Chương V Đi để thành đường
Sau khi mang tâm trạng phấn chấn cao độ như đi trên mây của tối thứ Hai, sáng thứ Ba thức dậy tôi thấy mình phải quay trở về với thực tại. Tôi phải suy nghĩ đến một số quyết định về mặt tổ chức. Phong trào không thể tiếp tục hoạt động mà không có kế hoạch tổ chức cẩn thận.
Tôi bắt đầu nghĩ đến những ủy ban cần thiết để chỉ dẫn phong trào. Đầu tiên chúng tôi cần một ủy ban Di chuyển hoạt động lâu dài hơn, bởi vì việc lo phương tiện đi lại trong thành phố cho những người trước đây chỉ đi xe buýt là vô cùng quan trọng. Tôi biết là chúng tôi không thể tạo ra một hệ thống có khả năng giải quyết tất cả vấn đề đi lại của gần 17.500 người da đen, những người trước đây phải đi xe buýt hai lần mỗi ngày. Ngay cả khi áp dụng phương án hiệu quả nhất mà chúng tôi có thể nghĩ ra được thì gần như tất cả mọi người vẫn phải đi bộ nhiều hơn một chút so với trước đây. Nhưng có một hệ thống được suy tính kỹ lưỡng sẽ giúp giảm bớt gánh nặng từ vấn đề này rất nhiều.
Chúng tôi cũng cần phải gây quỹ để tiếp tục duy trì cuộc biểu tình. Vì vậy, một ủy ban Tài Chính là cần thiết. Những buổi họp mặt quần chúng cũng sẽ phải được tổ chức thường xuyên nên phải có một Ban tổ chức để thực hiện những sự kiện này. Sau đó, tôi nhận thấy rằng, ở mỗi thời điểm chúng tôi sẽ phải đưa ra những quyết định chiến lược. Điều này đòi hỏi sự kết hợp của những cái đầu tài giỏi nhất trong tổ chức để cân nhắc những quyết định đó và đưa ra những đề xuất cho Ban Điều Hành. Do đó tôi cảm thấy một ủy ban Chiến Lược là điều không thể thiếu được.
Ấp ủ những dự định đó, tôi triệu tập một cuộc họp với Ban Điều hành vào lúc 10 giờ ngày thứ Tư trong một căn phòng lớn của Trung tâm Baptist của người Da Đen tại Alabama (Negro Baptist Center). Khi đến dự, tất cả thành viên Ban Điều hành đều khen ngợi kết quả cuộc biểu tình vẫn có hiệu quả trên 99% sau gần hai ngày rưỡi triển khai. Tiếp đó là thành lập các ủy ban. Bởi vì số lượng thành viên của Ban Điều hành tương đối ít nên nhiều thành viên phải kiêm nhiệm thêm nhiều ủy ban một lúc. Cũng như mọi tổ chức khác, vấn đề xung đột cái tôi cá nhân là tình trạng rắc rối thường xảy ra, nên quá trình tuyển chọn đã được thực hiện với sự cân nhắc sao cho những thành viên trong mỗi ủy ban đều có thể hợp tác tốt với nhau. Rufus Lewis đồng ý giữ vai trò chủ nhiệm ủy ban Di Chuyển, và Giám mục R.J. Glasco, người chủ trì cuộc họp vào buổi sáng, là chủ nhiệm ủy ban Tài chính. Ban Điều hành đã được mở rộng để đại diện cho nhiều thành phần trong cộng đồng người da đen.
Thành viên của ủy ban Chiến Lược được quyết định một vài ngày sau đó. Ủy ban mới này gồm có mười hai người, cả nam và nữ, đã cho mọi người thấy khả năng lãnh đạo quyết đoán từ những ngày đầu của cuộc biểu tình. Suy nghĩ sáng suốt và sự dẫn dắt gan dạ của họ sẽ là một tác nhân vô cùng quan trọng để vượt qua những khó khăn còn ở phía trước. Ngoài thành viên không thể thiếu là E.D. Nixon và chiến lược gia pháp lý tài tình Fred Gray, ủy ban còn có Roy Bennett, người đã chủ trì cuộc họp đầu tiên về tổ chức phản kháng và đã tiếp tục ủng hộ tận tụy cho phong trào cho đến khi ông bị chuyển đến làm mục sư tại California. H. H. Hubbard và A. W. Wilson, cả hai đều là mục sư Baptist đại diện cho Hội Thánh người da đen lớn nhất tại Montgomery. Phong thái trang nghiêm của Hubbard đem lại một cảm giác vững chãi cho mọi cuộc họp mà ông tham dự. Và đồng nghiệp của ông là Wilson, đang giữ vị trí chủ chốt trong Hội nghị Baptist bang Alabama, đóng góp tài năng của mình với vai trò là người tổ chức và quản trị viên.
Bà Euretta Adair, vợ của một bác sĩ danh tiếng tại Montgomery, là cựu giảng viên của Học viện Tuskegee. Bà có kiến thức phong phú và lòng say mê công cuộc cải thiện xã hội. Jo. Robinson và J. E. Pierce là hai vị đứng đầu trong giới hàn lâm lúc bấy giờ, cả hai đều là giáo sư tại Đại học Tiểu bang Alabama. Họ chưa bao giờ vì sự yên ổn cuộc sống của bản thân mình mà làm ngơ trước những vấn đề của người khác. Rufus Lewis, một doanh nhân, từ lâu cũng rất quan tâm đến cuộc đấu tranh, với ý thức và tinh thần hợp tác cao để những người da đen được trở thành công dân hạng nhất (Ở Mỹ đến giữa thập niên 60 công dân Mỹ gốc Phi Châu vẫn bị xem là công dân hạng hai, không được hưởng một số quyền lợi từ chính phủ như công dân hạng nhất, tức là người Mỹ có nguồn gốc Anglo Saxon. Hiện tại chỉ công dân Mỹ sống ở nước ngoài được gọi là công dân hạng hai). Ông đã trở thành Chủ nhiệm đầu tiên của ủy ban Di chuyển, với ý thức và tinh thần hợp tác cao. Nhiều tháng sau đó, khi hoạt động của Hiệp hội Cải cách Montgomery mở rộng đến các lĩnh vực như bầu cử, ông đảm nhận vị trí Chủ tịch ủy ban Ghi Danh và Bầu Cử, trách nhiệm mà ông vẫn còn đảm nhiệm đến nay.
W. J. Powell và S. S. Seay, giống như Bennett, cũng là mục sư của Nhà thờ A. M. E. Zion. Powell có đầu óc tỉnh táo và sự điềm tĩnh khi ủy ban Chiến Lược phải đối mặt với nhiều vấn đề trong những ngày sóng gió. S. S. Seay là một trong các giáo sĩ hiếm hoi, từ những năm trước khi cuộc phản kháng nổ ra, đã lên tiếng chỉ trích vô vàn bất công đổ ập lên đầu người da đen, và khuyến khích giáo dân biết quý trọng hơn giá trị của chính họ. Là một người truyền đạo năng nổ, thi thoảng những bài phát biểu của ông tại các buổi họp mặt quần chúng hàng tuần đã nâng cao tinh thần của tất cả thính chúng.
Thành viên cuối cùng của ủy ban chiến Lược là một gương mặt vốn đã quen thuộc trong hàng ngũ tiên phong của lực lượng phản kháng. Ralph Abernathy, một trong số ít những mục sư da đen đã có thời gian dài tham gia các hoạt động dân sự trước đó. Mặc dù tuổi đời lúc bấy giờ chỉ mới hai mươi chín, nhưng những cống hiến của anh cho cuộc đấu tranh giành tự do là điều không cẩn bàn cãi. Với dáng người thấp, chắc khỏe và nét mặt trầm tư, anh nhìn già dặn hơn tuổi thật của mình, nhưng trên khuôn mặt lại luôn thấp thoáng một nụ cười hồn nhiên. Cử chỉ khoan thai và cách ăn nói từ tốn của Ralph dễ làm người khác hiểu lầm về tuổi tác của anh. Anh là một người làm việc không ngừng nghỉ, suy nghĩ thấu đáo và có nhiều ý tưởng độc đáo. Với vai trò là diễn giả, anh thuyết giảng sinh động và rất có sức thuyết phục, anh thường có thể khuyến khích mọi người hành động tích cực nhờ óc hài hước thiên phú. Trong các buổi họp mặt quần chúng, mỗi khi không khí trở nên trầm lắng, Ralph Abernathy lại truyền vào đám đông một luồng sinh khí mới và lòng hăng hái. Mọi người yêu mến và kính trọng anh như một biểu tượng của lòng can đảm và sức mạnh.
Ngay từ giai đoạn đầu tiên của cuộc phản kháng, Ralph Abernathy đã là cộng sự gần gũi và là người bạn đáng tin cậy nhất của tôi. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện và cùng đưa ra những quyết định quan trọng. Nhiều lúc phong thái nhanh nhẹn và dí dỏm của anh đã làm giảm bớt không khí căng thẳng. Mỗi khi đi vắng, tôi thường giao cho anh quyền quyết định những việc quan trọng của tổ chức, và thấy rất yên tâm. Sau khi Bennett rời khỏi Montgomery, Ralph đã trở thành đệ nhất Phó Chủ tịch (FVP) của Hiệp hội Cải cách Montgomery đầy năng lực và phẩm cách trong vị trí đó cho đến nay.
Đây là những người đã sát cánh cùng tôi ngay từ giai đoạn đầu của phong trào. Theo thời gian, có thêm nhiều người mới gia nhập. Trong số đó có một người được chiêu mộ vào Ban Điều hành khá sớm, đó là mục sư Robert Graetz. Tôi gặp ông lần đầu tại Hội đồng Quan Hệ Quần chúng. Vị mục sư da trắng này với vẻ ngoài trẻ trung tại Nhà thờ Chúa Ba Ngôi Lutheran của người da đen là một sự nhắc nhở kiên định cho chúng tôi trong những tháng ngày đầy thử thách rằng vẫn có nhiều người da trắng cũng như người da đen đang thực hiện lời dạy “yêu thương láng giềng như chính mình” của Cơ Đốc Giáo trong đời sống của họ. Hai cộng sự thân thiết khác được bổ sung vào Ban Điều hành sau đó có Clarence W. Lee, dáng người cao, vẻ ngoài nổi bật, làm dịch vụ mai táng. Với khả năng kinh doanh giỏi, ông đóng một vai trò rất đắc lực. Và Moses w. Jones, một bác sĩ danh tiếng, người sau đó trở thành Phó Chủ tịch thứ hai của Hiệp hội Cải cách Montgomery.
Chúng tôi họp vào bất cứ lúc nào, mỗi khi có trường hợp đột xuất khẩn cấp nào đó. Sẽ không có gì lạ nếu người ta bắt gặp vài người trong chúng tôi cùng bàn bạc công việc tại nhà riêng vào 2 giờ 30 sáng. Trong khi những người vợ vừa pha cà phê cho chúng tôi, vừa ngồi tán gẫu với nhau, chúng tôi đưa ra kế hoạch và thống nhất về các chính sách. Nguyên tắc làm việc của Nghị viện không cần thiết đối với nhóm làm việc nhỏ này, mọi người tự động chấp nhận theo quy tắc đa số thắng thiểu số.
Vào giai đoạn đầu của cuộc phản kháng, vấn đề di chuyển được chúng tôi dành nhiều sự quan tâm nhất. Nhân lực và sự sáng tạo để giải quyết vấn đề này là một trong những phần thú vị nhất của câu chuyện về Montgomery. Trong những ngày đầu tiên, chúng tôi phải trông cậy vào các công ty taxi người da đen đã đồng ý chuyên chở mọi người với giá mười xu, bằng giá vé xe buýt. Ngoại trừ một vài ôtô tư nhân đã tình nguyện tham gia, những chiếc taxi này là phương tiện di chuyển duy nhất. Nhưng trong buổi “gặp mặt đàm phán” đầu tiên giữa chúng tôi và ủy ban Thành phố vào thứ Năm, ngày 8 tháng 12, ủy viên cảnh sát Sellers đã đề cập thoáng qua về đạo luật quy định giá cước taxi tối thiểu. Tôi nhận ra được ẩn ý rằng rất có thể ủy viên cảnh sát Sellers sẽ dùng điều này để ngăn các taxi hỗ trợ cho cuộc biểu tình.
Đúng lúc đó tôi nhớ trước đây một người bạn tốt của tôi, mục sư Theodore Jemison, đã từng dẫn dắt một cuộc tẩy chay xe buýt tại Baton Rouge, Louisiana. Tôi biết Jemison và các cộng sự của anh đã tổ chức được những nhóm đi chung xe hiệu quả. Tôi đã gọi điện sang mãi bên anh để nhờ góp ý cho việc tạo một nhóm tương tự như vậy tại Montgomery. Đúng như tôi mong đợi, anh đã truyền lại tỉ mỉ những kinh nghiệm vô giá của mình tại Baton Rouge. Tôi thuật lại lời của Sellers và lời khuyên của Jemison cho ủy ban Di Chuyển và đề nghị mọi người ngay lập tức bắt đầu chuẩn bị những nhóm xe đưa rước để tránh tình trạng rối loạn khi taxi không thể tiếp tục cung cấp dịch vụ cho chúng tôi.
May mắn thay, một cuộc họp mặt quần chúng được tổ chức vào ngay tối hôm đó. Tại đây tôi yêu cầu những người sẵn sàng chia sẻ xe cho biết tên, địa chỉ, số điện thoại và thời gian mà họ có thể lái xe, trước khi ra về. Số người hưởng ứng đông bất ngờ. Có hơn một trăm năm mươi phiếu xác nhận tình nguyện tham gia. Trong số đó những người không đi làm tình nguyện lái xe đưa đón cả ngày, những người đi làm tình nguyện lái xe một vài giờ trước và sau giờ làm việc. Còn các mục sư hầu như ai cũng đồng ý lái xe bất kể lúc nào có nhu cầu.
Vào trưa ngày Thứ Sáu, đúng như tôi dự đoán, viên cảnh sát trưởng ra chỉ thị cho tất cả các công ty taxi phải tuân thủ luật quy định cước taxi tối thiểu là bốn mươi lăm xu. Nếu họ không tuân theo thì sẽ bị xem là vi phạm pháp luật. Điều này đã chấm dứt dịch vụ taxi giá rẻ.
Phản ứng của chúng tôi là tức tốc liên lạc với những tinh nguyện viên, và họ đã đáp ứng ngay lập tức. Lúc đầu họ chạy rảo quanh để kiếm hành khách trên các tuyến đường của Montgomery không theo một sự sắp xếp nào cả. Đến thứ Bảy, các mục sư quyết định sẽ kêu gọi thêm người tinh nguyện trong buổi thuyết giảng ngày hôm sau. Một lần nữa, chúng tôi lại được số đông hưởng ứng. Với sự bổ sung thêm, số lượng xe ô tô tăng vọt lên đến khoảng ba trăm chiếc.
Bây giờ công việc mới thật sự bắt đầu - đó là làm thế nào thiết lập được một hệ thống làm việc cho hơn ba trăm chiếc xe này, để thay thế lộ trình lộn xộn của chúng trong thành phố. Những ngày sau đó, ủy ban Di Chuyển đã làm việc suốt đêm, cố gắng thiết lập một hệ thống tương đối hiệu quả. Rất nhiều đề nghị của Jemison đã được áp dụng. Cuối cùng, họ quyết định lập ra các trạm “đưa đón khách”, những địa điểm mà hành khách sẽ tập trung để đi đến chỗ làm và trở về lại nhà. Thời gian đưa đón khách buổi sáng từ 6:00 đến 10:00, buổi chiều từ 3:00 đến 7:00.
Việc khó khăn tiếp theo là chọn địa điểm sao cho những trạm này sẽ được bổ trí toàn Thành phố. Đa số chúng tôi đều thấy việc chọn địa điểm cho trạm đón khách tương đối dễ dàng, bởi vì chúng sẽ được đặt trong các khu vực của người da đen trong Thành phố. Việc chọn địa điểm cho trạm trả khách lại làm chúng tôi bối rối. Vấn đề ở đây là một lượng lớn những người đi xe buýt làm việc cho những người chủ da trắng, do đó mà trạm trả khách phải nằm trong khu vực của người da trắng, nơi mà chúng tôi có rất ít thông tin, nếu không muốn nói là mù tịt. May thay, chúng tôi có hai nhân viên bưu điện ở trong ủy ban. Họ biết rõ Thành phố này như lòng bàn tay. Với sự hỗ trợ của họ và một tấm bản đồ Thành phố, chúng tôi bắt đầu làm việc với những cơ sở mới.
Vào thời điểm này, vai trò của R. J. Glasco và Chủ nhiệm Rufus Lewis trong ủy ban Di Chuyển rất quan trọng. Hai người đã làm việc cần mẫn để lập ra kế hoạch với sự hỗ trợ của cả ủy ban. Đến thứ Ba, ngày 13 tháng 12, hệ thống trạm dừng đưa đón được thiết lập xong. Cả nghìn tờ rơi in từ máy in rô-ne-o danh sách gồm bốn mươi tám trạm đón khách và bốn mươi hai trạm trả khách được phân phát trong cộng đồng người da đen. Phần lớn những trạm đón khách được đặt tại các nhà thờ của người da đen. Những nhà thờ này hợp tác giúp mở cửa sớm mỗi sáng để những hành khách đến chờ xe có thể vào trong ngồi, và nhiều nơi còn là chỗ sưởi ấm vào những ngày trời giá lạnh. Mỗi một chiếc xe sẽ chịu trách nhiệm một trạm đón khách và một trạm trả khách. Số lượng xe của mỗi trạm được quyết định dựa trên số lượng hành khách đi xe. Cho đến lúc này trạm được sử dụng nhiều nhất là một bãi đỗ xe của người chủ da đen đặt tại khu vực trung tâm của Montgomery. Nó là một trạm vừa đón khách vừa trả khách.
Chỉ trong vài ngày, hệ thống này đã hoạt động tốt một cách đáng kinh ngạc. Lực lượng da trắng đối kháng đã quá ấn tượng về việc tổ chức nhanh chóng như một phép mầu này, đến mức họ phải công nhận trong một cuộc họp Hội nghị Công Dân Da Trắng rằng hệ thống xe này di chuyển với "sự chính xác như quân đội”. Hiệp hội Cải cách Montgomery đã giải quyết được vấn đề di chuyển chỉ trong vài đêm, trong khi một công ty xe buýt đã phải vật lộn với nó trong nhiều năm.
Mặc cho sự thành công này, tinh thần đấu tranh đã ngấm sâu và trở thành một phần cuộc sống của người dân đến mức đôi khi họ chọn đi bộ trong khi vẫn còn chỗ trên xe. Hành động đi bộ, đối với nhiều người, đã trở thành một biểu tượng quan trọng. Có một lần một tài xế đã dừng xe bên cạnh một người phụ nữ lớn tuổi đang lê bước một cách khó nhọc.
"Mời bà lên xe,” anh ta nói. "Bà không phải đi bộ đâu”.
Bà vẫy tay bảo anh đi tiếp. "Tôi không đi cho mình”, bà giải thích, "Tôi đi vì con cái và cháu chắt của tôi”. Và bà tiếp tục bước về nhà.
Dù phần lớn những tài xế là các mục sư, hàng ngũ này còn được tăng cường bởi những bà nội trợ, giáo viên, doanh nhân, và những người lao động không có tay nghề cao. Có ít nhất ba người da trắng từ căn cứ không quân làm tài xế trong những giờ nghỉ của họ. Một trong những tài xế tận tụy nhất là bà A. W. West, người đã ngay từ đầu ủng hộ nhiệt tình ý tưởng biểu tình bằng cách giúp chúng tôi mời những lãnh đạo quần chúng đến dự buổi họp tổ chức đầu tiên. Mỗi buổi sáng, bà lái chiếc Cadillac lớn màu xanh lá đến trạm đón khách mà bà phụ trách. Cứ thế trong nhiều giờ buổi sáng và sau buổi trưa, người ta thấy một người nữ tài xế khác lạ, ưa nhìn với mái tóc bạc, lái xe rước mọi người đi làm và đưa họ về nhà.
Một người tài xế tận tâm khác là Jo Ann Robinson. Với vẻ ngoài xinh đẹp, nước da trắng, và tuổi đời còn trẻ, Jo Ann trông thánh thiện rất tự nhiên. Cô không cần phải học tinh thần phản kháng phi bạo lực từ bất kỳ một cuốn sách nào. Cô là một người luôn cố gắng không ngừng nghỉ, và hơn bất kỳ ai khác, cô là người hoạt động sôi nổi nhất trong mọi hoạt động của cuộc biểu tình. Cô tham gia vào các cuộc họp của cả Ban Điều hành và ủy ban Chiếc Lược. Khi bản tin của Hiệp hội Cải cách Montgomery ra mắt một vài tháng sau khi cuộc biểu tình bắt đầu, cô trở thành biên tập viên của bản tin này. Cô luôn có mặt trong mỗi cuộc đàm phán. Và mặc dù lịch giảng dạy kín mít tại đại học Alabama State, cô vẫn sắp xếp thời gian để lái xe vào buổi sáng và buổi trưa.
Đội ngũ tài xế của chúng tôi còn có thêm một nguồn nhân lực không ai ngờ tới. Nhiều bà nội trợ da trắng, cho dù ưa hay không ưa chế độ phân biệt đối xử, họ không thể thiếu những người hầu của mình. Thế là mỗi ngày các bà lái xe đến khu vực của người da đen để đón những người hầu của mình và chở họ về nhà vào buổi tối. Chắc chắn động cơ của họ có khi là sự ích kỷ, nhưng trong nhiều trường hợp là từ tình cảm dành cho người hầu trung thành. Có một điều khá hài hước là đôi khi giữa người chủ da trắng và người hầu da đen lại có sự đồng cảm về cuộc đấu tranh xe buýt này, hoặc cũng có khi họ chấp nhận sự bất đồng. Có một người phụ nữ lớn tuổi giúp việc nhà, nhiều con cháu họ hàng ở Montgomery xem như người mẹ già thông thái, đã được ngưòi chủ giàu có da trắng hỏi: “Cuộc tẩy chay xe buýt này thật kinh khủng quá phải không?”, người phụ nữ lớn tuổi trả lời: “Vâng thưa bà, nó thật sự kinh khủng. Và tôi chỉ nói với mấy đứa nhỏ rằng những việc như thế này là vấn đề của người da trắng và chúng ta chỉ việc tránh xa mấy chiếc xe buýt cho đến khi họ giải quyết ổn thỏa hết toàn bộ việc này.
Thời gian qua đi, hệ thống xe đưa rước tiếp tục mở rộng. B. J. Simms là giáo sư đại học và là mục sư của một nhà thờ Baptist tại Tuskegee, tiếp nhận vị trí Chủ nhiệm ủy ban. Ông đã bổ sung thêm sáng kiến của mình vào công trình của người tiền nhiệm, Rufus Lewis. Chẳng bao lâu số thành viên của Văn phòng phụ trách di chuyển đã tăng lên sáu người. Hơn hai mươi lăm người được tuyển dụng làm tài xế toàn thời gian, làm việc sáu ngày một tuần. Tại phần lớn các trạm xe, đều có các điều phối viên để bảo đảm mọi thứ vận hành trơn tru và phân phối hành khách theo lộ trình của họ. Mục sư J. H. Cherry là Trưởng Điều phối viên tại bãi đỗ xe gần trung tâm Thành phố đã cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của mình. Richard Harris, dược sĩ người da đen, là một tài sản vô giá của hệ thống di chuyển. Anh đặt văn phòng ngay trong tiệm thuốc của mình và điều phối các xe qua điện thoại suốt từ tờ mờ sáng cho đến tối muộn. Khách đến mua hàng luôn ngạc nhiên khi thấy một doanh nhân trẻ tuổi, năng động đứng bán hàng với ống nghe điện thoại kề sát tai, điều động ô tô và kê các toa thuốc cùng một lúc.
Cuối cùng, một đoàn bao gồm hơn mười lăm chiếc xe đưa đón còn mới được bổ sung thêm. Mỗi một chiếc xe đời 1956 này là tài sản của một nhà thờ, và tên của nhà thờ tài trợ sẽ được viết ở phía trước và bên hông mỗi chiếc xe. Khi những “nhà thờ di động” này chuyên chở những hành khách vui vẻ của mình đi làm, thỉnh thoảng người ta có thể nghe những bài Thánh ca vọng ra qua khung cửa sổ. Những người đi bộ trên đường, vì không tìm được chỗ ngồi trên những chiếc xe chật kín, vẫy tay chào khi “nhà thờ” của họ đi ngang qua, và tiếp tục bưởc đi với một trái tim tươi mới.
Nhìn tổng thể, hoạt động của hệ thống xe đưa rước này cho thấy sự tổ chức và phối hợp đạt hiệu quả tối đa. Phóng viên và khách viếng thăm trên khắp đất nước nhìn nhận nó như một thành tựu hiếm có. Công việc này cũng tiêu tốn tiền bạc. Trong thời gian đầu, Hiệp hội Cải cách Montgomery đã trang trải cho hoạt động bằng sự đóng góp của người dân địa phương. Cứ sau mỗi tuần, dù giàu hay nghèo, những người da đen tại Montgomery lại bỏ tiền vào thùng đóng góp theo khả năng của họ, có khi chỉ là mười xu hay hai mươi lăm xu. Nhưng khi nhóm xe đưa rước phát triển và thêm những khoản chi khác ngày một tăng thì chúng tôi cần phải thêm một nguồn quỹ để tiếp tục hoạt động. Chi phí để duy trì Hiệp hội đã tăng lên mức 5.000 đô la một tháng.
May mắn thay, thông tin về sự đấu tranh của chúng tôi đã được báo chí đăng tải rộng khắp thế giới. Mặc dù chúng tôi chưa từng công khai kêu gọi tài trợ, nhưng đã bắt đầu có sự đóng góp từ các nơi chảy tràn về, thậm chí từ những nơi xa xôi như Tokyo. Các lãnh đạo của Hiệp hội được mời đến các thành phố trên khắp đất nước để dự những buổi gây quỹ. Mỗi ngày đều có khách viếng thăm mang theo quà tặng, và trong mỗi phong thư gửi đến đều kèm theo các tờ séc. Đôi khi quà tặng có thể lên đến 5.000 đô la, đôi khi chỉ là tờ một đô la nhưng tổng cộng tích lũy được gần 250.000 đô la.
Nơi đóng góp nhiều nhất đến từ những nhóm nhà thờ - nhất là những nhà thờ của người da đen, và không chỉ riêng họ, rất nhiều hiệp hội mục sư đã đóng góp rất rộng rãi. Có thể nói các nhà thờ trong hầu hết mọi thành phố của Hoa Kỳ đã trợ giúp. Các nhóm lao động, nhóm dân sự và nhóm xã hội là những nhà tài trợ trung kiên và nhiệt tình của chúng tôi. Và nhiều cộng đồng còn thành lập tổ chức mới chỉ để hỗ trợ cho cuộc phản kháng. Gần như mọi chi nhánh của NAACP (The National Association for the Advancement of Colored People - Hiệp hội quốc gia vì sự phát triển của người da màu) đã hồi âm rất nhiệt tình thư ngỏ của Roy Wilkins - Thư ký điều hành - kêu gọi họ hỗ trợ tinh thần và tài chính cho phong trào. Và đây chỉ là một trong nhiều cách mà NAACP đã chia sẻ sức mạnh của mình trong những ngày sắp tới.
Sự đóng góp cũng đến từ rất nhiều cá nhân, cả người da trắng và người da đen, cả trong nước và ngoài nước. Thường những sự giúp đỡ này được gửi kèm theo các bức thư, nó đã động viên tinh thần và phá tan cảm giác đơn độc đã bao vây chúng tôi trong chính cộng đồng của mình. Có một tấm séc một trăm đô la gửi từ Pennsylvania cùng với một mảnh giấy với nét chữ viết tay bay bướm của một phụ nữ quý tộc lớn tuổi: “Những gì mọi người làm... thật tuyệt vời và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của chúng ta. Thật vậy, đây thật sự là bước ngoặt mở ra kỷ nguyên mới và nó sẽ có tầm ảnh hưởng rất lớn.... Chúa từng nói ‘Không phải bằng vũ lực, hay quyền năng, mà là bởi tinh thần ta’, tôi nghĩ đây có lẽ chính là châm ngôn của Hiệp hội Cải cách Montgomery các anh”.
Một cựu thẩm phán Liên bang cũng đã viết: “Các bạn đã chứng minh sự lịch thiệp và lòng quả cảm cuối cùng sẽ vượt lên tất cả... Vấn đề cấp bách có thể vẫn chưa được giải quyết triệt để, nhưng niềm tin và sự kiên định vững vàng chắc chắn sẽ mang lại thắng lợi. Những người bắt bớ đến thời điểm này chắc hẳn đã tự hiểu ra rằng mình đang đấu một trận đấu tàn độc và thất bại là không thể tránh khỏi. Đất nước này kính chào các bạn và cầu chúc cho gánh nặng sẽ sớm được trút bỏ và chiến thắng sẽ đến với các bạn.”
Những lời động viên được gửi đến từ Singapore thì nói rằng, “những gì mà các bạn đang làm đã tạo nguồn cảm hứng thực sự cho chúng tôi ở nhiều nơi trên thế giới, nơi mà sự đấu tranh giữa dân chủ và cộng sản đang vô cùng khốc liệt”. Có đoàn thủy thủ đã gửi đến một bức điện tín: “Chúng tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn và cùng đồng hành trong cuộc đấu tranh vì công lý”. Còn người phụ nữ Thụy Sĩ, có “những người bạn và người chồng không hiểu”, đã gửi cho chúng tôi số tiền mà bà dành dụm được. Đây là một trong những khoản tiền đóng góp cá nhân lớn nhất mà chúng tôi nhận được. Bà viết: “Bởi vì tôi không biết giúp đỡ mọi người như thế nào cho thiết thực (xin hãy tin, tôi thực sự không biết) nhưng tôi tha thiết mong muốn làm được một điều gì đó, nên tôi gửi đến các bạn 500 đô la này... Tôi sẽ rất hạnh phúc nếu các bạn nhận nó, bởi vì nếu không thì tôi còn biết làm gì khác hơn?”
Thật sự phải nói rằng phong trào Montgomery đã được kết nối với thế giới với những phản hồi tích cực. Mặc dù những lá thư này đã đem đến cho chúng tôi rất nhiều sự động viên cần thiết, nhưng chúng cũng gợi đến nỗi bất lực dai dẳng trong tôi. Hiệp hội Cải cách Montgomery vẫn còn thiếu thiết bị văn phòng cùng những tiện nghi và nhân lực. Thiếu thư ký nên phần lớn những lá thư đầu tiên đều không được hồi âm. Ngay cả những đóng góp tài chính cũng không được ghi chép thường xuyên. Càng suy nghĩ nhiều về sự bất lực của mình trong việc giải quyết vấn đề này, tôi càng trở nên phiền não.
Sự bất lực càng tăng lên khi mà nhiều tuần sau khi cuộc phản kháng bắt đầu, mọi người đã gọi điện cho tôi mọi lúc bất kể ngày đêm. Điện thoại đổ chuông từ 5 giờ sáng và hiếm khi nào dừng trước nửa đêm. Đôi khi đó là cuộc gọi của một người đã từng đi xe buýt yêu cầu tôi sắp xếp để cô ấy có thể đi làm và trở về nhà vào một giờ nào đó. Hoặc có khi là cuộc gọi của một tài xế than phiền về những hành khách thiếu hợp tác, hay một hành khách than phiền về một tài xế khó tính. Đôi khi xe của một tài xế bị chết máy, hoặc một người hầu bị người chủ của mình đe dọa cho nghỉ việc nếu cứ tiếp tục từ chối đi xe buýt. Và có lúc lại là một người chỉ muốn biết đâu là trạm trả khách gần chỗ họ nhất. Thỉnh thoảng có người gọi để báo một tài xế nào đó đòi thu phí đi xe của hành khách và điều này cần phải chấm dứt, nếu không sẽ nguy hại cho tính pháp lý của toàn bộ hệ thống này.
Chúng tôi nhận ra tầm quan trọng của một văn phòng với đội ngũ nhân viên có khả năng đối phó với những vấn đề như thế này. Ban đầu chúng tôi dự định chỉ cần những thư ký tình nguyện. Nhưng như vậy không đủ. Thế là chúng tôi tuyển dụng một thư ký toàn thời gian để lo các công việc thường ngày của Hiệp hội, và thiết lập một văn phòng chuyên lo về di chuyển với một thư ký nữa để trực tiếp giải quyết các vấn đề liên can. Thời gian trôi qua, khối lượng công việc thư tín trở nên quá nhiều và công việc di chuyển trở nên quá phức tạp đến mức chúng tôi buộc phải tuyển thêm mười nhân viên văn phòng. Vì thêm nhân viên và các vấn đề quản lý khác, Ban Điều hành đã chỉ định cho tôi một trợ lý, mục sư R. J. Glasco. Tất cả những việc này - tuyển thư ký văn phòng, thiết lập văn phòng di động, tuyển một trợ lý điều hành - đã giảm bớt cho tôi gánh nặng gần như ngoài sức chịu đựng, và giúp tôi lấy lại tinh thần.
Nhưng cứ lo việc di chuyển cho mọi người nên một địa điểm cố định để làm trụ sở cho Hiệp hội Cải cách Montgomery vẫn chưa tìm ra được. Việc này khó hơn chúng tôi nghĩ, văn phòng đã buộc phải dời đi không ít hơn bốn lần trước khi tìm thấy được một nơi tương đối thích hợp.
Trụ sở đầu tiên đặt tại Trung tâm Baptist Da Đen Alabama. Tại đây chúng tôi được sử dụng hai phòng lớn và thêm một phòng họp dành cho các cuộc họp của Ban Điều hành. Cả địa điểm và cơ sở tiện nghi đều đáp ứng được nhu cầu của chúng tôi. Tuy nhiên, ngay khi chúng tôi vừa ổn định mọi thứ tại đây, những quan chức da trắng của Hiệp hội Baptist Montgomery - là tổ chức hỗ trợ tài chính lớn nhất cho hoạt động của Trung tâm - đã mời người đại diện của Trung tâm đến một cuộc họp và đề nghị rằng “vì ích lợi của Trung tâm” và “vì ích lợi của cộng đồng” trụ sở của Hiệp hội Cải cách Montgomery nên dời đi nơi khác. Mặc dù chưa được nghe tuyên bố rõ ràng, nhưng chúng tôi có thể ngầm hiểu một lời đe dọa rằng sự hỗ trợ tài chính sẽ bị chấm dứt nếu yêu cầu đó không được đáp ứng ngay lập tức.
Nhận thấy có vẻ như chúng tôi sắp “vô gia cư”, Rufus Lewis đề nghị Hiệp hội sử dụng câu lạc bộ của ông ấy - Câu lạc bộ Công Dân. Ông dành cho chúng tôi một phòng lớn, vốn thường được dùng cho các bữa yến tiệc, và một phòng nhỏ cho ủy ban Di Chuyển. Nhưng sau khi chúng tôi dọn về Câu lạc bộ Công Dân được khoảng vài tuần, ông Lewis nghe được từ một nguồn đáng tin cậy rằng nếu Hiệp hội còn tiếp tục ở lại đây, giấy phép của ông sẽ bị thu hồi vì lý do Câu lạc bộ đã bị sử dụng như một tòa nhà văn phòng. Trong tình thế khẩn cấp này Nhà thờ Baptist Đệ Nhất đã đề nghị cho chúng tôi mượn một văn phòng hạn hẹp để tạm hoạt động.
Cuối cùng, chúng tôi biết được tòa nhà mới của Liên đoàn Thợ hồ đang có mấy phòng trống thích hợp cho mục đích của chúng tôi. Tại đây chúng tôi sẽ không bị cộng đồng người da trắng buộc phải dời đi, bởi vì phần lớn các thành viên và toàn bộ nhân viên của Liên đoàn sở hữu tòa nhà này là người da đen. Và sau khi đã suy xét như vậy, chúng tôi quyết định thuê nơi này.
Vào lúc này những nhân viên văn phòng đã mệt lừ vì phải di chuyển tới lui khắp thành phố. Trong quá trình di chuyển liên tục này một số lá thư quan trọng suýt nữa bị thất lạc và những tài liệu quan trọng bị lẫn lộn. Nhưng ít ra giờ đây chúng tôi đã có một văn phòng có khả năng hoạt động lâu dài. Lần đầu tiên chúng tôi có đủ không gian làm việc với một chút yên tĩnh và sự an tâm.
Điều quan trọng nhất cho việc duy trì bất kỳ một phong trào nào là những người sáng lập nó phải luôn gắn bó với nhau. Để làm được điều đó thì cần nhiều thứ hơn là chỉ có một mục đích chung: nó cần có một triết lý để chinh phục và giữ mọi người cùng đồng lòng với nhau; nó phụ thuộc vào việc tạo các kênh giao tiếp cởi mở giữa mọi người và người lãnh đạo. Sự kiện Montgomery đã có tất cả những yếu tố này.
Từ giai đoạn đầu tiên, phong trào đã được dẫn dắt dựa trên một triết lý cơ bản. Nguyên tắc được coi là kim chỉ nam nhiều người biết đến vốn dĩ là phản kháng phi bạo lực, bất hợp tác, và bất tuân dân sự. Nhưng trong những ngày đầu tiên của cuộc phản kháng không có bất kỳ tên gọi nào kể trên được nhắc đến, cụm từ mà nhiều người nghe đến nhất là “Tình Yêu Thiên Chúa”. Đó là Bài giảng Trên núi, chứ không phải là lý thuyết về bất tuân dân sự, đã khơi nguồn cảm hứng cho những người da đen ở Montgomery hoạt động xã hội mang lại nhiều lợi ích. chính Chúa Jesus từ làng Nazareth đã thôi thúc người da đen biểu tình với vũ khí sáng tạo xuất phát từ tình yêu thương.
Tuy nhiên, theo thời gian, Mahatma Gandhi đã trở thành nguồn cảm hứng, bắt đầu gây ảnh hưởng lên chúng tôi. Tôi đã sớm nhận ra giáo lý Thiên Chúa về tình yêu thương áp dụng trong phương pháp phi bạo lực của Gandhi là một trong những vũ khí hữu hiệu nhất mà người da đen có thể sử dụng trong công cuộc đấu tranh cho tự do của mình. Khoảng một tuần sau khi cuộc biểu tình bắt đầu, một người phụ nữ da trắng, thấu hiểu và đồng cảm với nỗ lực của người da đen, đã viết một lá thư cho biên tập viên của tờ Montgomery Advertiser, so sánh cuộc phản kháng xe buýt với phong trào Gandhi tại Ấn Độ. Đó là cô Juliette Morgan, đa cảm và mỏng manh, đã không thể chịu đựng được sự từ bỏ và chỉ trích của cộng đồng người da trắng. Nhưng trước khi cô tự vẫn vào mùa hè năm 1957, từ rất lâu rồi cái tên Mahatma Gandhi đã trở nên phổ biến tại Montgomery. Những người trước đây chưa từng nghe về vị Thánh Da Nâu nhỏ người của Ấn Độ, giờ đây đã nhắc đến ông với cảm giác quen thuộc. Phản kháng phi bạo lực đã trở thành phương pháp của phong trào, và tư tưởng dẫn dắt là tình yêu thương. Nói cách khác, Thiên chúa trang bị cho chúng tôi tinh thần và động lực, còn Gandhi cung cấp cho chúng tôi phương pháp.
Triết lý này đã được lan truyền chủ yếu qua các cuộc họp mặt quần chúng được tổ chức tại các nhà thờ người da đen trong Thành phố. Trong nhiều tháng đầu tiên, các cuộc họp diễn ra hai lần một tuần, vào các ngày thứ Hai và thứ Năm. Đến mùa thu năm 1956 đã giảm xuống còn một lần một tuần, và được duy trì cho đến thời điểm này. Vào giai đoạn khởi đầu của cuộc phản kháng, những cuộc họp mặt hai lần một tuần này là kênh thông tin không thể thiếu được khi mà Montgomery không hề có một trạm radio của người da đen hay một tờ báo được nhiều người da đen theo dõi.
Những cuộc họp mặt này xoay vòng hết nhà thờ này sang nhà thờ khác. Các diễn giả thuộc nhiều giáo phái, do đó không thể có sự so đo giữa các giáo phái. Một trong những niềm tự hào của phong trào Montgomery là phái Tẩy Lễ (Baptist), Giám Lý (Methodists), Luther (Lutherans), Tin Lành Trưởng Lão (Presbyterians), Tân Giáo (Episcopalians) và các giáo phái khác đã vượt qua được sự phân biệt mà ngồi lại với nhau. Mặc dù không có bất kỳ linh mục Công giáo nào tích cực tham gia cuộc phản kháng, nhưng rất nhiều giáo dân Công giáo đã góp sức vào đó. Tất cả đều chung tay trong sự gắn kết của tình yêu Thiên Chúa. Kết quả là những cuộc họp mặt quần chúng diễn ra vào các tối thứ Hai và thứ Năm là một điều mà một mình Nhà thờ Cơ Đốc giáo không thể làm được vào các sáng Chúa nhật.
Những cuộc họp này còn xóa bỏ được ranh giới giữa các tầng lớp. Đa số những người có mặt đều thuộc tầng lớp lao động. Tuy nhiên luôn có một số lượng đáng kể những người thuộc tầng lớp trí thức đến tham dự. Những bác sĩ, giáo viên và luật sư ngồi hoặc đứng bên cạnh những người giúp việc và người lao động phổ thông. Những tiến sĩ và những người chẳng có một chữ "sĩ" nào được gắn kết với nhau trên một hành trình chung. Những người được gọi là các “ông lớn” trong cộng đồng da đen, những người có xe hơi và chưa từng phải đi xe buýt đã tiếp xúc với những người hầu và người lao động trước đây phải đi xe buýt hàng ngày. Đàn ông và phụ nữ, những người đã từng có khoảng cách vì những chuẩn mực sáo rỗng về đẳng cấp giờ đây đang hát Thánh ca và nguyện cầu cùng nhau trong một cuộc đấu tranh chung vì tự do và nhân phẩm con người.
Cuộc họp mặt bắt đầu lúc 7 giờ, nhưng người ta thường có mặt từ rất sớm để tìm chỗ ngồi. Sẽ không có gì lạ nếu người ta bắt gặp các nhà thờ đã chứa đầy người vào lúc 5 giờ chiều. Một vài người đọc sách, báo trong lúc đợi, những người khác làm thành nhóm cùng hát ca. Thông thường những bài Thánh ca vang lên trước những buổi họp là những giai điệu phô, chồng lấp, tông trầm với trường độ dài. Bất kỳ ai cũng khó có thể kiềm lòng trước những bài hát truyền thống này, những bài hát gợi nhớ lại quá trình đau khổ dai dẳng của người da đen.
Vào lúc cuộc họp bắt đầu, gần như không còn một chỗ trống, và thường cả trăm người phải đứng tràn ra đường. Nhiều người đến muộn đã tính trước bằng cách đem theo những chiếc ghế xếp, và nhiều người khác quyết định ra về vì họ không thể tìm được chỗ trống. Ban đầu chúng tôi đã cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách tổ chức ít nhất năm cuộc họp mặt liên tục tại những khu khác nhau của Thành phố, mỗi cuộc họp đều có chung chủ đề và cách thức. Trong nhiều tuần liền tôi quyết tâm tham dự hết cả năm cuộc họp, nhưng đây là một công việc vô cùng vất vả. Hơn nữa, mọi người bắt đầu bày tỏ mong muốn được họp mặt cùng nhau, thế là không lâu sau chúng tôi trở về với việc tổ chức một buổi họp quần chúng lớn.
Những cuộc họp này diễn ra theo một trình tự đơn giản: hát, cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, lời khai mạc của Chủ tịch, tổng kết, báo cáo của các ủy ban, và một “bài lên dây cót tinh thần”. Phần sau cùng là phần chính của buổi tối, thường được thực hiện bởi mục sư, mỗi buổi họp một vị khác nhau. Phần “lên dây cót tinh thần” là cái tên có vẻ không được nghiêm túc cho lắm vào những ngày đầu của cuộc phản kháng, khi mà mục tiêu sơ khởi là “cổ vũ tinh thần” và khơi dậy nhiệt huyết để chuẩn bị cho những khó khăn phía trước. Hết tối này đến tối khác, mọi người được nhắc nhở phải yêu thương thay vì thù ghét, và được kêu gọi phải chuẩn bị nếm trải bạo lực nếu cần thiết, nhưng không bao giờ được chủ động gây ra bạo lực. Mỗi diễn giả đều được yêu cầu phải đặt phi bạo lực làm trọng tâm trong bài nói chuyện của mình.
Hiển nhiên có khi không thể tránh khỏi một diễn giả nào đó đi quá giới hạn. Có một mục sư, sau khi trút giận lên người da trắng bằng những cụm từ rõ ràng là phản tôn giáo, kết thúc bài nói bằng việc gọi những người cực đoan của cộng đồng da trắng là “những người tâm thần dơ bẩn”. Sau buổi họp mặt, chúng tôi đã thông báo cho vị mục sư này một cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết rằng những cụm từ xúc phạm đó không được chấp nhận. Và cũng bất ngờ là những trường hợp sử dụng ngôn từ phản cảm như vậy rất hiếm khi xảy ra.
Trong phần nhận xét hàng tuần với tư cách là Chủ tịch, tôi nhấn mạnh việc sử dụng bạo lực trong cuộc đấu tranh của chúng ta là một việc không thiết thực và trái đạo lý. Đáp trả thù hận bằng nhiều thù hận hơn sẽ chẳng làm được gì ngoài gia tăng năng lượng xấu trong vũ trụ. Thù hận sinh ra thù hận; bạo lực đem lại bạo lực; tàn bạo sẽ nhận lại sự tàn bạo lớn hơn nữa. Chúng ta cần phải đối đầu với sức mạnh của hận thù bằng sức mạnh của tình yêu; chúng ta phải đương đầu với sức mạnh vũ lực bằng sức mạnh tinh thần. Chúng ta đừng bao giờ đặt mục tiêu là đánh bại hay hạ nhục người da trắng, mà là giành được tình bằng hữu cùng sự thấu hiểu và cảm thông của họ.
Ngay từ lúc đầu, mọi người đã đón nhận triết lý này bằng lòng nhiệt tình đáng ngạc nhiên. Cân nhắc hơn, có một vài người phải mất một thời gian mới chấp nhận nó. Đôi khi một vài thành viên của Ban Điều hành nói riêng với tôi rằng chúng tôi cần một biện pháp cứng rắn hơn. Họ cho rằng phi bạo lực là một phương pháp yếu đuối và thỏa hiệp. Những người khác cảm thấy một chút bạo lực sẽ thuyết phục người da trắng tin rằng người da đen đang nghiêm túc và họ không sợ hãi. Một hôm, một thành viên tại nhà thờ của tôi đã tìm tôi và nghiêm túc để nghị rằng việc “thủ tiêu” tám hoặc mười người da trắng sẽ đem lại lợi thế cho mọi người. “Đây là loại thông điệp duy nhất mà những người da trắng có thể hiểu được”, anh ta nói. “Nếu chúng ta không làm được điều này họ sẽ nghĩ rằng chúng ta đang run sợ. chúng ta phải cho họ thấy rằng mình không còn sợ hãi nữa”. Ngoài ra, anh ta còn nghĩ nếu một vài người da trắng bị sát hại thì Chính phủ Liên bang chắc chắn sẽ can thiệp và điều này, anh ta quả quyết, sẽ đem lại ích lợi cho chúng tôi.
Những người khác, dù không khuyến khích bạo lực, vẫn cảm thấy họ chỉ có thể phi bạo lực khi cá nhân họ không bị tấn công. Họ nói rằng: “Nếu không ai làm phiền tôi, tôi sẽ không làm phiền ai hết. Nếu không ai đánh tôi, tôi sẽ không đánh ai hết. Nhưng nếu tôi bị đánh, tôi sẽ đánh trả”. Do đó họ đặt ra một ranh giới đạo đức giữa bạo lực hung hãn và bạo lực phản kháng. Nhưng mặc những bất đồng thực sự đó, đa số mọi người đều sẵn lòng thử nghiệm lý thuyết này.
Chính tinh thần của những buổi họp mặt đã cho thấy con người thật của mọi người. Những bài hát, những lời cầu nguyện, những lời đọc Kinh Thánh, và những bài phát biểu nhìn chung đều mang màu sắc phi bạo lực. Một đoạn trong Kinh Thánh được mọi người ưa thích là “Giờ đây sống trong niềm tin, hy vọng và tình yêu, trong đó điều vĩ đại nhất là tình yêu”. Một đoạn khác cũng được yêu thích là cuộc đối thoại nổi tiếng giữa Chúa Jesus và Thánh Phêrô về lòng khoan dung: “Và rồi Phêrô đến bên Người và hỏi “Thưa Ngài, sao huynh đệ con làm tổn hại con mà con phải tha thứ cho hắn? Đến bảy lần?”. Chúa Jesus trả lời “Ta không dạy các con đến bảy lần mà là gấp bảy mươi lần bảy như thế. Đối với những người đến dự cuộc họp mặt quần chúng, những lời dạy từ Kinh Thánh này không phải là những ý tưởng trừu tượng vọng lại từ những thế kỷ trước xa xôi, mà chúng thực sự có ý nghĩa đối với bản thân mỗi người ngay trong hiện tại.
Trong suốt hành trình, thật đáng ngạc nhiên là sự cay nghiệt rất ít khi xuất hiện, ngay cả khi những diễn giả nhắc tới sự xúc phạm gần đây nhất của người da trắng hay hành động khủng bố của họ. Và ngay cả sau đó, khi Hiệp hội phải đối mặt với cơn khủng hoảng nội bộ nghiêm trọng duy nhất trong quá trình hoạt động, mọi người đã cho thấy rằng họ có thể giải quyết bất đồng với một sự kiềm chế ôn hòa, tránh xa không chỉ các hành động bạo lực mà ngay cả trong suy nghĩ.
Trên thực tế, những người da đen Montgomery sẵn sàng học hỏi một biện pháp mới để giải quyết khủng hoảng trong mối quan hệ chủng tộc. Có thể phần lớn họ thật sự vẫn không tin vào phi bạo lực như một triết lý sống, nhưng vì niềm tin dành cho các thủ lĩnh của mình và vì phi bạo lực được đưa đến với họ đơn giản như một cách thực hành giáo lý Cơ Đốc giáo, họ sẵn sàng thực hiện nó như một phương pháp. Nhưng phải nhìn nhận rằng, phi bạo lực theo nghĩa thực chất của nó không phải là một chiến lược mà người ta sử dụng chỉ bởi nó phù hợp vào thời điểm đó. Sau tất cả, phi bạo lực thực sự là một cách mà con người hành xử vì tinh thần đạo đức cao cả đã được khẳng định. Nhưng ngay cả như vậy đi nữa thì việc sẵn lòng sử dụng phương pháp phi bạo lực đã là một sự tiến bộ. Bởi vì những ai đã đi đến bước này rồi thì sau đó sẽ có xu hướng tiếp nhận phi bạo lực như một lẽ sống.