài trung niên, cần mẫn cất bước đi làm rồi lại cất bước về nhà, đôi khi quãng đường có thể lên đến mười hai dặm (gần 20km). Họ hiểu vì sao họ phải đi bộ, sự nhận thức đó được thể hiện qua thái độ của họ khi bước đi. Và trong khi quan sát họ, tôi nhận ra rằng không có gì cao quý hơn lòng quả cảm của những cá nhân sẵn sàng nếm trải khổ cực và hy sinh vì tự do và nhân phẩm của họ.

Nhiều người bàng quan đã tụ tập tại các trạm xe buýt để theo dõi những gì đang diễn ra. Ban đầu họ đứng im lặng quan sát, nhưng khi ngày dần trôi qua, trông thấy những chiếc xe buýt trống không, họ bắt đầu reo hò, cười và pha trò. Người ta có thể nghe thấy tiếng của những đứa trẻ náo nhiệt hát “Hôm nay không có hành khách”. Theo đuôi mỗi chiếc xe buýt đi qua khu vực của người da đen là hai cảnh sát đi hai chiếc mô tô. Họ được phân công bởi các ủy viên Thành phố, những người đã rêu rao rằng do những “băng đảng du côn” da đen đã tổ chức khủng bố để ngăn chặn những người da đen khác đi xe buýt. Trong ngày đó cảnh sát đã bắt giữ một trường hợp, là một sinh viên đang giúp một phụ nữ lớn tuổi băng qua đường đã bị buộc tội “đe dọa hành khách”. Nhưng những “băng đảng du côn” chỉ là sản phẩm từ trí tưởng tượng của ủy ban Thành phố. Không có ai bị đe dọa hay khủng bố vì đi xe buýt cả, nếu có ai phải chịu bất kỳ áp lực nào, thì nó đến từ chính lương tâm của người đó.

Vào khoảng 9 giờ 30 sáng tôi, không theo dõi những hoạt động trên đường phố nữa mà đi về hướng đám đông tại tòa vi cảnh (xét xử các tội phạm nhỏ, ít nghiêm trọng). Tại đây bà Parks đang bị xét xử vi tội vi phạm luật lệ phân biệt chủng tộc của Thành phố. Luật sư của bà, Fred D. Gray - một người da đen trẻ tuổi tài năng, người sau này đã trở thành cố vấn chính cho phong trào biểu tình - đã có mặt và sẵn sàng bào chữa cho bà. Sau khi Thẩm phán nghe lập luận của các bên, ông kết luận bà Parks có tội và phạt bà mười đô la cộng thêm án phí (tổng cộng là mười bốn đô la). Bà đã kháng cáo phán quyết này. Đây là một trong những trường hợp công khai đầu tiên mà người da đen bị kết án vì bất tuân Luật phân biệt đối xử. Trước đây, những trường hợp như vậy thường bị bỏ qua hoặc những người trong cuộc sẽ bị phạt vì hành vi gây mất trật tự. Vì vậy, phải nhìn nhận một thực tế là việc bà Parks bị bắt và kết án có đến hai tác động: nó thúc đẩy những người da đen phải hành động tích cực; và nó là phép thử tính hiệu lực của đạo luật phân biệt đối xử. Tôi chắc rằng những người ủng hộ cho những cuộc khởi tố như thế này sẽ hành động khác đi nếu họ biết nhìn xa hơn sự việc đang diễn ra ngày hôm nay.

Trở về từ phiên tòa của bà Parks, Ralph Abernathy, E. D. Nixon, và Giám mục E. N. French - lúc bấy giờ đang là mục sư của Nhà nguyện Hilliard A. M. E. Nhà thờ Zion - đã bàn bạc với nhau về sự cần thiết phải có một tổ chức để hướng dẫn và định hướng cho cuộc biểu tình. Tính đến thời điểm này thì mọi việc diễn ra chủ yếu là tự phát. Những người đàn ông này đủ khôn ngoan để thấy rằng phong trào đã đến lúc cần phải có kế hoạch và phương hướng rõ ràng hơn.

Vào lúc 3 giờ chiều, Roy Bennett đã mời nhiều người tới để lên kế hoạch cho buổi họp mặt quần chúng vào buổi tối. Mọi người có mặt đều phấn khởi trước sự thành công to lớn của cuộc phản kháng. Nhưng đằng sau niềm vui này là câu hỏi chúng ta sẽ làm gì tiếp theo? Khi E. D. Nixon báo cáo về cuộc thảo luận với Abernathy và French trước đó, họ quyết định đưa ra đề nghị thành lập một tổ chức chuyên trách và được mọi người hưởng ứng ngay. Công việc tiếp theo là bầu ra những thành viên cho tổ chức mới này.

Ngay khi Bennett vừa tuyên bố bắt đầu đề cử ứng cử viên cho vị trí Chủ tịch, Rufus Lewis ngồi ở một góc khuất trong phòng đã lên tiếng: “Ngài Chủ tọa, tôi muốn để cử mục sư M. L. King làm Chủ tịch”. Để nghị này được chấp nhận và thông qua, và chỉ trong vài phút mọi người đã thống nhất bầu tôi làm Chủ tịch.

Tôi đã không ngờ đến điều này. Nó xảy ra quá nhanh đến nỗi tôi không có thời gian để cân nhắc sự việc một cách thấu đáo. Nếu có thời gian để suy nghĩ rất có thể tôi sẽ từ chối để cử này. Mới ba tuần trước đó, nhiều thành viên của chi nhánh NAACP tại địa phương đã khuyến khích tôi tranh cử vị trí Chủ tịch của tổ chức này. Họ đảm bảo rằng tôi chắc chắn sẽ đắc cử. Sau khi bàn bạc vấn đề này với vợ mình, chúng tôi thống nhất rằng tôi không nên nhận bất cứ trọng trách cộng đồng nào, bởi vì tôi chỉ mới vừa hoàn thành luận văn, tôi cần phải dành nhiều sự quan tâm hơn đến công việc tại nhà thờ của mình. Nhưng lần này mọi thứ diễn ra quá nhanh.

Việc bầu cử các vị trí còn lại được hoàn thành nhanh chóng: mục sư L. Roy Bennett - Phó Chủ tịch; mục sư u. J. Field - Thư ký; mục sư E. N. French, - Đặc trách Thông tin; Bà Erna A. Dungee - Phụ trách Tài chính; Ông E. D. Nixon - Thủ quỹ. Từ đó mọi người thống nhất những người này là thành viên Ban Điều hành của tổ chức mới. Ban Điều hành này sẽ đóng vai trò điều phối toàn bộ phong trào. Đây là một nhóm đa dạng và cân bằng về thành phần, bao gồm mục sư của tất cả các giáo phái, giáo viên dạy học, doanh nhân và hai luật sư.

Tổ chức mới cần có một cái tên, và rất nhiều tên đã được đề nghị. Có người đề nghị lấy tên là ủy ban Công Dân Da Đen, nhưng bị từ chối vì nó quá giống với Hội đồng Công Dân Da Trắng. Những đề nghị khác lần lượt được đưa ra nhưng đều bị bác bỏ cho đến khi Ralph Abernathy đề nghị một cái tên mà ai cũng đồng ý - Hiệp hội Cải cách Montgomery.

Tạm gác lại những vấn đề về tổ chức, chúng tôi chuyển sang cuộc thảo luận chính của buổi họp mặt. Nhiều người không muốn phóng viên biết được những chương trình hành động của chúng tôi nên đề nghị mọi người chỉ nên hát và cầu nguyện. Nếu có kế hoạch nào đó cần phổ biến cho mọi người, thì có thể in ra và phân phát cho từng người một cách bí mật ngay trong cuộc họp. Họ cho rằng việc này sẽ che mắt được các phóng viên. Những người khác kêu gọi mọi người nên giữ bí mật danh tính thật sự của những người lãnh đạo để đảm bảo an toàn cho tất cả những người có liên quan. Sau một cuộc bàn luận khá dài, E. D. Nixon nóng lòng bật dậy.

“Chúng ta đang hành xử như những đứa trẻ con vậy” ông nói, “Một trong chúng ta phải công khai danh tính thôi, và nếu điều đó làm chúng ta run sợ thì tốt nhất là nên kết thúc mọi thứ ngay tại đây. Chúng ta phải có đủ dũng khí để thảo luận những đề nghị của mình một cách công khai. Ý tưởng lén lút truyền đi một điều gì đó được in trên giấy thật là vớ vẩn. Những người da trắng cuối cùng rồi cũng sẽ biết được đó là gì thôi. Tốt hơn là chúng ta nên quyết định ngay lúc này là mình sẽ hành động như những người đàn ông gan dạ hay những cậu bé nhút nhát”.

Với lời phát biểu thẳng thừng này, không khí cuộc họp đã được giải tỏa. Không còn ai muốn đưa ra để nghị che giấu danh tính và tránh né đương đầu với mọi vấn đề nữa. Sự động viên can trường của Nixon đã trao dũng khí cho những người sắp bị nỗi sợ đánh gục.

Mọi người nhất trí rằng cuộc biểu tình nên tiếp tục cho đến khi một số yêu cầu nhất định được đáp ứng. Một ủy ban với Chủ nhiệm là Ralph Abernathy sẽ soạn ra những yêu cầu này dưới dạng một giải pháp và trình bày chúng trong buổi tối họp mặt quần chúng để thông qua. Chúng tôi thực hiện phần còn lại của chương trình một cách nhanh chóng. Bennett chủ trì cuộc họp và tôi sẽ đưa ra lời phát biểu chính. Một vài diễn giả khác sẽ đưa ra lời nhận xét, cùng với việc đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, hát Thánh ca, và quyên góp, như vậy là hoàn thành xong chương trình.

Ngay lập tức ủy ban Giải Pháp đã bắt tay vào việc soạn thảo Bản Tuyên Bố. Mặc dù hài lòng về sự thành công của cuộc phản kháng, chúng tôi vẫn còn cảm thấy lo ngại. Liệu những buổi họp mặt quần chúng vào các buổi tối sau này có được mọi người tham dự đầy đủ không? Liệu chúng tôi có thể tin rằng nghị lực và nhiệt tình của cộng đồng da đen sẽ tiếp tục tồn tại sau khi trải qua một ngày đầy thử thách như vậy không? Có người đã đề nghị có lẽ chúng tôi nên cân nhắc quyết định tiếp tục phản kháng. “Chẳng phải sẽ tốt hơn sao”, người đó nói, “nếu chúng ta kết thúc cuộc phản kháng khi nó vẫn còn là một thành công còn hơn là để nó kéo dài một vài ngày nữa rồi tắt ngúm? Chúng ta đã chứng minh được với cộng đồng người da trắng sức mạnh của chúng ta khi mọi người đoàn kết lại. Nếu chúng ta dừng lại lúc này, các công ty xe buýt sẽ phải chấp nhận bất cứ thứ gì chúng ta muốn, đơn giản bởi vì họ sẽ cho rằng chúng ta có khả năng để lặp lại tình trạng đó một lần nữa. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục, mà phần lớn mọi người trở lại sử dụng xe buýt vào ngày mai hay hôm sau đó, người da trắng sẽ cười nhạo chúng ta, và rồi chúng ta sẽ không đạt được gì cả”. Lập luận này có tính thuyết phục quá cao đến mức chúng tôi suýt nữa đã quyết định chấm dứt cuộc phản kháng. Nhưng cuối cùng chúng tôi thống nhất để cho cuộc họp mặt quần chúng - chỉ còn khoảng một giờ nữa là bắt đầu - quyết định điều này. Nếu buổi họp mặt có đông người tham dự và họ đến dự với trạng thái nhiệt tình, chúng tôi sẽ tiếp tục; còn không chúng tôi sẽ tuyên bố dừng cuộc phản kháng vào đêm đó.

Tôi trở về nhà lần đầu tiên trong suốt ngày hôm đó kể từ khi ra khỏi nhà vào lúc 7 giờ sáng, và thấy Coretta đang nằm nghỉ ngơi sau một ngày dài tiếp điện thoại trong không khí phấn khởi chung. Sau khi chúng tôi kể cho nhau nghe về những gì đã xảy ra trong ngày lịch sử này, tôi nói với cô ấy một cách dè dặt vì không biết cô ấy sẽ phản ứng ra sao, rằng tôi đã được bầu làm Chủ tịch của một tổ chức mới. Đáng lẽ tôi không nên lo lắng đến thế. Tuy bị bất ngờ, nhưng rồi cô vẫn thấu hiểu rằng trọng trách này đã chọn tôi, tôi không còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận nó. Không cần ai nói cô cũng biết điều này có nghĩa là thời gian chúng tôi ở bên nhau sẽ ít hơn, và cô cũng không bận tâm trước những hiểm nguy rình rập xung quanh chúng tôi khi tôi lãnh trách nhiệm mới này. “Anh biết không”, cô ấy nói khẽ, “bất kể việc gì mà anh quyết định làm, em đều sẽ ủng hộ anh”.

An lòng, tôi đi vào phòng làm việc và đóng cửa lại. Thời gian lúc này trôi qua thật nhanh. Giờ đã là 6 giờ 30 và tôi phải rời khỏi nhà muộn nhất là vào 6 giờ 50 để đến buổi họp mặt. Điều này có nghĩa là tôi chỉ còn hai mươi phút để chuẩn bị cho bài phát biểu quan trọng nhất trong đời mình. Khi tôi nghĩ đến khoảng thời gian ít ỏi còn lại và thông điệp mà bài phát biểu này phải đưa ra, nỗi sợ bắt đầu xâm chiếm tôi. Mỗi tuần tôi cần ít nhất mười lăm giờ để chuẩn bị cho bài giảng chúa nhật của mình. Giờ đây tôi phải chuẩn bị trong một khoảng thời gian cực kỳ ngắn ngủi bài phát biểu sẽ định ra phương hướng cho mọi người, những con người tràn đầy ước mơ công lý mới. Tôi cũng biết rõ rằng những phóng viên báo chí và đài truyền hình sẽ có mặt, chờ đợi để ghi lại những lời nói của tôi và gửi chúng đi khắp đất nước.

Lúc này tôi gần như bị ám ảnh bởi một cảm giác bất lực. Trong tình trạng bất an này, tôi đã bỏ ra năm phút trong hai mươi phút còn lại để cầu nguyện. Không còn gì khác ngoài đức tin vào một Đấng quyền năng, người có sức mạnh không ai sánh bằng đối với sự yếu đuối và bất lực của con người. Tôi thốt ra những từ ngắn gọn và đơn giản, xin Chúa giữ được sự bình tĩnh trong tôi và ở bên tôi trong giờ phút tôi cần sự dẫn dắt của Ngài hơn bao giờ hết.

Với chưa đầy mười lăm phút còn lại, tôi bắt đầu thảo dàn ý chính cho bài nói. Tuy nhiên, chính trong lúc này, tôi gặp phải một tình thế khó xử không lường trước được và nghiêm trọng: làm sao tôi có thể viết một bài phát biểu đủ quyết liệt để khuyến khích mọi người hành động tích cực mà vẫn ôn hòa vừa đủ để giữ cho ngọn lửa này nằm trong tầm kiểm soát và ràng buộc của Cơ Đốc Giáo? Tôi biết có rất nhiều người da đen đã trở nên cay nghiệt, số lượng này có thể dễ dàng nổi dậy và gây bạo loạn. Tôi có thể nói gì đây để giữ trong họ một lòng gan dạ và sẵn sàng cho những hành động tích cực mà vẫn tránh xa lòng thù hận và căm ghét? Liệu sự quyết liệt và ôn hòa có thể được kết hợp trong cùng một bài phát biểu?

Tôi quyết định mình phải nhìn thẳng vào vấn đề này, và tìm cách dung hòa hai tính chất dường như là đối nghịch này. Tôi muốn động viên mọi người hành động bằng cách khẳng định lòng tự trọng của họ đang trên bờ vực biến mất và nếu họ chấp nhận sự tồn tại của bất công như vậy mà không phản kháng, họ sẽ phản bội lại chính nhân phẩm của mình và những điều răn vĩnh hằng của chính Chúa Trời. Nhưng tôi sẽ cân bằng điều này với giáo lý Cơ Đốc Giáo về tình yêu thương. Ngay khi tôi vừa phác thảo sườn ý chính cho bài nói trong đầu mình, thời gian chuẩn bị đã hết. Không còn thời gian để ăn bữa tối (tôi đã không ăn gì kể từ buổi sáng) tôi tạm biệt Coretta và lái xe về hướng Nhà thờ Đường Holt.

Cách nhà thờ khoảng năm dãy nhà tôi gặp một vụ kẹt xe. Những chiếc xe hơi nối đuôi nhau trải dài vượt cả tầm mắt của tôi từ cả hai phía. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra là tất cả những chiếc xe này đều đang trên đường đến cuộc họp mặt quần chúng. Tôi phải đậu xe cách nhà thờ ít nhất bốn dãy nhà, và khi bắt đầu xuống xe, tôi nhận ra hàng trăm người đang đứng bên ngoài. Trong bóng tối, xe cảnh sát đang chậm rãi chạy vòng quanh khu vực, quan sát một đám đông trật tự, kiên nhẫn và thiện chí. Những người không thể vào trong nhà thờ, khoảng từ ba đến bốn ngàn người, vẫn vui vẻ đứng ngoài trong suốt buổi tối, lắng nghe diễn tiến của cuộc họp từ những chiếc loa được đặt bên ngoài dành cho họ. Và ngay cả khi vào gần cuối buổi, những chiếc loa này bị những người da trắng ở những khu lân cận yêu cầu tắt đi, họ vẫn ở lại một cách trật tự, hài lòng được có mặt tại đây.

Mất đến mười lăm phút tôi mới có thể xen qua đám đông để đến phòng làm việc của mục sư. Tại đây Tiến sĩ Wilson cho tôi biết nhà thờ đã đẩy người từ lúc 5 giờ. Lúc này những mối lo ngại trong lòng tôi về sự thành công của hành trình mạo hiểm này đã tan biến. Câu hỏi liệu có nên ngưng cuộc biểu tình giờ chỉ còn là giả thiết. Sự nhiệt huyết của hàng ngàn con người này đã cuốn mọi thứ lên như một ngọn thủy triều cuộn trào.

Phải mất thêm một lúc thì những diễn giả còn lại mới rẽ đám đông chật kín trong nhà thờ để lên được bục phát biểu. Cuộc họp bắt đầu muộn hơn gần nửa tiếng. Khúc Thánh ca mở đầu là bài hát quen thuộc “Onward Christian Soldiers” (Hãy tiến lên những chiến sĩ Kitô). Đám đông đứng lên để cất lời ca, những giọng hát bên ngoài hòa vào lời ca điệp khúc ở bên trong nhà thờ, làm nên một tiếng ngân vang dội như tiếng vọng hân hoan từ nơi thiên đường.

W. F. Alford, mục sư của Nhà thờ Baptist Beulah, dẫn đầu cộng đoàn cầu nguyện, sau đó U. J. Fields, mục sư Nhà thờ Baptist Đường Bell, đọc Thánh Kinh. Rồi người chủ tọa giới thiệu tôi. Tôi đứng lên bục phát biểu trong tiếng vỗ tay của mọi người. Máy quay phim bắt đầu ghi hình từ mọi hướng. Tất cả trở nên im lặng.

Trên tay không có bản thảo, tôi kể về những gì đã xảy ra với bà Parks. Rồi tôi ôn lại lịch sử dài dằng dặc của những sự ngược đãi và xúc phạm mà công dân da đen đã phải nếm trải khi sử dụng xe buýt của thành phố. “Nhưng rồi sẽ đến ngày” tôi nói, “người ta bắt đầu mệt mỏi. Tối nay chúng ta có mặt ở đây để nói với những người đã đối xử tệ bạc với chúng ta rằng, chúng ta đã mệt mỏi - mệt mỏi vì bị phân biệt đối xử và hạ nhục; mệt mỏi vì bị chà đạp bởi đôi chân tàn bạo của sự đàn áp”, cộng đoàn đáp lại lời tuyên bố này bằng tràng pháo tay nồng nhiệt, “chúng ta không còn cách nào khác ngoài việc biểu tình” tôi tiếp tục, “Chúng ta đã nhẫn nhục trong nhiều năm trời. Đôi khi như vậy làm cho những người anh em da trắng nghĩ là chúng ta thích cách mà mình đang bị đối xử. Nhưng chúng ta đến đây tối nay để trút bỏ sự nhẫn nhục đã khiến chúng ta chấp nhận tất cả mọi thứ kém hơn tự do và công lý”. Một lần nữa mọi người chen ngang bằng những tiếng vỗ tay.

Một cách ngắn gọn, tôi chứng minh những gì chúng tôi đã làm là đúng, cả về đạo lý và pháp lý. “Một trong những giá trị tuyệt vời nhất của nền dân chủ là quyền được biểu tình vì lẽ phải”. So sánh cách thức của chúng tôi với những gì mà Hội đồng Công Dân Da Trắng và Ku Klux Klan đã làm, tôi chỉ ra rằng, trong khi “những tổ chức này biểu tình để cổ súy cho sự tồn tại của bất công trong cộng đồng, chúng ta biểu tình cho sự ra đời của công lý trong cộng đồng. Phương pháp của họ đưa tới bạo lực và vô pháp. Còn những cuộc biểu tình của chúng ta sẽ không có việc đốt thập giá. Sẽ không có một người da trắng nào bị lôi ra khỏi nhà mình bởi một đám đông người da đen trùm mũ và bị sát hại một cách dã man. Sẽ không có bất kỳ sự đe dọa và khủng bố nào. Chúng ta sẽ tuân thủ những nguyên tắc cao nhất của luật pháp và trật tự”.

Sau khi khẳng định về một thái độ quyết liệt khi hành động, tôi tiếp tục với những lời nhắc nhở. Tôi kêu gọi mọi người không nên ép buộc bất kỳ ai đừng đi xe buýt. “Chúng ta sử dụng sự thuyết phục làm phương tiện chứ không phải sự ép buộc, chúng ta chỉ nói với mọi người rằng, “Hãy để lương tâm mình dẫn lối”. Tôi nhấn mạnh đến giáo lý Cơ Đốc Giáo về tình yêu thương, “hành động của chúng ta phải được dẫn dắt bởi những nguyên tắc sâu xa nhất xuất phát từ đức tin của chúng ta. Tình yêu thương phải là kim chỉ nam trong lý tưởng của chúng ta. Một lần nữa chúng ta phải nhớ tới lời Chúa vang vọng từ nhiều thế kỷ trước: “Yêu thương kẻ thù của các con, chúc phúc cho kẻ đã nguyền rủa con, và cầu nguyện cho kẻ đã rắp tâm lợi dụng con”. Nếu chúng ta không làm được điều này thì cuộc biểu tình rồi cũng chỉ trở thành một giai đoạn biến động vô nghĩa trong lịch sử, và hình ảnh về nó sẽ bị bao phủ bởi một vẻ ngoài xấu xí của nỗi ô nhục. Mặc kệ những ngược đãi mà chúng ta gặp phải, chúng ta không được cho phép bản thân trở nên cay đắng, và quay sang thù hận những người anh em da trắng của mình. Như Booker T. Washington đã nói: “Đừng để ai hạ thấp bạn đến mức khiến bạn thù ghét hắn”. Một lần nữa mọi người hưởng ứng một cách hồ hởi.

Sau đó là tuyên bố kết thúc của tôi. “Nếu mọi người biểu tình một cách can trường, nhưng với một nhân phẩm và tình yêu thương của Chúa, khi người ta viết sử sách cho thế hệ mai sau, họ sẽ phải tạm ngừng một chút và nói “Đã từng có những con người vĩ đại - những người da đen - đã thổi những ý nghĩa mới và giá trị chân thật vào dòng chảy của nền văn minh”. Đây chính là thử thách và trọng trách vô cùng to lớn của chúng ta”. Khi tôi trở về chỗ ngồi của mình, mọi người đã đứng dậy và vỗ tay. Tôi thầm cảm ơn Chúa vì thông điệp đã được truyền đi và nhiệm vụ kết hợp lửa nhiệt huyết và sự ôn hòa ít nhất đã phần nào được hoàn thành. Họ nhất trí một cách hồ hởi khi tôi kêu gọi họ yêu thương cũng như khi tôi khuyến khích họ phản kháng.

Trong khi ngồi đó lắng nghe tràng pháo tay chưa dứt, tôi nhận ra bài phát biểu này khơi gợi sự hưởng ứng nhiều hơn bất kỳ bài phát biểu hay thuyết giáo nào tôi từng thực hiện, trong khi nó gần như không hề được chuẩn bị. Lần đầu tiên tôi hiểu được những gì mà những người giảng đạo lớn tuổi hơn tôi đã từng nói: “Hãy mở miệng ra và chúa sẽ nói thay cho mọi người”. Tôi sẽ không vì sự thành công bất ngờ này mà bỏ qua sự cần thiết của việc chuẩn bị thường xuyên, nhưng nó sẽ luôn nhắc nhở tôi rằng chúa có thể biến yếu điểm của một người thành cơ hội vẻ vang cho họ.

Khi bà Parks được E. N. French giới thiệu trên bục phát biểu, mọi người đáp lại bằng việc đứng dậy và vỗ tay. Bà ấy là nữ anh hùng của họ. Qua khí phách can trường của bà, họ nhìn thấy biểu tượng cho niềm hy vọng và khát vọng trong họ.

Giờ đã đến lúc công bố những giải pháp vô cùng quan trọng. Ralph Abernathy đọc những lời tuyên bố một cách chậm rãi và cương quyết. Cốt lõi của những giải pháp này là kêu gọi người da đen không trở lại đi xe buýt cho đến khi: 1- những doanh nghiệp xe buýt phải cam kết đối xử lịch sự với hành khách da đen; 2- hành khách phải được xếp chỗ ngồi dựa trên nguyên tắc ai tới trước thì được phục vụ trước - người da đen sẽ ngồi từ phía sau xe trở lên phía trước còn người da trắng sẽ ngồi từ phía trước xe trở về phía sau; 3 - Tài xế da đen phải được thuê để lái xe trên những tuyến đường có đông đảo hành khách da đen. Khi tôi nói “Ai đồng ý xin hãy đứng lên”, tất cả mọi người đều đứng dậy, và những người vốn đã đứng sẵn thì giơ cả hai tay lên. Tiếng reo hò vang lên cả bên trong lẫn bên ngoài. Động tác thể hiện sự đồng ý đã được mọi người đồng lòng thực hiện. Mọi người đã quyết tâm không sử dụng xe buýt cho đến khi điều kiện phục vụ được thay đổi.

Đã đến lúc tôi phải rời khỏi cuộc họp và tức tốc đi đến phía bên kia của Thị trấn để phát biểu tại một bữa tiệc YMCA (là tổ chức hoạt động thể thao, tổ chức các lớp học kỹ năng, quảng bá Kitô giáo và công việc nhân đạo). Tôi đã lái xe đi với một con tim đong đầy cảm xúc. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một sự khát khao tự do đến như vậy. Cho dù mãnh liệt là vậy nhưng lòng nhiệt huyết này lại được kiểm soát bởi một sự tự giác tuyệt vời. Sự quy tụ vì một mục đích chung và tinh thần tổ chức của những con người này có một sức mạnh lay động lòng người không tài nào tả xiết. Sẽ không có một sử gia nào có khả năng diễn tả đầy đủ hết cuộc họp mặt này và sẽ không có một nhà xã hội học nào có thể giải thích nó một cách hoàn chỉnh. Để thật sự hiểu được nó thì chính mình phải là người trong cuộc.

Tại khách sạn Ben Moore, khi thang máy đang chậm chạp đưa tôi lên sân thượng, nơi mà bữa tiệc đang được tổ chức. Tôi tự nhủ, chiến thắng đã nằm trong tay rồi, cho dù chúng tôi có phải vất vả trong bao lâu để đạt được ba điểm đó đi nữa, thì chúng tôi đã có một chiến thắng có ý nghĩa còn to lớn hơn việc tình trạng xe buýt sẽ được cải thiện rất nhiều lần. Chiến thắng thật sự đó chính là ở buổi họp mặt, nơi mà cả ngàn người da đen đứng hiên ngang với cảm giác mới mẻ về nhân phẩm và sứ mạng.

Chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi, tại sao sự kiện này lại xảy ra ở Montgomery, Alabama, vào năm 1955? Một vài người cho rằng, vì phán quyết về phân biệt đối xử trong trường học của Tòa Tối Cao Pháp Viện - được phổ biến từ chưa đầy hai năm trước đó - đã cho người da đen một hy vọng mới về việc công lý sẽ đến với những người da đen ở khắp nơi, và thắp lên trong họ những tia lửa động viên đứng lên chống lại sự áp bức. Mặc dù điều này có thể giải thích tại sao cuộc phản kháng lại xảy ra vào thời điểm đó, nhưng nó lại không thể giải thích vì sao nó lại xảy ra tại Montgomery.

Hiển nhiên là sự bất công dai dẳng trong lịch sử hoạt động xe buýt ở Montgomery phần nào đã giải thích điều đó. Cuộc phản đối xe buýt không tự nhiên lớn nhanh như thổi, tựa như nữ thần trí tuệ Athena mới sinh ra từ đầu của thần Zeus đã là thiếu nữ; mà nó là cao trào của một quá trình đã phát triển âm thầm. Việc bắt giữ bà Parks là một nhân tố xúc tác chứ không phải là nguyên nhân của cuộc phản kháng. Nguyên nhân nằm ẩn sâu trong một chuỗi những sự việc bất công tương tự. Gần như tất cả mọi người đều có thể kể ra một câu chuyện bất hạnh mà chính họ là nạn nhân hoặc đã từng chứng kiến.

Và rồi cũng đến lúc người ta chán ghét việc bị dẫm đạp bởi sự áp bức. Cũng đến lúc người ta chán ghét việc bị đẩy vào sự bóc lột vô tận và bất công dai dẳng. Câu chuyện của Montgomery là câu chuyện của 50.000 người da đen như vậy, họ sẵn sàng chịu mệt mỏi những đôi chân, còn hơn là mang tâm hồn kiệt quệ, bước đi trên đường phố Montgomery cho đến khi những bức tường phân biệt đối xử cuối cùng cũng bị phá bỏ bởi sức mạnh của công lý.

Nhưng ngay cả điều đó cũng không phải là câu trả lời hoàn chỉnh. Những người da đen ở các cộng đồng khác cũng phải đối mặt với những tình trạng tồi tệ tương tự, và đôi khi còn tệ hơn. Cho nên chúng ta không thể giải thích câu chuyện của Montgomery đơn thuần chỉ dựa trên những áp bức mà người da đen ở đây phải nếm trải. Hơn nữa, nó cũng không thể được giải thích bởi một sự đoàn kết sẵn có giữa những người lãnh đạo, bởi vì chúng ta đã thấy rằng cộng đồng người da đen tại Montgomery trước thời điểm phản kháng rõ ràng là được dẫn dắt bởi sự lãnh đạo rời rạc, thờ ơ và tự mãn. Nó cũng không thể được giải thích bằng sự lãnh đạo mới được thiết lập sau đó. Câu chuyện của Montgomery vẫn sẽ xảy ra ngay cả khi những người lãnh đạo của cuộc phản kháng chưa từng được sinh ra trên đời.

Vậy là mọi sự giải thích theo lý trí bị hổng ở khía cạnh nào đó. Có điều gì đó ở cuộc phản kháng đã vượt lên trên cả lý trí. Nó không thể được giải thích mà không nhắc đến một sự can thiệp thiêng liêng. Có thể đó là nguyên lý của sự kết tủa, theo như Alfred N. Whitehead; hay là một quá trình dung hóa, theo như Henry N. Wieman; hay thế lực sáng tạo, như Paul Tillich; hay là một vị Thần hóa thân. Cho dù tên gọi là gì thì dường như đã có một thế lực siêu nhân vận động để tạo lại sự hài hòa vũ trụ sau những hỗn loạn. Có một thế lực sáng thế đang vận hành để kéo sập những ngọn núi của cái ác và san bằng những ngọn đồi bất công. Chúa vẫn hiện diện trong những sáng tạo lịch sử của Ngài để làm điều đó. Dường như chúa đã quyết định dùng Montgomery làm ví dụ cho sự đấu tranh và chiến thắng của tự do và công lý tại Mỹ. Và còn nơi nào tốt hơn để làm việc đó ngoài biểu tượng hàng đầu của Miền Nam nước Mỹ trước đây? Đây thật sự là một trong những trớ trêu lớn nhất của thời đại chúng ta khi mà Montgomery, cái nôi của Liên bang Miền Nam, đang bị biến đổi thành Montgomery, cái nôi của tự do và công lý.

Ngày lịch sử - Thứ Hai, mùng 5 tháng Mười Hai năm 1955, đang dần kết thúc. Chúng tôi đều chuẩn bị ra về, vẫn chưa ý thức hết được ý nghĩa của những gì đã xảy ra. Những cuộc thảo luận trong buổi tối nhiệt huyết, sâu lắng của tháng Mười Hai ấy sẽ không bao giờ bị lãng quên. Tối hôm đó chúng tôi đã khởi động một phong trào mà sau này sẽ nhận được sự chú ý của toàn quốc. Tiếng vọng của nó sẽ vang đến tai con người ở mọi quốc gia, một phong trào sẽ làm kinh ngạc những người áp bức, và mang lại hy vọng mới cho những người chịu áp bức. Đêm đó chính là điểm sáng của Montgomery trong lịch sử.