← Quay lại trang sách

Chương VI Hành hương đến phi bạo lực

Có một câu hỏi thường xuyên được đặt ra trong quá trình nhận thức của tôi về Phi bạo lực. Để hiểu được vấn đề này, phải quay trở về tuổi thơ ở độ tuổi mười mấy của tôi ở Atlanta. Từ bé cho đến lớn, tôi đã ghê tởm sự phân biệt kỳ thị đi cùng với sự đàn áp và các hành động man rợ. Tôi từng đi ngang qua những nơi người da đen bị hành hình dã man, và đã từng thấy vó ngựa đêm của nhóm người Ku Klux Klan. Tôi đã chính mắt thấy sự thô bạo của cảnh sát, và đã trông thấy cảnh người da đen bị xử bất công bi thảm nhất ở tòa án. Tất cả những điều này đã ảnh hưởng đến tính cách của tôi khi tôi trưởng thành. Nó nghiêm trọng đến mức đã khiến tôi gần như rất oán giận tất cả người da trắng.

Tôi cũng hiểu ra được sự bất công kỳ thị chủng tộc và sự bất công về kinh tế là cặp bài trùng như bóng với hình. Mặc dù tôi xuất thân từ gia đình có kinh tế ổn định và có cuộc sống khá thoải mái, nhưng những hình ảnh khốn khó của đám bạn chơi chung cùng với sự bần cùng bi thảm của những người sống xung quanh chưa bao giờ ngừng ám ảnh tôi. Năm 18 và 19 tuổi, tôi đi làm vào mùa hè, điều đó ngược với ý muốn của cha tôi. Ông không hề muốn tôi và em trai tôi làm việc trong môi trường của người da trắng có nhiều áp bức. Đó là xưởng có cả người da trắng và da đen làm việc. Ở đây tôi thấy tận mắt sự đối xử bất công; người nghèo hèn da trắng cũng bị lợi dụng nhiều như người da đen. Qua những trải nghiệm sớm sủa ấy, tôi đã ý thức sâu sắc về các loại bất công trong xã hội mình đang sống.

Vì thế, vào năm 1944, khi trở thành sinh viên năm thứ nhất của trường Đại học Morehouse ở Atlanta tôi đã rất quan tâm đến sự bất công về chủng tộc và kinh tế. Thời sinh viên ở Morehouse, khi đọc “Bài luận về Bất tuân dân sự” của Thoreau, tôi đã bị lôi cuốn bởi ý nghĩ bất hợp tác với một chế độ xấu xa. Tôi đã rất xúc động và đọc đi đọc lại mấy lượt bài luận ấy. Đó là lần đầu tiên tôi được đọc luận thuyết đầy trí tuệ về phản kháng phi bạo lực.

Mãi cho đến năm 1948, khi vào trường dòng thần học Crozer, tôi mới thực sự bắt đầu hành trình tìm kiếm cách loại bỏ những cái xấu, cái ác trong xã hội. Mặc dù niềm đam mê của tôi là thần học và triết học, tôi đã dành rất nhiều thời gian để đọc những tác phẩm của các triết gia xã hội nổi tiếng. Tôi đã sớm được đọc “Đạo Cơ Đốc và khủng hoảng xã hội” của Walter Rauschenbusch. Tác phẩm này đã tạo một dấu ấn khó phai nhạt trong tôi, nó trở thành nền tảng tư duy (theo thần học) khi mối quan tâm xã hội của tôi ngày một lớn dần qua những trải nghiệm trong quá khứ. Dĩ nhiên có những điểm khác biệt giữa tôi và Rauschenbusch. Tôi cảm thấy ông quá tin vào “Thuyết tiến bộ tất yếu” (Cult ofinevitableprogress) của thế kỷ 19 dẫn đến việc ông quá lạc quan về bản chất tự nhiên của con người. Ông còn gần như muốn định nghĩa một cách nguy hại về Thế giới của Thượng Đế là một hệ thống xã hội, kinh tế đặc biệt - một khuynh hướng mà Giáo hội không bao giờ chấp nhận. Dù có những thiếu sót này, nhưng Rauschenbusch cũng đã có đóng góp cho Giáo Hội Cơ Đốc bằng cách nhấn mạnh Phúc Âm (là những thông điệp của Thượng đế) giúp giải quyết vấn để con người, không chỉ tâm hồn mà cả thể xác, không chỉ là nói về hạnh phúc tinh thần, mà cả hạnh phúc vật chất. Điều đã thuyết phục tôi khi đọc Rauschenbusch là nếu tôn giáo nào tự nhận chỉ quan tâm đến linh hồn, không quan tâm đến tình trạng kinh tế xã hội đã làm tổn thương tâm hồn thì đó là một tôn giáo suy tàn chỉ chờ ngày mai táng hiểu theo nghĩa bóng. Điều đó được diễn giải như thế này: “Một tôn giáo mà chỉ lo cho con người hoặc về mặt tâm linh hoặc chỉ về vật chất thì tôn giáo ấy đã tự kết liễu mình”.

Sau khi đọc những gì Rauschenbusch viết, tôi chuyển sang nghiên cứu chuyên sâu lý thuyết về xã hội và đạo đức của những triết gia danh tiếng, từ Plato và Aristotle cho đến Rousseau, Hobbes, Bentham, Mill và Locke. Tất cả những bậc thầy này đã nuôi dưỡng tư duy của tôi từ khi nó còn sơ khai. Mặc dù trong chia sẻ của mỗi tác giả tôi đều có điểm băn khoăn, cuối cùng tôi vẫn học được rất nhiều từ những nghiên cứu của họ.

Trong thời gian nghỉ Giáng Sinh năm 1949, tôi quyết định dành thời gian rảnh đọc Karl Marx để hiểu lý do vì sao Chủ nghĩa Cộng sản lại thu hút nhiều người đến vậy. Lần đầu tiên tôi phân tích tỉ mỉ cuốn Tư bản và Tuyên ngôn Cộng sản. Và cũng đọc thêm vài Công trình lý giải tư duy của Marx và Lenin. Trong quá trình đọc những tác phẩm Cộng sản đó tôi đã rút ra được một số kết luận và vẫn bảo lưu nó cho đến ngày hôm nay.

[...]

Trong thời gian ở Crozer, lần đầu tiên tôi được nghe Giáo sư A. J. Muste giảng về Chủ nghĩa Hòa bình. Bài nói của Giáo sư Muste đã làm tôi cảm động vô cùng, nhưng lại không thể thuyết phục tôi về tính thực tiễn của chủ nghĩa ấy của ông. Như phần lớn các sinh viên khác ở Crozer, tôi cảm nhận rằng chiến tranh thật sự không phải là một điều tích cực hay chân lý tuyệt đối, nhưng nó có thể sử dụng như một phương cách dù là tiêu cực, để ngăn cản sự lan truyền và phát triển của những thế lực gian ác. Chiến tranh, vốn là một điều tồi tệ, có thể vẫn đáng chọn hơn là đầu hàng trước một hệ thống toàn trị như Đức quốc xã, Phát xít hay Cộng sản.

Trong giai đoạn này, tôi gần như đã mất niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Có lẽ niềm tin của tôi vào tình thương đã bị tạm thời lung lay bởi triết lý của Nietzsche. Lúc bấy giờ tôi đã đọc được một vài phần của quyển Phả hệ Đạo đức (The Genealogy of Momls) và toàn bộ quyển Ý chí Quyền lực (The Will to Power). Sự tôn vinh quyền lực của Nietzsche - ỏng đưa ra lý thuyết cho rằng mọi loài đều khát khao quyền lực - là hệ quả của thái độ xem nhẹ đạo lý thông thường của ông ta. Ông tấn công toàn bộ hệ thống đạo lý của Kito giáo Do Thái - bao gồm sự sùng đạo và khiêm nhường, niềm tin về thế giới khác và thái độ đối với những đau khổ - rằng sùng đạo là bênh vực sự yếu đuối, khiêm nhường là vờ đức hạnh trong sự bất đắc dĩ và bất lực. Ông ta trông đợi sự phát triển của một giống người thượng đẳng, mà sẽ vượt lên trên nhân loại ngày nay như cách con người đã từng vượt lên trên loài khỉ.

Nhưng rồi vào một trưa Chúa nhật tôi đến Philadelphia để nghe bài thuyết giảng của Giáo sư Mordecai Johnson, Viện trưởng Trường Đại học Howard. Ông tới để thuyết giảng tại Trung tâm phục hồi tâm lý Fellowship House. Giáo sư Johnson vừa trở về từ chuyến viếng thăm Ấn Độ, và điều khiến tôi thích thú là ông đã nói về cuộc đời và những bài thuyết giảng của Mahatma Gandhi. Thông điệp của ông ấy sâu sắc và rúng động đến mức ngay sau khi ra về tôi đã mua cả sáu cuốn sách về cuộc đời và sự nghiệp của Gandhi.

Như phần lớn mọi người, tôi đã từng nghe đến Gandhi, nhưng tôi chưa bao giờ nghiên cứu nghiêm túc về ông ấy. Trong quá trình tìm hiểu, tôi đã rất ấn tượng bởi chiến dịch phản kháng phi bạo lực của ông ấy. Tôi đặc biệt cảm động trước Cuộc Tuần hành Muối, [2] và vô số lần tuyệt thực của ông. Toàn bộ tư tưởng về “Satyagraha” ( Satya vừa mang nghĩa chân lý vừa là tình thương, và agraha là sức mạnh. “Satyagraha”, theo đó có nghĩa là sức mạnh chân lý hay sức mạnh tình thương) đối với tôi có tầm quan trọng vô cùng to lớn. Càng nghiên cứu sâu về triết lý của Gandhi, sự hồ nghi của tôi về sức mạnh của tình thương dần tan biến, và lần đầu tiên trong đời tôi thấy được sức ảnh hưởng của nó trong lĩnh vực cải cách xã hội.

Trước khi nghiên cứu về Gandhi, tôi đã hời hợt kết luận giáo lý của Chúa Jesus chỉ hiệu quả trong các mối quan hệ cá nhân. Triết lý “vả má bên này, đưa luôn má bên kia” và “yêu thương kẻ thù của mình” theo như tôi cảm nhận, chỉ có giá trị khi mà các cá nhân gặp mâu thuẫn với nhau. Khi các nhóm chủng tộc và quốc gia xảy ra mâu thuẫn thì một giải pháp thực tế hơn mới là điều ta cần. Nhưng sau khi đọc về Gandhi, tôi nhận ra mình đã sai lầm đến nhường nào.

Gandhi có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử đã nâng giáo lý về tình thương của Chúa Jesus vượt lên trên sự tương tác đơn thuần giữa những cá nhân thành một sức mạnh xã hội đắc lực và hiệu quả trên diện rộng. Đối với Gandhi, tình thương là một công cụ mạnh mẽ để đưa đến cải cách xã hội và thay đổi thể chế. Chính trong sự đề cao tình thương và bất bạo động này của Gandhi, tôi phát hiện ra đây là phương pháp cải cách xã hội mà tôi đã tìm kiếm trong bao nhiêu tháng trời.

Tôi mãn nguyện về tri thức và đạo lý mà tôi tìm được trong triết lý phản kháng phi bạo lực của Gandhi, trong khi không nhận được những điều đó từ chủ nghĩa thực dụng của Bentham và Mill, từ phương pháp cách mạng của Marx và Lenin, từ lý thuyết khế ước xã hội của Hobbes, từ sự lạc quan “trở về tự nhiên” của Rousseau, và từ triết lý giống người thượng đẳng của Nietzsche. Cuối cùng tôi đã nhận ra rằng đây là phương pháp hợp lẽ phải và khả thi duy nhất dành cho những người bị áp bức trong quá trình đấu tranh cho tự do.

Hành trình tri thức đến phi bạo lực của tôi không dừng ở đó. Trong năm cuối tại trường Thần học, tôi bắt đầu đọc các tác phẩm của Reinhold Niebuhr. Những yếu tố tiên đoán và thực tế trong văn phong mãnh liệt của Niebuhr và những suy nghĩ thâm uyên của ông đã hấp dẫn tôi, và tôi trở nên quá say mê những đạo lý xã hội của ông ấy đến mức gần như rơi vào tình trạng tiếp nhận mà không hề phân tích tất cả những gì ông viết.

Trong khoảng thời gian này, tôi đọc những bình luận của Niebuhr về quan điểm chống chiến tranh. Niebuhr đã từng là một thành viên đứng trong hàng ngũ của trường phái Hòa bình. Trong nhiều năm, ông là Chủ tịch toàn quốc của Hiệp hội Hòa giải. Sự chia tay của ông với trường phái Hòa bình xảy ra vào đầu thập niên ba mươi, và những lời chỉ trích của ông được tuyên bố đầy đủ đầu tiên trong cuốn Con người Đạo đức và Xã hội Vô Đạo đức (MoralMan and Immoral Society). Trong đó ông lập luận rằng thực chất không có sự mâu thuẫn nào về vấn đề đạo đức giữa phản kháng bạo lực và phản kháng phi bạo lực. Ông khẳng định, chẳng qua chỉ khác nhau là ở hệ quả xã hội mà hai phương pháp để lại, nhưng sự khác biệt này thuộc về mức độ chứ không phải về bản chất. Sau đó Niebuhr bắt đầu nhấn mạnh sự vô trách nhiệm của việc dựa dẫm vào phản kháng phi bạo lực, khi mà không có bất kỳ cơ sở nào để tin nó sẽ thành công trong việc ngãn chặn sự lan truyền của nền độc tài toàn trị. Ông lập luận rằng phản kháng phi bạo lực chỉ thành công khi đối phương còn có lương tâm đạo đức ở một mức độ nhất định nào đó, ví dụ như trường hợp cuộc đấu tranh chống lại người Anh của Gandhi. Và lập luận cuối cùng bác bỏ Chủ nghĩa Hòa bình của Niebuhr chủ yếu dựa trên học thuyết về con người. Ông cho rằng trường phái Hòa bình đã thất bại trong việc thực hiện đúng giáo lý cải cách về sự Công chính [3] theo đức tin, thay vào đó là một trường phái theo chủ nghĩa hoàn hảo tin rằng an sủng thiêng liêng thật sự có thể đưa con người thoát ra khỏi những mâu thuẫn đẫy lỗi lầm trong quá khứ và đem họ lên thiên đường xa rời những tội lỗi của thế gian”.

Thoạt đầu, những chỉ trích của Niebuhr về Chủ nghĩa Hòa bình làm cho tôi bối rối. Nhưng càng đọc nhiều hơn, tôi lại phát hiện ngày càng nhiều lỗ hổng trong quan điểm của ông ấy. Ví dụ như rất nhiều phát biểu của ông ấy cho thấy ông ấy nhìn nhận Chủ nghĩa Hòa bình như một loại phản kháng thụ động đối với cái ác và biểu hiện một niềm tin dại khờ vào sức mạnh của tình thương. Nhưng đó là một sự bóp méo nghiêm trọng. Kết quả nghiên cứu về Gandhi đã cho tôi nhận thức thấy Chủ nghĩa Hòa bình đích thực không phải là không kháng cự lại cái ác, mà là phản kháng lại nó một cách phi bạo lực. Giữa hai ý tưởng này có một sự khác biệt vô cùng lớn. Gandhi phản đối cái ác với một nghị lực và sức mạnh chẳng kém gì những nhà đầu tranh bạo động, nhưng ông phản kháng bằng tình thương thay vì bằng lòng thù hận. Chủ nghĩa Hòa bình đích thực không phải là một sự quy phục mù quáng dưới quyền lực của cái ác, như Niebuhr tranh luận.

Nói đúng hơn nó là một cách đối mặt đầy can đảm với quyền lực của cái ác bằng tình thương, với niềm tin rằng chấp nhận làm người gánh chịu bạo lực thay vì là kẻ gây ra bạo lực sẽ tốt hơn. Bởi vì gây ra bạo lực là chỉ làm tăng thêm sự tồn tại của bạo lực và sự đau đớn trong vũ trụ, trong khi đó bằng lòng thương yêu ta có thể đánh động sự hổ thẹn của đối phương, và từ đó mang lại một sự chuyển hóa và thay đổi nhận thức.

Mặc dù thực tế tôi cảm nhận là triết lý của Niebuhr còn nhiều thiếu sót, nhưng có rất nhiều lúc ông đã gây ảnh hưởng tích cực đến tư duy của tôi. Niebuhr đã có đóng góp lớn cho thuyết Thần học đương đại qua việc bác bỏ sự lạc quan hão - điểm đặc trưng của một phần lớn những người theo Chủ nghĩa Tự do Tin Lành - mà không lạc lối vào con đường chống đối chủ nghĩa lý luận như nhà thần học lục địa Karl Barth, hay trào lưu bán chính thống của những nhà thần học biện chứng khác. Ngoài ra, Niebuhr có những hiểu biết rất sâu sắc về bản chất con người, đặc biệt là về chế độ của các quốc gia và hành vi của các nhóm xã hội. Ông nhận thức rất rõ về tính phức tạp đằng sau động cơ của con người và mối liên hệ giữa luân lý và quyền lực. Lý thuyết thần học của ông nhắc đi nhắc lại thực trạng các cấp độ tội ác của con người. Những yếu tố này trong tư duy của Niebuhr đã giúp tôi nhận ra ảo tưởng về bản chất con người do sự lạc quan thiếu suy xét và tác hại của một chủ nghĩa duy tâm sai lầm. Tôi vẫn tin vào lòng hướng thiện của con người, nhưng Niebuhr đã cho tôi thấy được cả dã tâm ác độc tiềm ẩn nữa. Và hơn thế, Niebuhr đã giúp tôi nhận ra sự phức tạp trong hoạt động xã hội của con người và tình trạng đáng báo động của cái ác có tổ chức.

Tôi có cảm giác rằng nhiều người theo trường phái Hòa bình không ý thức được điều này. Quá nhiều người trong số họ đã có sự lạc quan vô căn cứ về con người và vô hình trung nghiêng về xu hướng tự cao tự mãn. Chính vì không chấp nhận những thái độ này, do ảnh hưởng của Niebuhr, khiến tôi chưa bao giờ tham gia một tổ chức Chủ nghĩa Hòa bình nào mặc dù tôi đánh giá rất cao trường phái Hòa bình. Sau khi đọc Niebuhr, tôi đã cố tìm đến một chủ nghĩa hòa bình khả thi hơn. Nói cách khác, tôi nhận ra quan điểm đấu tranh ôn hòa không phải là hoàn toàn thánh thiện mà là hành xử ít tàn nhẫn hơn trong bối cảnh đấu tranh. Cho đến nay tôi vẫn nghĩ rằng những người theo trường phái Hòa bình sẽ có sức thuyết phục hơn nhiều nếu họ không tuyên bố rằng luân lý đạo đức không ràng buộc họ, như những người Công giáo không theo trường phái Hòa bình.

Giai đoạn tiếp theo của chuyến hành hương bằng lý trí đến phi bạo lực diễn ra trong lúc tôi đang học tiến sĩ tại trường đại học Boston. Tại đây tôi đã có cơ hội trao đổi với rất nhiều người ủng hộ phi bạo lực, cả sinh viên lẫn diễn giả được mời đến trường. Trường Đại học Thần học Boston, dưới sự ảnh hưởng của Dean Walter Muelder và Giáo sư Allen Knight Chalmers, dành nhiều thiện cảm đối với Chủ nghĩa Hòa bình. Cả Dean Muelder và Giáo sứ Chalmers đều có một niềm đam mê với công lý xã hội, bắt nguồn không phải từ một niềm lạc quan do sự nông cạn mà là từ niềm tin vững chắc vào khả năng của con người khi họ dấn thân trở thành người cộng sự của Chúa. Chính thời gian học ở trường Đại học Boston tôi nhận ra Niebuhr đã cường điệu hóa những điều bại hoại xấu xa trong bản chất của con người. Cái nhìn bi quan của ông về con người đã không được điều tiết bằng niềm lạc quan về bản chất thánh thiện trong họ. Ông đã quá say mê mổ xẻ căn bệnh tội lỗi của con người đến mức bỏ qua khả năng chữa lành của lòng nhân ái.

Trong thời gian ở Đại học Boston, tôi đã học về triết học và thần học với Edgar S. Brightman và L. Harold DeWolf. Cả hai đã kích thích tư duy của tôi rất nhiều. Dưới sự hướng dẫn của hai người thầy này tôi được học về triết học Chủ nghĩa Nhân Cách - lý thuyết cho rằng ý nghĩa của thực thể tối cao được tìm thấy trong nhân cách con người. Chủ nghĩa Nhân Cách Duy Tâm (trong tương quan với Thượng đế) này cho đến ngày nay vẫn giữ vai trò nền tảng trong triết lý tư duy của tôi. Sự khẳng định trong chủ nghĩa Nhân Cách rằng chỉ có nhân cách - hữu hạn và vô hạn - (hướng thiện và phát triển từ hữu hạn đến vô hạn) mới là sự thật cuối cùng về con người, khiến hai niềm tin của tôi càng được củng cố mạnh mẽ. Đó là, niềm tin về một đấng Thượng Đế mang hình hài con người - đã được đặt trên cơ sở triết lý siêu nhiên; và niềm tin đối với chân giá trị của tất cả nhân cách con người. (Nhân cách học trong thần giáo, Personalism - đặc biệt là Công giáo - con người hướng thiện phát triển nhân cách đến cuối cùng là hợp nhất với Thượng đế.)

Trong thời gian cuối đời của Giáo sư Brightman, tôi đẵ bắt đầu công trình nghiên cứu triết lý của Hegel cùng với ông. Mặc dù khóa học chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu tác phẩm trứ danh của Hegel, Hiện tượng học Tâm trí (Phenomenology of Mind), tôi vẫn dành thời gian rảnh để đọc các tác phẩm khác của ông như Triết học Lịch sử (Philosophy of History) và Triết học về Quyền (Philosophy of Life). Có những điểm trong triết lý của Hegel mà tôi rất không tán đồng. Ví dụ như Chủ nghĩa Duy Tâm Tuyệt Đối của ông ấy thật sự vô lý bởi vì nó có xu hướng đánh đồng nhiều điều vào một thứ duy nhất. Nhưng có những khía cạnh khác trong tư duy của ông ấy khiến tôi hứng thú. Luận điểm chân lý toàn diện [4] của ông đưa tôi đến với một phương pháp lý luận triết học mạch lạc. Những phân tích của ông về quá trình biện chứng, cho dù có những hạn chế, đã giúp tôi thấy được rằng để có sự phát triển thì phải trải qua thử thách.

Năm 1954, tôi hoàn tất chương trình tập huấn chính quy về triết học xã hội thực chứng được quy kết từ nghiên cứu của nhiều nhóm trí thức khác nhau. Một trong những nguyên lý chính của môn triết học này là sự khẳng định phản kháng phi bạo lực là vũ khí mạnh mẽ nhất mà những người chịu áp bức có thể sử dụng trong cuộc đấu tranh đòi công lý xã hội của họ. Tuy nhiên, tại thời điểm đó tôi chỉ học để thu thập kiến thức và thấy thích quan điểm này, chứ tôi chưa đặt quyết tâm để tổ chức nó thành một trường hợp gây được sức ảnh hưởng lên xã hội.

Khi đến Montgomery với vai trò là một mục sư, tôi không hề ngờ đến việc mình sẽ bị cuốn vào một cuộc khủng hoảng, nơi mà phản kháng phi bạo lực sẽ phát huy tác dụng. Tôi chưa từng khởi xướng hay đề nghị một cuộc phản kháng, mà chỉ đơn giản là đáp lại mong muốn có một người đại diện của người dân. Khi cuộc phản kháng bắt đầu, dù là ý thức hay vô thức, Bài giảng Trên núi của Chúa đã trở về trong tâm trí tôi - với những lời dạy cao cả của Ngài về tình thương - và phương pháp phản kháng phi bạo lực của Gandhi. Mỗi ngày qua đi, tôi càng thấy rõ hơn sức mạnh của phi bạo lực. Được sống qua những trải nghiệm thực tế của cuộc biểu tình, trong tôi phi bạo lực không chỉ là một phương pháp mà tôi tán thành trên lý thuyết nữa, nó đã trở thành một lối sống mà tôi nguyện gắn bó. Rất nhiều điều trước đó tôi không thể làm rõ trên lý thuyết khi bàn về phi bạo lực, giờ đây đã được giải quyết trong hoạt động thực tế.

Bởi vi triết lý phi bạo lực đã đóng một vai trò vô cùng rõ rệt trong Phong trào Montgomery. Một ít phân tích ngắn gọn về những khía cạnh cơ bản của triết lý này có lẽ cũng rất bổ ích.

Đầu tiên, cần phải nhấn mạnh rằng phản kháng phi bạo lực không phải là phương pháp dành cho những kẻ hèn nhát, bởi nó vẫn là sự kháng cự. Nếu một ai đó sử dụng phương pháp này vì họ sợ hãi hay đơn thuần là họ thiếu công cụ để thực hiện phản kháng bạo lực thì đó không phải là phi bạo lực thật sự. Đây là lý do vì sao Gandhi vẫn thường nói, nếu sự hèn nhát là cách duy nhất để không phải dùng đến bạo lực thì chọn cách chiến đấu vẫn hơn. Ông đưa ra phát biểu này khi ông hiểu rõ là sẽ luôn có một cách khác mà không phải sử dụng bạo lực: không một cá nhân hay một nhóm nào buộc phải quy phục cái ác, và họ cũng không cần sử dụng vũ lực để chỉnh sửa những điều sai trái. Cách khác đó chính là con đường của phản kháng phi bạo lực. Nói cho cùng đây là con đường của người mạnh mẽ. Nó không phải là một phương pháp bị động, trì trệ. Cụm từ “phản kháng thụ động” thường gây nhầm lẫn rằng đây là loại phương pháp “không làm gì cả”, qua đó người phản kháng lặng lẽ và thụ động chấp nhận cái ác. Nhưng đây là một sự nhầm lẫn trầm trọng. Mặc dù có thể nói người phản kháng phi bạo lực thụ động trong việc thực hiện những hành động hung hãn chống lại đối phương của mình, nhưng suy nghĩ và cảm xúc của họ luôn trong trạng thái chủ động, liên tục tìm cách thuyết phục để đối phương nhận thấy mình phạm sai lầm. Phương pháp này thụ động về mặt vật lý, nhưng cực kỳ chủ động về mặt tinh thần. Nó không phải là phản kháng phi bạo lực thụ động với cái ác, mà là sự phản kháng phi bạo lực một cách chủ động nhằm chống lại cái ác.

Tính chất cơ bản thứ hai làm nên sự đặc trưng của phi bạo lực là nó không mong đợi để đánh bại hay hạ nhục đối phương, mà là tìm kiếm tình hữu nghị và sự thấu hiểu từ họ. Những người phản kháng phi bạo lực sẽ phải thường xuyên thể hiện sự chống đối của mình thông qua việc bất hợp tác và tẩy chay, song vẫn ý thức rằng những hành động này không phải là mục tiêu cuối cùng, chúng chỉ là những phương tiện để đánh thức sự hổ thẹn với lương tri của đối phương. Mục tiêu cuối cùng chính là sự hối cải và hòa giải. Kết quả mà phi bạo lực mang lại là sự ra đời của một cộng đồng giàu tình thương, trong khi kết quả mà bạo lực mang lại là những bi kịch cay đắng!

Đặc tính thứ ba của phương pháp này là sự phản kháng nhắm vào cái ác chứ không phải những con người gây ra việc ác. Cái ác mới chính là đối thủ mà những người phản kháng phi bạo lực mong muốn đánh bại, chứ không phải những người bị điều khiển bởi cái ác. Khi chống đối bất công chủng tộc thì người phản kháng phi bạo lực thấy được nguyên nhân sâu xa hơn rằng mấu chốt không nằm ở vấn đề chủng tộc. Như cách tôi hay nói với người dân tại Montgomery: “Tình trạng căng thẳng đang tồn tại trong Thành phố này không phải là giữa người da trắng và người da đen. Sự căng thẳng này thực ra là giữa công lý và bất công, giữa thế lực ánh sáng và bóng tối. Nếu có giành được chiến thắng, đó là chiến thắng không chỉ của năm mươi ngàn người da đen, mà còn là chiến thắng của công lý và thế lực ánh sáng. Chúng ta quyết tâm đánh bại bất công chứ không phải người da trắng, những ngưòi đang đối xử bất công với chúng ta”.

Điểm thứ tư để phân biệt phản kháng phi bạo lực chính là thái độ sẵn sàng chấp nhận đau khổ mà không trả thù, sẵn sàng nhận đòn đánh của đối phương mà không đánh trả lại. “Máu có thể sẽ đổ thành sông trước khi chúng ta đạt được tự do, nhưng đó phải là máu của chính chúng ta”, Gandhi đã nói với đồng bào của ông như vậy. Người phản kháng phi bạo lực phải sẵn sàng chấp nhận bạo lực nếu cần thiết, nhưng không bao giờ được gây ra nó. Họ cũng không tìm cách để né tránh tù đày. Nếu cần, họ sẽ bước vào tù “như một chú rể bước vào phòng tân hôn”.

Người ta có thể sẽ hỏi rằng: “Những người theo đường lối phản kháng phi bạo lực có lý lẽ nào biện minh cho thử thách mà họ đang kêu gọi người khác tham gia, cho việc áp dụng phổ biến đường lối chính trị theo triết lý cổ xưa là đưa má còn lại cho đối thủ?” Câu trả lời sẽ được tìm thấy khi ta nhận ra sức mạnh sửa đổi người khác trong việc chấp nhận chịu sự tổn thương vô cớ. Người phản kháng phi bạo lực hiểu được việc chấp nhận tổn thương có sức mạnh giáo dục và thay đổi to lớn đến mức nào. “Những điều quan trọng cốt lõi đối với con người không thể được đảm bảo chỉ bằng lý lẽ, mà còn phải trả giá bằng đau thương của họ”, Gandhi đã từng nói như thế. Ông còn nói: “Chấp nhận tổn thương có một sức mạnh vô hạn so với quan điểm mạnh được yếu thua trong việc chinh phục đối phương và thuyết phục họ bằng lý lẽ, bằng không họ sẽ không bao giờ lắng nghe”.

Điểm thứ năm cần bàn đến về phản kháng phi bạo lực là nó không chỉ tránh bạo lực thể xác ở bên ngoài mà còn cả bạo lực tinh thần ở bên trong. Một người phản kháng phi bạo lực không chỉ từ chối việc bắn đối thủ của mình mà còn từ chối cả việc căm ghét hắn. Trong sâu thẳm mỗi người phản kháng phi bạo lực là lòng yêu thương. Người phản kháng phi bạo lực nghĩ rằng, trong quá trình đấu tranh cho nhân phẩm, dù có chịu áp bức cũng không được để cho sự cay nghiệt chi phối hay tham gia vào những chiến dịch thù hận. Phản kháng bằng những cách đó sẽ chỉ làm tăng thêm sự tồn tại của thù hận trong vũ trụ này. Một lúc nào đó trên hành trình này, phải có một ai đó có đủ lý lẽ và đạo đức để cắt đứt sợi dây xiềng xích thù hận này. Việc này chỉ có thể làm được khi ta thúc đẩy cho nguyên lý tình yêu thương trở thành tâm điểm trong đời sống của mình.

Ở đây khi nói đến tình yêu, chúng ta không nói đến cảm xúc yêu đương hay yêu thích một ai đó. Thật là vô lý khi khuyến khích người nào đó yêu kẻ đàn áp mình. Tình yêu trong bối cảnh này có nghĩa là sự thấu hiểu, là thiện chí sửa đổi đối phương. Đây là lúc mà chúng ta phải dùng đến sự trợ giúp của ngôn ngữ Hy Lạp. Có ba từ khác nhau để chỉ tình yêu trong kinh Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Đầu tiên là eros. Trong triết học Plato, eros có nghĩa là sự khao khát của tâm hồn về một điều thiêng liêng. Ngày nay nó được hiểu là tình yêu thơ mộng hay tình yêu lãng mạn. Thứ hai, philia có nghĩa là sự cảm mến thân mật giữa những người bạn gần gũi. Philia chỉ loại tình yêu có điều kiện được báo đáp, người ta yêu bởi vì người ta nhận được yêu thương. Khi nói đến việc yêu thương những người đối kháng với chúng ta, chúng ta không nói đến eros hay philia chúng ta nói đến loại tình yêu mà tiếng Hy Lạp gọi là agape. Agape có nghĩa là sự thấu hiểu, thiện chí cứu rỗi cho từng người. Nó là một tình yêu tuôn tràn, ngẫu hứng, không có động cơ, không có lý do, sáng tạo và rất phong phú. Nó nảy sinh một cách tự nhiên mà không phải do một năng lực hay đối tượng khách quan nào tác động. Nó là tình yêu của Thượng đế hoạt động trong trái tim của nhân loại.

Agape là tình yêu không vụ lợi. Nó là tình yêu mà qua đó mỗi cá nhân không tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, mà là lợi ích cho láng giềng của mình (I Cor. 10:24). Agape không phân biệt ai xứng đáng và không xứng đáng, hay phân biệt bất kỳ tính cách nào của con người. Tình yêu ấy nảy mầm vì lợi ích của đối tượng. Hoàn toàn phát xuất từ sự quan tâm đến người bên cạnh, xem “ai cũng là láng giềng” khi gặp. Vì lẽ đó mà agape không phân biệt giữa bạn và thù; cả hai đều là đối tượng để yêu. Nếu một ai đó yêu thương người khác chỉ bởi sự tử tế của người đó thì họ yêu thương vì những ích lợi có được từ việc kết bạn với người đó, chứ không phải vì ích lợi của chính người bạn mình. Do đó, cách tốt nhất để thuyết phục một ai đó tin vào tình yêu thương không vụ lợi là yêu thương ngay cả những người thù địch xung quanh, người mà ta sẽ không nhận được gì khác ngoài sự thù ghét và bức hại từ họ.

Một điểm căn bản khác về agape đó là nó phát sinh từ nhu cầu của người khác - nhu cầu được yêu thương thuộc về những gì tốt đẹp nhất của nhân loại. Truyện ngụ ngôn người Samari giúp đỡ người Do Thái bị nạn trên đường Jericho, ông ta là người “tốt” bởi vì đó là hành động thương yêu đáp ứng đúng nhu cầu của con người. Tình yêu của Chúa luôn vĩnh cửu và không bỏ sót một ai bởi vì nhân loại cần tình thương của Ngài. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, tình thương cứu chuộc đã đến khi ‘chúng ta vẫn còn là tội đồ” - đó chính là thời điểm mà chúng ta cần tình yêu thương nhất. Vì nhân tính của người da trắng đã bị méo mó nghiêm trọng bởi chính sách phân biệt, và tâm hồn của họ đầy sẹo bỏng, họ cần tình thương của những người da đen. Người da đen cần phải yêu thương người da trắng, bởi vì họ cần tình thương đó để trút bỏ sự căng thẳng, nỗi bất an và nỗi lo sợ trong họ.

Agape không phải là thứ tình yêu yếu đuối và thụ động. Nó chính là tình yêu thương thể hiện bằng hành động. Agape chính là tình thương nhằm giữ gìn và xây dựng cộng đồng với lòng kiên định bảo vệ sự gắn bó đoàn kết ngay cả khi có người muốn phá hoại nó. Agape là sự sẵn lòng hy sinh vì lợi ích chung. Agape là sự sẵn sàng làm bất cứ việc gì để hòa giải xã hội. Nó không chỉ dừng lại sau lần thử đầu tiên, mà sẵn sàng cho một cơ hội thứ hai để khôi phục cộng đồng. Và luôn luôn sẵn lòng tha thứ, không phải bảy lần, mà là bảy mươi bảy lần bảy để hòa giải mâu thuẫn. Cây thập tự giá là hình ảnh bất diệt tượng trưng cho những gì Thượng đế (Thượng Đế làm qua hình ảnh Chúa) sẵn sàng làm để chữa lành một xã hội vụn vỡ. Sự Phục sinh là biểu tượng cho chiến thắng của Thượng Đế trước những thế lực muốn chống lại tình đoàn kết. Chúa Thánh Thần chính là chất keo giữ cho sự đoàn kết luôn bền chặt qua các chặng đường lịch sử. Người nào muốn chống lại sự đoàn kết thì cũng là chống lại Đấng Sáng Tạo. Do đó, nếu tôi đáp trả thù hận bằng thù hận tôi sẽ chẳng làm được gì khác ngoài việc khoét sâu thêm vết nứt trong một xã hội đổ nát. Tôi chỉ có thể lấp đầy các khoảng trống này trong xã hội khi đáp lại sự thù ghét bằng tình yêu thương. Nếu tôi dùng oán trả oán, tôi sẽ đánh mất nhân tính, bởi vì Đấng Sáng tạo đã định sẵn nhân tính của tôi chỉ được hoàn thiện ở trong những bối cảnh xã hội. Booker T. Washington đã nói đúng: “Đừng để ai hạ thấp bạn bằng cách khiến bạn ghét họ.” Khi họ kéo bạn xuống thấp khiến bạn muốn chống lại tình đoàn kết của nhân loại, bạn bị kéo trượt xuống đến mức coi thường sự tạo hóa để rồi đánh mất nhân tính của mình.

Và trong phân tích cuối cùng, agape bao hàm ý nghĩa nhận thức thực tế rằng tất cả sự sống đều tương quan mật thiết với nhau. Cả nhân loại đang vận hành trong một quá trình đơn nhất, và tất cả mọi người đều là anh em. Nếu tôi làm tổn thương người anh em của mình đến một mức độ nào đó, bất kể người đó đang gây ra điều gì cho tôi, thì chính là tôi đang làm hại bản thân mình. Ví dụ, người da trắng thường xuyên từ chối sự viện trợ giáo dục của Liên bang để không bị buộc phải cho người da đen quyền được học tập, nhưng vì nhân loại là một gia đình lớn cho nên họ không thể chối bỏ con cái người da đen mà không gây hại cho chính con cái mình. Mặc cho mọi nỗ lực, cuối cùng họ vẫn bị tổn thương. Tại sao lại như vậy? Bởi vì mọi con người là ruột thịt của nhau. Nếu bạn làm tổn hại tôi, bạn cũng làm hại chính mình.

Tình yêu không vụ lợi, agape , là chất keo duy nhất có thế hàn gắn xã hội rạn vỡ này lại. Khi tôi được phán bảo phải yêu thương, tôi có nghĩa vụ phải khôi phục tình anh em, phải chống đối lại bất công, và phải đáp ứng nhu cầu của những người anh em mình.

Đặc điểm Cơ bản thứ sáu, đó là phản kháng phi bạo lực dựa trên niềm tin rằng vũ trụ đứng về phía công lý. Do đó, những người tin tưởng vào phi bạo lực có niềm tin rất mãnh liệt vào tương lai. Niềm tin này chính là một lý do nữa khiến cho người phản kháng phi bạo lực có thể chấp nhận đau khổ mà không trả đũa. Bởi vì họ biết trong quá trình tranh đấu cho công lý, họ có sự đồng hành của vũ trụ. Đúng là vẫn có những người ủng hộ tận tâm cho phi bạo lực nhưng lại thấy khó thể tin có sự tồn tại của một bậc Thánh siêu phàm. Những người này vẫn tin vào một loại thế lực kiến tạo để gìn giữ sự an lành cho vũ trụ. Cho dù chúng ta muốn gọi đó là một quá trình vô thức, hay một thế lực siêu hình Brahman (Đại ngã), hay một Đấng thần linh riêng nào đó với quyền năng tối thượng và lòng bác ái vô bờ bến, trong vũ trụ này thật sự có một thế lực sáng thế đang vận hành để mang những mảnh ghép rời rạc của thực tại về lại thành một thể thống nhất hòa hợp.