Chương VII Các phương pháp chống đối
Mặc dù cuộc biểu tình xe buýt đã thành công rất nhanh chóng, ba quan chức đứng đầu Thành phố - kể cả Thị trưởng - và các giới chức của hãng xe buýt nghĩ rằng nó sẽ xẹp xuống chỉ trong một vài ngày. Họ tin chắc rằng vào ngày mưa đầu tiên, những người da đen sẽ phải trở lại đi xe buýt. Dựa vào dự kiến đó nên họ không làm bất cứ điều gì để ứng phó nhằm khắc phục tình trạng này. Song ngày mưa đầu tiên trôi qua, các xe buýt vẫn trống rỗng.
Lúc này, lãnh đạo Thành phố và các giới chức hãng xe buýt mới tỏ ý muốn đàm phán. Chiều thứ Tư, ngày 7 tháng 12, Rev. Robert Hughes, Giám đốc Điều hành của Hội Đồng Quan Hệ Nhân Sinh Alabama đã gọi điện nói rằng ông và hai thành viên khác của Hội đồng gồm Thomas R Thraser là một trong những mục sư da trắng của nhà thờ Episcopal đứng đầu Thành phố và Tiến sĩ H. Council Trenholm là Hiệu trưởng Trường Đại học Alabama State - đã thuyết phục được các lãnh đạo Thành phố đồng ý họp với lãnh đạo người da đen và các giới chức xe buýt vào 11 giờ sáng hôm sau.
Tại một phiên họp đặc biệt của Ban Điều hành MIA, một phái đoàn đàm phán được thành lập gồm mười hai người [5] và tôi được chọn làm người phát ngôn. Mọi người thống nhất rằng chúng tôi sẽ đưa ra ba để xuất, mà đã được thông qua trong cuộc họp quần chúng vào tối thứ Hai trước đó, tóm tắt như sau: Doanh nghiệp xe buýt phải đối xử lịch sự với hành khách da đen; 2- Hành khách phải được xếp chỗ ngồi dựa trên nguyên tắc ai tới trước được phục vụ trước, người da đen sẽ ngồi từ phía sau xe trở lên phía trước còn người da trắng sẽ ngồi từ phía trước xe trở về phía sau; 3 - Tài xế da đen làm thuê phải được lái xe trên những tuyến đường có đông hành khách da đen. Mục đích của những đề xuất này rõ ràng chỉ là một cách giải quyết tạm thời các vấn đề mà chúng tôi đang đương đầu. Chúng tôi không nghĩ việc sắp xếp chỗ ngồi theo hướng ai đến trước, phục vụ trước được chấp thuận, vì điều này tùy thuộc vào luật pháp có được sửa đổi hay không.Tuy nhiên, chúng tôi tin chắc rằng trường hợp Rosa Parks, hiện đang bị xử ở tòa án, sẽ là một nhân tố dẫn đến việc phải dẹp bỏ sự phân biệt chủng tộc trên xe buýt, chúng tôi đến Tòa thị sảnh trước giờ họp khoảng mười lăm phút và được dẫn đến phòng của ủy viên. Căn phòng có kích thước vừa phải, với bàn ủy viên đặt ở cuối phòng và những chiếc ghế được kê đối diện, chúng tôi ngồi gần phía trên, sau đó Thrasher, Hughes, và Trenholm cũng đến tham dự. Sự hiện diện của vài phóng viên báo chí và đài truyền hình cho thấy mức quan trọng của cuộc họp.
Đúng 11 giờ, ba ủy viên bao gồm Thị trưởng W. A. Gayle, ủy viên Clyde Sellers, và ủy viên Frank A. Parks tới và ngồi vào bàn đối diện với chúng tôi. Khi J. E. Bagley và Jack Crenshaw, đại diện Công ty xe buýt đến, họ vào ngồi cùng bàn với các ủy viên ở gần đầu bàn. Vì vậy, cho thấy sự phân chia các phe nhóm đã hình thành rõ ràng ngay từ trước khi cuộc họp bắt đầu.
Thị trưởng mời ông Thrasher tuyên bố bắt đầu cuộc họp. Thrasher là một người đàn ông tận tụy với lý tưởng đoàn kết Cơ Đốc giáo. Ông đứng lên trình bày ngắn gọn lý do tại sao Hội đồng Quan hệ Nhân Sinh đã yêu cầu mở cuộc họp. Rồi phát biểu về niềm tin của ông đối với cả hai bên rằng tất cả sẽ theo lý trí sáng suốt và không bị cảm xúc chi phối trong khi thảo luận.
Sau đó Thị trưởng quay sang phái đoàn người da đen và hỏi: “Ai là người đại diện phát biểu?”. Khi thấy mọi ánh mắt đều nhìn về phía tôi, Thị trưởng nói: “Được rồi, hãy lên đây và trình bày yêu cầu của các anh”. Trong ánh sáng chói lóa của bóng đèn máy quay truyền hình, tôi chậm rãi tiến lên phía trước và ngồi xuống ghế đối diện với Bagley và Crenshaw.
Tôi mở đầu bằng cách nói ngắn gọn lý do tại sao chúng tôi thấy cần thiết phải “tẩy chay” xe buýt. Tôi nói rõ rằng việc bắt giữ bà Parks không phải là nguyên nhân gây ra cuộc biểu tình, mà chỉ là yếu tố thúc đẩy. “Hành động của chúng tôi”, tôi nói, “là phản ứng khi đã đến giới hạn không còn chịu đựng được nữa bao nhiêu những bất công và sự sỉ nhục sau nhiều năm trời”. Tôi tiếp tục dẫn chứng nhiều trường hợp bất lịch sự của tài xế xe buýt, và rất nhiều khi hành khách da đen phải đứng mặc dù còn ghế trống. Tôi nhấn mạnh rằng người da đen đã tỏ rõ sự nhẫn nhục, và đã cố gắng đàm phán trong các cuộc hội thảo vài lần mà vẫn không đạt được kết quả.
Sau khi trình bày những điều chủ yếu, tôi đã đưa ra ba yêu cầu và giải thích từng đề xuất một cách chi tiết. Ví dụ, tôi nói rõ rằng chúng tôi yêu cầu một sự sắp xếp theo nguyên tắc ai đến trước được phục vụ trước; cùng với việc người da đen lên xe từ phía sau và người da trắng lên từ phía trước, đây vốn không phải là một điều gì hoàn toàn mới mẻ ở miền Nam. Các thành phố khác như Nashville, Atlanta, và thậm chí là Mobile, Alabama - vẫn tuân theo quy định này, và mỗi nơi đều buộc phải chấp hành nghiêm chỉnh sự phân biệt như ở Montgomery. Đến yêu cầu “Tài xế phải đối xử lịch sự với hành khách”, tôi nói, đây là điều tối thiểu mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể làm đối với khách hàng của mình”. Và cuối cùng tôi đã chỉ ra rằng, khi người da đen đã đóng góp nhiều tiền cho Công ty xe buýt thi đổi lại người da đen nên được làm việc trên các tuyến đường có nhiều hành khách da đen, như vậy mới công bằng. Tôi nhắc họ rằng “Công ty xe buýt đã thừa nhận 75% khách hàng quen thuộc của họ là người da màu, điều đó đối với tôi có nghĩa là công ty biết kinh doanh sẽ thuê người từ nhóm khách đối tượng đông nhất của họ”. Để kết thúc lời phát biểu, tôi khẳng định với các ủy viên rằng, chúng tôi đã dự định hướng dẫn cuộc biểu tình với lòng tự trọng và thận trọng nhất của mình, rằng mục đích của chúng tôi không phải là muốn Công ty xe buýt phá sản, mà là đạt được công lý cho mình cũng như cho người da trắng.
Khi tôi nói xong, Thị trưởng để cho mọi người thảo luận chung. Một số thành viên phái đoàn người da đen tiếp tục cho ý kiến về ba đề xuất. Sau đó, các ủy viên và luật sư của Công ty xe buýt bắt đầu nêu câu hỏi. Họ đề cập đến tính hợp pháp của sự phân bổ chỗ ngồi mà chúng tôi đề xuất. Họ cho rằng người da đen chúng tôi đang đòi hỏi một điều dường như vi phạm pháp luật. Chúng tôi nhắc lại lập luận vừa rồi của mình rằng sự sắp xếp chỗ ngồi ai đến trước, phục vụ trước hoàn toàn nằm trong khuôn khổ luật phân biệt, và nhiều thành phố miền Nam đã làm như vậy.
Crenshaw, luật sư của Công ty xe buýt, đã nhanh chóng tỏ ra là đối thủ cứng đầu nhất của chúng tôi. Ông đã kiên trì thuyết phục mọi người là không có cách nào để chấp thuận đề xuất phân bổ chỗ ngồi mà không vi phạm pháp lệnh Thành phố. Ở cương vị luật sư, Crenshaw càng nói ông càng thuyết phục được các vị lãnh đạo Thành phố. Thị trưởng Gayle và ủy viên Sellers đã không còn muốn khoan nhượng. Cuối cùng, tôi thấy cuộc họp không đi đến đâu, nên đề nghị kết thúc. Ngay sau đó, Thị trưởng đã yêu cầu một vài thành viên của phái đoàn người da đen ở lại với quan chức Công ty xe buýt để cố gắng điều đình với nhau.
Sau khi những người khác đã ra về, bên bàn hội thảo còn lại chúng tôi với Bagley, Crenshaw và hai ủy viên phụ tá - Sellers và Parks. Trong phạm vi nhỏ hơn mà báo chí không còn ghi chép chi tiết, dường như mọi việc có vẻ khả quan hơn. Sau khi chúng tôi trình bày lại yêu cầu về việc phân bổ chỗ ngồi trên xe buýt, ủy viên Parks trầm giọng nói:
“Tôi không thấy có lý do gì để không chấp thuận để xuất về chỗ ngồi này. Chúng ta có thể thu xếp nó trong khuôn khổ luật phân biệt của chúng ta”.
Hy vọng của tôi bắt đầu tăng lên. Nhưng Parks chưa kịp dứt lời thì Crenshaw đã cắt ngang:
“Nhưng mà, Frank. Tôi thấy điều đó không có trong luật pháp. Nếu nó hợp pháp, tôi sẽ là người đầu tiên ủng hộ, nhưng nó không hợp pháp. Cách duy nhất có thể thực hiện được là thay đổi luật phân biệt”.
Điều này nhanh chóng đặt dấu chấm hết cho sự lạc quan của tôi. Vì thiếu niềm tin vững chắc để giữ được sự kiên quyết, Parks đã dễ dàng bị thuyết phục. Nhưng rồi cuối cùng Crenshaw cũng bộc lộ suy nghĩ của mình:
“Nếu chúng tôi nhượng bộ người da đen”, ông khẳng định, “họ sẽ huênh hoang đắc thắng với người da trắng. Đó là điều mà chúng tôi không chịu nổi”.
Bây giờ, ít nhất lý do của Crenshaw đã lộ ra. chúng tôi cố gắng thuyết phục ông rằng người da đen không có ý như vậy. chúng tôi đảm bảo với ông rằng nếu các đề xuất được chấp thuận, chúng tôi sẽ làm hết sức mình để hạn chế người dân khoe khoang chiến thắng của họ. Nhưng những đảm bảo này không lay động được ông ta. Nhận thấy có tiếp tục cũng vô ích, cuối cùng tôi đã yêu cầu ông ta nêu cụ thể những gì Công ty xe buýt có thể làm được cho người da đen. Ông trả lời ngắn gọn: “Chúng tôi sẵn sàng đảm bảo sự đối xử lịch sự, nhưng chúng tôi không thể thay đổi cách sắp xếp chỗ ngồi vì như vậy sẽ vi phạm pháp luật. Và vấn đề thuê tài xế xe buýt thì sẽ không thể tuyển dụng “ bọn da đen ở thời điểm này hoặc trong thời gian tới”.
Bốn giờ thảo luận đã kết thúc mà không đem lại sự dàn xếp ổn thỏa nào.
Tôi thất vọng rời khỏi cuộc họp, nhưng rồi lại thấy mình không đáng bi quan đến như vậy, chỉ tại tôi lạc quan hơi sớm mà thôi. Tôi đã đến cuộc họp với một ảo tưởng lớn. Nghĩ rằng yêu cầu của chúng tôi là đúng mức, tôi hình dung chúng được chấp thuận với chỉ một ít khó khăn; tôi đã nghĩ rằng những người có đặc quyền sẽ trao đặc ân theo yêu cầu của chúng tôi. Tuy nhiên, trải nghiệm này đã cho tôi một bài học. Tôi hiểu được rằng không ai có thể từ bỏ đặc quyền của mình mà không phản ứng quyết liệt gì cả. Tôi còn thấy mục đích sâu xa hơn của sự phân biệt là để đàn áp và bóc lột những kẻ bị phân biệt chứ không đơn giản chỉ là tách biệt hai chủng tộc ra. Ngay cả khi chúng tôi yêu cầu công lý trong khuôn khổ của luật phân biệt thì chính cái “đặc quyền” đó đã ngăn cản sự chấp thuận nó. Công lý và bình đẳng sẽ không bao giờ đến trong khi sự phân biệt vẫn tồn tại, bởi vì mục đích cơ bản của sự phân biệt là duy trì sự bất công và bất bình đẳng.
Ngay sau cuộc đàm phán đầu tiên kết thúc, tôi họp với Ban Điều hành của MIA để báo cáo kết quả. Các thành viên đã thất vọng, nhưng đều nhất trí rằng chúng tôi nên kiên định với ba đề xuất này. Vào thời điểm này, có người đã phát hiện ra rằng Montgomery City Lines thuộc sở hữu của một công ty có trụ sở tại Chicago. Công ty này tên là National City Lines, Inc. Hoạt động điều hành mạng lưới xe buýt tại hơn ba mươi lăm thành phố. Chúng tôi cùng nghĩ nên gửi điện cho Chủ tịch của National City Lines trình bày về nỗi bất bình của mình và thúc giục ông ta đến ngay lập tức, hoặc gửi đại diện đến Montgomery để đàm phán thêm. Hai ngày sau, ông chủ tịch trả lời rằng một trong các Phó Chủ tịch của Công ty sẽ xuống trong vòng hai hoặc ba ngày.
Sự phản hồi đầy hứa hẹn này đã cho chúng tôi một hy vọng mới, và chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi đại diện từ Chicago tới. Sau vài ngày trôi qua mà không thấy tin tức gì, tôi bắt đầu tự hỏi liệu công ty có thất hứa hay không. Sáng ngày 15 tháng 12, trong khi vẫn còn thắc mắc, tôi nhận được cuộc gọi của một người bạn da trắng nói rằng, theo những nguồn đáng tin cậy, ông C.K. Totten của National City Lines đã đến Thành phố, và hỏi tôi đã nói chuyện với ông ta hay chưa. Khi nghe câu trả lời đầy thất vọng của tôi, anh nói sẽ giúp kiểm tra lại. Quả thật, khoảng hai giờ sau, anh gọi lại và khẳng định chắc nịch rằng Totten đang ở Montgomery và đã ở đây hai hoặc ba ngày rồi. Tôi rất lấy làm lạ rằng vị viên chức xe buýt này đã đến Thành phố lâu vậy mà không hề thử tìm gặp bất cứ ai của MIA. Tôi vẫn tiếp tục chờ đợi cuộc gọi của ông ta. Nhưng thật là vô ích, ông Totten chẳng bao giờ gọi.
Thì lúc này, Thị trưởng thông báo triệu tập cuộc gặp giữa ủy ban Công Dân, viên chức xe buýt và lãnh đạo người da đen vào sáng ngày 17 tháng 12, sau hơn một tuần đã trôi qua kể từ cuộc họp đầu tiên. Và cuộc phản kháng vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Ban Điều hành của MIA lại gặp nhau để thảo luận về vấn đề vị thế của chúng tôi. Một lần nữa, chúng tôi vẫn nhất trí giữ vững ba đề xuất. Tuy nhiên, có sửa đổi đôi chút ở điều thứ ba: vì trong thời gian tới có thể chưa có chỗ trống và phải ưu tiên tuyển dụng theo điều lệ công đoàn, nên sẽ không yêu cầu phải tuyển tài xế da đen ngay lập tức. Chúng tôi sẽ đưa sẵn các đơn xin việc của người da đen để Công ty có thể tuyển dụng ngay khi có chỗ trống.
Sáng thứ Bảy, chỉ có một vài người có mặt khi chúng tôi bước vào phòng họp và không khí dường như rất thân mật. Một trong những ngưòi đầu tiên đi tới để chào đón chúng tôi là Henry E. Russell, mục sư của Giáo hội Presbyterian Trinity ở Montgomery và anh trai Thượng nghị sĩ Richard Russell của bang Georgia. Tôi nhớ nụ cười chân thành và những cái bắt tay ấm áp. Dần dần, những người khác đến và họ cũng tỏ ra thân thiện, chúng tôi bắt đầu hy vọng một điều gì đó tốt hơn có thể sẽ đến trong cuộc họp thứ hai này.
Ngay trước khi cuộc họp bắt đầu, tôi thấy một người đàn ông lạ mặt bước vào với Bagley và Crenshaw. Ông được giới thiệu là C. K. Totten đến từ Chicago. Ông ta chào chúng tôi rất nồng nhiệt, nhưng không nói gì về việc tại sao ông ấy đã không liên lạc với nhóm chúng tôi. Tôi cũng nhìn thấy hai công dân da đen, không phải là thành viên của phái đoàn được chỉ định đại diện cho cộng đồng người da đen. Tôi sớm phát hiện ra rằng họ là khách mời đặc biệt của Thị trưởng. Điều này khiến tôi khá nghi ngờ về những gì đang diễn ra.
Cuối cùng, Thị trưởng đến, tiếp theo là hai ủy viên phụ tá. Lúc này tất cả đã có mặt: ba ủy viên; bốn đại diện của Công ty xe buýt; phái đoàn đại diện cho cộng đồng người da đen; hai người đàn ông da đen được Thị trưởng mời và ủy ban Công Dân của Thị Trưởng bao gồm Rev. Henry Parker, lúc đó là mục sư của Nhà thờ Baptist Đệ Nhất, E. Stanley Frazier, lúc đó là mục sư của Nhà thờ St. James Methodist, và Henry Russell.
Sau khi tóm tắt tình hình, Thị trưởng đề nghị tôi giải thích các đề xuất của người da đen. Khi tôi nói xong, ông ta mời đại diện Công ty xe buýt và C. K. Totten đứng lên.
Khi Totten đứng dậy, tôi cảm thấy hồi hộp không biết ông sẽ nói gì. Vì ông ấy từ nơi khác đến, có khả năng ông nhìn vấn đề ở một góc độ khác với các cộng sự của ông. Rất chậm rãi và thận trọng, ông nói về từng đề xuất của chúng tôi. Khi ông bàn từng vấn đề một thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa: ông nghĩ y hệt như những gì các ủy viên Thành phố và Crenshaw đã trình bày trong cuộc họp đầu tiên. Nếu Totten có thể nói giọng miền Nam một cách hoàn hảo, và khi chỉ nghe mà không nhìn, tôi thề rằng người ta sẽ tưởng ông là Jack Crenshaw. Tôi biết rằng ông ta đã bị ủy ban Thành phố và các quan chức xe buýt “tẩy não”.
Khi Totten tiếp tục, sự phẫn nộ của tôi càng tăng lên. Tôi cay đắng nghĩ rằng thậm chí ông ta không hề tôn trọng những người da đen đang ngồi đây, mặc dù thực tế chúng tôi là người đã mời ông ấy đến Montgomery. Lúc này tôi thấy thật khó nghĩ. Tôi có nên phản bác bài thuyết trình thiên vị một chiều của ông hay là cho qua? Câu hỏi cứ xoay trong tâm trí tôi. Khi ông kết thúc, cả phòng im lặng một lát. Sau đó, không thể kiểm chế được mình, tôi nhảy lên và phẫn nộ nói: “Totten đã nhìn nhận không công bằng. Ông đưa ra tuyên bố hoàn toàn thiên vị. Dù thực tế ông được MIA mời đến Montgomery, nhưng ông đã không tôn trọng cộng đồng da đen khi nghe họ lên tiếng. Ít nhất điều đáng lý tất cả chúng ta có thể làm trong khi thảo luận là trung thực và công bằng”. Lời nói của tôi đã được phái đoàn da đen nhiệt liệt tán thành. Cả Thị trưởng lẫn C. K. Totten đều không trả lời, và Totten thì thấy có vẻ không được thoải mái lắm.
Một số công dân được Thị trưởng mời cũng tham gia phát biểu. Tôi đặc biệt nhớ những lời của Tiến sĩ Frazier - một trong những người chủ trương phân biệt thẳng thắn nhất trong Giáo hội Methodist. Mặc dù tôi đã nghe tên ông ấy và đọc những tuyên bố mang tính phân biệt của ông nhưng tôi chưa bao giờ gặp. Bây giờ tôi nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, dáng vẻ đặc biệt, sang trọng và thêm nữa là nói rất hùng hồn, mạch lạc. Ông đã nói rất thuyết phục về sự yếu đuối và nhược điểm trong bản chất con người. Ông nói rõ rằng ông cảm thấy người da đen đã sai trong việc tẩy chay xe buýt. Thậm chí rất sai lầm, ông nói, chính là các vị mục sư lãnh đạo tinh thần đã dẫn dắt cuộc phản kháng này. Công việc của mục sư, ông quả quyết, là dẫn dắt linh hồn của con người đến với Thượng đế, chứ không phải là làm rối tung xã hội bằng những vấn đề mang tính nhất thời, đó là một sự nhầm lẫn. Ông chuyển sang trao đổi ngắn gọn về câu chuyện Giáng sinh. Bằng những lời nói xúc động, ông nói về “món quà không thể diễn tả được của Đức Chúa Trời”. Để kết thúc, ông nói rằng khi mùa Giáng sinh đến, tâm trí và tình cảm của chúng ta nên quay về phía Đấng Giáng sinh ở Bethlehem và kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo da đen sau cuộc họp này nên chấm dứt tẩy chay và thay vào đó hãy dẫn dắt tín hữu vui mừng mùa lễ lớn đúng với đức tin Cơ Đốc.
Một lần nữa, tôi cảm thấy cần phải trả lời, “Chúng tôi cũng biết Chúa Jesus mà mục sư vừa nhắc đến”, tôi nói, “Chúng tôi từng có một trải nghiệm với Ngài, và tin chắc vào sự hiển linh của Thượng đế ở Chúa Jesus Ki Tô. Tôi không hề thấy mâu thuẫn giữa sự tôn thờ của chúng tôi với Chúa Jesus và hành động hiện tại. Thực sự tôi thấy nó có mối liên hệ mật thiết. Nếu người nào thật sự yêu mến tôn giáo của Chúa Jesus, người đó sẽ tìm cách dẹp bỏ những điều xấu xa, tệ hại trên cõi đời này. Phúc Âm giảng về cả xã hội và cá nhân con người. Chúng ta mới chỉ làm theo một phần nhỏ cách mà Gandhi đã làm ở Ấn Độ, và chắc chắn không ai gọi ông là kẻ phạm tội cứng đầu. Ông đã được nhiều người xem như là một vị Thánh.
Tôi kết luận: “Sáng nay chúng tôi đã nói rất nhiều về phong tục, và xác nhận rằng trong điều kiện hiện tại bất kỳ sự thay đổi nào đều có nghĩa là chống lại phong tục được quý trọng của cộng đồng chúng ta. Nhưng có những phong tục không tốt thì chúng ta có mọi lý do ở trên đời để thay đổi chúng. Quyết định mà chúng ta phải làm bây giờ là liệu có nên giữ khư khư các phong tục bất công, lỗi thời hay giữ gìn các chuẩn mực đạo đức mà Tạo hóa đã đặt ra. Là tín đồ Thiên Chúa Giáo, chúng ta nợ lòng trung thành tối thượng với Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, chứ không phải là với con người và thế gian này”.
Sau khi một vài người nữa nói xong, Thị trưởng thông báo rằng ông sẽ chỉ định một nhóm nhỏ từ ủy ban Công Dân gặp gỡ với đại diện của MIA và Công ty xe buýt. Các nhóm này sẽ làm việc với nhau để tìm giải pháp và đệ trình lại cho ông như một bản kiến nghị. Lúc đầu Thị trưởng đã cố tình sắp xếp tám người da trắng của ủy ban Công Dân, hai người đàn ông da đen mà ông đã mời riêng, và chỉ có ba người của MIA vào hội đồng mới. Nhưng ngay lập tức, Jo Ann Robinson đã không đồng ý và nhấn mạnh rằng cách giải quyết tốt nhất là chỉ định số người da đen và người da trắng bằng nhau một cách công bằng. Sau đó Thị trưởng miễn cưỡng nâng số người da đen lên tám. Ông bổ nhiệm mục sư Henry Parker làm Chủ tịch.
Sau khi đa số người đã rời khỏi phòng, Parker triệu tập hội đồng mới họp tiếp. Frazier xin phép đề xuất một giải pháp cho vấn đề phân bổ chỗ ngồi. Đại ý là xe buýt sẽ ghi dấu chỗ ngồi riêng cho mỗi chủng tộc và mỗi bên có không quá mười ghế. Trong trường hợp người da trắng hay da đen đã ngồi kín hết phần ghế dành cho bên mình thì có thể ngồi tạm sang phần ghế trống của bên kia, nếu người của phía bên đó không lên xe buýt thêm nữa. Các thành viên của nhóm da đen lập tức từ chối ý tưởng này vì nhìn thấy dấu hiệu ghê tởm của sự phân biệt chủng tộc. Họ tin rằng nếu chấp nhận có nghĩa là bước lùi hơn là bước tiến.
Sau đó, nhiều người trong số các ủy viên da trắng đề nghị chúng tôi trở lại đi xe buýt, và họp lại sau kỳ nghỉ lễ Giáng sinh để tìm cách giải quyết vấn đề. Họ cho rằng cộng đồng da trắng sẽ thông cảm lắng nghe các yêu cầu của chúng tôi hơn nếu cuộc biểu tình được ngưng trước. Chúng tôi không chịu vì cảm thấy rằng tất cả những nỗ lực của mình sẽ vô ích nếu việc dẹp biểu tình đơn giản chỉ bởi lời hứa về những điều kiện gì đó sẽ được thực hiện trong tương lai. Đến đây cuộc họp đã kéo dài quá lâu, chủ tịch đề nghị nghỉ ngơi và họp lại vào 10 giờ sáng thứ Hai.
Vào cuối buổi họp, tôi đã có cơ hội lần đầu nói chuyện trực tiếp với Totten. Gần như ngượng ngùng, ông ta thừa nhận rằng kế hoạch chúng tôi đưa ra là những gì Mobile City Lines - một công ty thuộc sở hữu của National City Lines, Inc. đang thực hiện. “Và như tôi đã lo ngại”, ông ấy nói, “tôi nghĩ nó sẽ hoạt động rất tốt ở Montgomery, nhưng có vẻ ủy ban Thành phố cảm thấy không thể chấp nhận”. Tôi đã định hỏi tại sao ông ta không có can đảm để nói như thế trong cuộc họp có mặt các ủy viên, nhưng tôi đã kiềm chế và cuộc trò chuyện kết thúc trong không khí thân thiện.
Khi lái xe về nhà, tôi lại nghĩ đến Frazier và bài hùng biện của ông ta. Ông ta thật sự tin tưởng vào những gì mà ông đang theo đuổi. Có lẽ ông ta sẽ không thay đổi ngay bây giờ được. Những truyền thống cố hữu đã ăn sâu vào tâm não của ông, đối với ông, sự phân biệt đã trở thành một điều đương nhiên trong luân thường đạo lý. Tuy nhiên, dù tôi hoàn toàn không đồng ý với quan điểm của ông, dù biết rằng lịch sử và tôn giáo đã chứng minh ông sai, tôi vẫn ngưỡng mộ sự chân thành và nhiệt tình của ông. Tôi tự hỏi tại sao những người da trắng ủng hộ sự hòa hợp giữa hai sắc tộc thường kém sắc bén và tích cực hơn những người chủ trương phân biệt? Đây là một trong những bi kịch của lịch sử loài người, rằng “đứa con của bóng tối” thường quyết đoán và sốt sắng hơn “đứa con của ánh sáng”.
Chủ nhật, ngày 18 tháng 12, đã trôi qua. Vào lúc 10 giờ sáng thứ Hai, chúng tôi gặp nhau để tiếp tục cuộc thảo luận. Mọi người đều có mặt và Parker một lần nữa chủ trì cuộc họp. Ngay sau khi cuộc họp bắt đầu, tôi nhìn thấy một người đàn ông mà vào ngày thứ Bảy trước đó không tham dự và theo như tôi có thể nhớ, đã không được bổ nhiệm vào ủy ban Công Dân tám người của Thị trưởng. Người bên cạnh tôi thì thầm: “Đó là Luther Ingalls - Thư ký Hội đồng Công Dân Da Trắng Montgomery”.
Khi bắt đầu thảo luận, Ingalls đứng lên phát biểu. Ngay lập tức tôi đứng bật dậy và phản đối quyền được nói của ông ta vì ông không phải là thành viên của ủy ban. “Hơn nữa”, tôi tiếp tục, “chúng ta sẽ không bao giờ giải quyết được vấn để này một khi trong ủy ban có những người tuyên bố công khai chống người da đen”.
Lúc này, Tiến sĩ Parker đã trả lời một cách giận dữ: “Ông ấy cũng có quyền tham dự ủy ban này như anh. Đấy chỉ là quan điểm của anh mà thôi”.
Ngay khi đó, các thành viên da trắng khác của ủy ban bắt đầu lao vào tôi. Họ cho rằng tôi là trở ngại chính cho một giải pháp thực sự của vấn đề. Bà Hipp kịch liệt nói rằng tôi đã sỉ nhục bà với ngụ ý rằng, bà cùng với các thành viên da trắng khác của ủy ban đến cuộc họp với trái tim hẹp hòi, không rộng mở. Tôi đã cố gắng nói rõ ràng rằng tôi chỉ muốn nói đến những người đã tuyên bố công khai chống người da đen, chứ không phải toàn thể ủy ban, nhưng vô ích. Họ tiếp tục nhìn tôi như thể tôi là nguyên nhân của sự bế tắc.
Ngay lúc đó, tôi thấy mình thật đơn độc. Không ai đến giải cứu tôi, cho đến khi Ralph Abernathy đột nhiên lên tiếng bảo vệ tôi. Ông nhấn mạnh rằng tôi đã nói thay toàn bộ phái đoàn da đen. Ông chỉ ra rằng vì tôi là người phát ngôn cho nhóm, nên đương nhiên tôi phải xử lý mọi chuyện khi thương thuyết, nhưng điều này không có nghĩa là tôi không có sự hỗ trợ của các thành viên còn lại. Khi ông tiếp tục, người ta có thể thấy rõ sự thất vọng trên khuôn mặt của các thành viên ủy ban Da Trắng, những người đang cố gắng thuyết phục người da đen rằng tôi là trở ngại chính trong việc tìm giải pháp, hòng để chia rẽ chúng tôi. Nhưng tuyên bố của Ralph đã đập tan hy vọng của họ. Từ lúc này, nhóm da trắng đã thấy việc cố gắng thương lượng để chúng tôi thỏa hiệp là một điều vô ích. Thêm một vài câu hỏi và một vài gợi ý nữa được đưa ra. Parker kết thúc cuộc họp, hứa hẹn sẽ triệu tập một cuộc họp khác sau đó. Nhưng không hề có cuộc họp nào được triệu tập.
Hôm thứ Hai tôi về nhà trong lòng nặng trĩu, thấy như bị đè nặng bởi cảm giác tội lỗi khi nhớ lại có hai hay ba lần đã để mình tức giận và bực bội. Tôi đã nói thiếu cân nhắc trong lúc giận dữ. Tôi biết như vậy không giải quyết được vấn đề gì. Tôi tự nhủ “Mình không được phép oán giận, mà còn phải sẵn sàng chịu đựng sự tức giận của đối thủ, và không nóng nảy trả đũa. Không được cay cú.
Cho dù đối thủ có cảm xúc thế nào đi chăng nữa, mình vẫn phải bình tĩnh”.
Trong tâm trạng này, tôi nhấc điện thoại và gọi cho Parker. Ông ấy tỏ vẻ ngạc nhiên rõ rệt khi nghe thấy giọng nói của tôi. Tôi nói với ông ấy rằng tôi rất lấy làm tiếc về sự hiểu lầm đã xảy ra trong cuộc họp, và ngỏ ý xin lỗi nếu tôi có làm điều gì sai. Ông ấy đáp lại bằng cách thanh minh về phận sự ông phải làm ở vị trí của mình. Câu chuyện dẫn tới vấn đề chủng tộc nói chung và tình hình xe buýt nói riêng. Ông khẳng định rằng người da đen không có cơ sở lý lẽ để tẩy chay xe buýt, “vì nhiều người da trắng cũng bị đối xử một cách bất lịch sự như người da đen”. Nói chung, ông cảm thấy rằng người da đen đã đi quá trớn, ông nói, và điều này chẳng mang lại gì ngoài rắc rối. Tôi cảm ơn ông ấy đã nói chuyện với tôi, và cuộc trò chuyện kết thúc.
Sau đó, các cuộc đàm phán đã được mở lại nhờ sự giúp đỡ ân cần của một nhóm công dân da trắng khác. Nhóm “Người của Montgomery” (The Men of Montgomery), là một tổ chức gồm các doanh nhân có ảnh hưởng nhất của Thành phố. Họ đã bắt đầu thấy những tác động của cuộc biểu tình đến hoạt động kinh doanh, và nhận ra rằng cuộc xung đột kéo dài sẽ mang lại thảm họa. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo của họ là những người thiện chí, họ sợ sự căng thẳng ngày càng gia tăng xung quanh họ. Nhưng như vậy không có nghĩa là họ tán thành hòa hợp bình đẳng, ngược lại là khác. Một số người trong số họ ủng hộ sự phân biệt, và có những người không thích phân biệt cũng đồng ý với Parker rằng người da đen đã “đẩy mọi thứ đi quá trớn”. Nhưng ít nhất họ cũng đủ cởi mở để lắng nghe một quan điểm khác và thảo luận về vấn đề chủng tộc một cách thông minh. Đến những hai lần, sáu người của “Người của Montgomery” với số người tương đương của MIA đã gặp nhau trong nỗ lực nghiêm túc để giải quyết cuộc phản kháng. Tôi chắc chắn rằng chúng tôi đã tìm ra giải pháp, nếu không phải vì sự ngoan cố của ủy ban Thành phố thì nỗ lực chung của chúng tôi đã có kết quả.
Sau khi phe đối lập thất bại trong việc thương lượng với chúng tôi, họ đã dùng kế sách tinh vi để ngăn chặn cuộc phản kháng, đó là dùng cách phân hóa, chia rẽ. Tin đồn thất thiệt về các nhà lãnh đạo của phong trào đã lan truyền đi các nơi. Các chủ lao động da trắng nói với người lao động da đen rằng các nhà lãnh đạo của họ chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền từ phong trào. Những người khác lại nghe được rằng các nhà lãnh đạo da đen lái những chiếc xe sang trọng trong khi họ phải đi bộ. Trong thời gian này lan truvền tin đồn tôi đã mua một chiếc Cadillac hoàn toàn mới cho mình và một chiếc xe Buick cho vợ. Tất nhiên những chuyện này hoàn toàn không có thật.
Không chỉ có những âm mưu bôi nhọ sự trong sạch của các nhà lãnh đạo da đen để làm mất lòng tin của những người theo họ, mà còn có âm mưu chia rẽ các nhà lãnh đạo với nhau. Nhung người da trắng có tiếng tăm đi gặp những giáo sĩ da đen lớn tuổi hơn và nói: “Nếu phải có một cuộc biểu tình, lẽ ra các ông mới là những người lãnh đạo. Thật đáng xấu hổ khi các ông đã ở trong cộng đồng lâu năm như vậy mà lại bị họ bỏ qua để chọn những người tân binh trẻ này lãnh đạo họ”. Một số thành viên trong cộng đồng da trắng đã cố thuyết phục một vài người lãnh đạo cuộc phản kháng rằng vấn đề có thể được giải quyết nếu tôi bỏ cuộc. “Nếu một trong các ông”, họ nói, “nắm quyền lãnh đạo, mọi thứ sẽ thay đổi trong một đêm”.
Sự nhồi nhét liên tục của luận điệu này làm tôi gần như gục ngã. Tôi bắt đầu nghĩ điều này có thể đúng một phần nào đó, và sợ rằng một số người đã bị dao động. Sau mấy ngày mệt mỏi và mất ngủ, tôi đã triệu tập họp Ban Điều hành để xin từ chức. Tôi nói với họ rằng, tôi không bao giờ muốn làm trở ngại việc tìm giải pháp cho vấn đề đang nhiễu hại cộng đồng, có thể một người chín chắn hơn đứng ra làm việc sẽ mang lại kết quả nhanh hơn. Tôi tiến cử hai người đã làm việc gắn bó với tôi và có năng lực mà mọi người đều công nhận, rồi cam đoan với Hội đồng Quản Trị là vẫn sẽ đứng phía sau hỗ trợ tích cực như lúc làm người phát ngôn. Tôi vừa nói xong thì ngay lập tức các thành viên Hội đồng đã gạt bỏ ý tưởng từ chức của tôi. Với sự tín nhiệm hoàn toàn, họ nói rõ rằng họ rất hài lòng với cách tôi xử lý mọi chuyện, và sẽ theo sự lãnh đạo của tôi đến cùng.
Sau sự việc, vừa về đến khuôn viên nhà, từ cửa sổ phòng khách, tôi nghe thấy giọng hát cao vút, trong trẻo của Coretta vang vọng ra. Lâu lắm rồi tôi mới cảm thấy bình yên trở lại. Trong phòng ngủ phía sau, “Yoki”, bây giờ đã hơn một tháng tuổi, đang thức và bận rộn khám phá những ngón tay của mình. Tôi bồng con lên và đi ra phòng ngoài để bé được nghe mẹ hát.
Những khoảnh khắc như vậy đã trở nên hiếm hoi. Chúng tôi không bao giờ có thể dự tính được điều gì, vì hiếm khi tôi biết trước giờ nào sẽ về nhà. Nhiều lần Coretta phải nhìn những bữa ăn ngon của cô ấy khô khốc trong lò nướng khi tôi về trễ vì có chuyện khẩn cấp. Mặc dù thế cô ấy không hề than phiền và luôn ở bên khi tôi cần cô ấy. Cô nói khi cô đơn đã có “Yoki” và Beethoven làm bạn với cô. Điềm tĩnh và dịu dàng, Coretta lặng lẽ chăm lo gia đình. Khi tôi cần nói chuyện, cô ấy sẵn sàng lắng nghe, hoặc đưa ra gợi ý khi tôi yêu cầu. Nghị lực của cô ấy là sức mạnh của tôi. Nhiều lần lo sợ cho tôi, cô ấy không bao giờ cho phép điều đó làm tôi lo lắng hoặc cản trở công việc của tôi trong cuộc phản kháng. Cô ấy dường như không còn lo sợ cho chính bản thân mình. Trong những tháng sau đó, nhiều lần tôi đã đưa cô và “Yoki” đến Atlanta ở với cha mẹ tôi, hoặc tới Marion để ở với gia đình bên ngoại. Nhưng cô ấy không bao giờ ở lại lâu. “Khi tôi tránh xa chuyện này”, cô nói với một phóng viên, “tôi cảm thấy chán nản và bất lực”. Và vì thế cô ấy đã quay trở lại trước thời gian dự định.
Âm mưu chia rẽ lên đến cao độ xảy ra vào Chủ nhật, ngày 22 tháng Một. Các ủy viên Thành phố gây sốc cho cộng đồng người da đen khi công bố trên tờ báo địa phương rằng, họ đã gặp và đạt được một thỏa thuận với một nhóm các giáo sĩ da đen uy tín. Các điều khoản của cái gọi là “thỏa thuận” như sau: (1) Đảm bảo sự đối xử lịch sự; (2) Khu vực dành cho người da trắng ở phía trước xe buýt, khu vực của người da đen ở phía sau, khu vực tự do ở giữa xe được sắp xếp theo nguyên tắc người đến trước được phục vụ trước; (3) Riêng giờ cao điểm sẽ dành riêng tất cả các xe cho người da đen. Trên thực tế, trừ điều khoản đầu tiên ra, “thỏa thuận” này chỉ lặp lại các điều kiện đã được đưa ra trước cuộc phản kháng. Vì thế, nó là một bước lùi. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng cuộc tẩy chay đã kết thúc.
Thông báo này rõ ràng là một sự tính toán để dụ người da đen trở lại đi xe buýt vào sáng Chúa nhật, ủy ban Thành phố tin chắc rằng một khi có một số đáng kể người da đen bắt đầu đi xe buýt trở lại, cuộc tẩy chay sẽ kết thúc.
Chúng tôi đã có thể ngăn chặn những tác động của thông báo này trong các tình huống khá thú vị. Mặc dù tờ Montgomery Advertiser đồng ý giữ tin tức này lại đến sáng chúa nhật, hãng thông tấn Associated Press (AP, Liên đoàn báo chí) đã truyền nó đi cho các kênh truyền thông vào tối thứ Bảy. Biên tập viên da đen của tờ báo Minneapolis Tribune là Carl T. Rowan nắm được câu chuyện từ toà soạn, rất ngạc nhiên khi biết những người da đen chấp nhận một thỏa thuận nửa vời như vậy. Trước đây một vài tuần, ông Rowan đến Montgomery để viết phóng sự về cuộc tẩy chay và đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các nhà lãnh đạo MIA. Khoảng 8 giờ tối thứ Bảy, ông gọi điện cho tôi để xác minh câu chuyện. Ông đề cập đến cuộc họp và các thỏa thuận làm tôi hết sức choáng váng. Khi ông nói về ba giáo sĩ da đen uy tín có mặt tại cuộc họp, tôi lại càng ngạc nhiên hơn. Tôi nói với ông ta rằng tôi không hề biết gì về việc này và bắt đầu tự hỏi liệu có ai trong số các cộng sự của tôi đã phản bội và thỏa thuận sau lưng tôi hay không. “Điều này là không thể”, tôi nghĩ, “bởi vì mình vừa có một cuộc họp chiến lược vào sáng nay và tất cả các giáo sĩ uy tín đều ở đó”.
Rowan đã gọi cho ủy viên Sellers để hỏi thêm chi tiết. Trong vòng hai mươi phút, ông gọi lại và nói rằng Sellers đã xác nhận câu chuyện nhưng từ chối nêu tên những “giáo sĩ da đen uy tín”. Tuy nhiên, từ người ủy viên này, Rowan đã biết các vị giáo sĩ đó thuộc giáo phái nào. Manh mối này là tất cả những gì tôi cần.
Lập tức tôi gọi các cộng sự đến nhà mình và chưa đầy ba mươi phút họ đã có mặt. Tôi kể cho họ nghe câu chuyện, và chúng tôi quyết định phải truy tìm ra nguồn gốc trước nửa đêm. Đầu tiên chúng tôi tìm hiểu xem nhóm giáo sĩ da đen đã thực sự gặp ủy ban Thành phố chưa, sau đó là những giáo phái mà Rowan đã đề cập. Từ đó chúng tôi bắt đầu điều tra danh tính của vài người sau khi đã dùng phép loại trừ. Sau khoảng một giờ gọi điện thoại đi đó đây, chúng tôi đã có thể xác định được ba “giáo sĩ da đen uy tín”. Họ không nổi tiếng mà cũng chẳng phải là thành viên của MIA.
Lúc đó là khoảng 11 giờ đêm thứ Bảy. Phải làm thế nào để cho mọi người biết rằng bài báo họ sẽ đọc vào buổi sáng hôm sau là bịa đặt. Tôi cho một nhóm gọi đến tất cả các giáo sĩ da đen trong Thành phố và yêu cầu họ thông báo ở nhà thờ vào sáng chúa nhật rằng cuộc phản kháng vẫn tiếp tục. Một nhóm khác đã cùng tôi đi một vòng các quán bar và hộp đêm của người da đen để thông báo cho những người có mặt ở đó rằng chuyện thỏa hiệp là giả dối. Lần đầu tiên tôi có cơ hội nhìn thấy bên trong hầu hết các hộp đêm ở Montgomery. Vào 1 giờ sáng ngày Chúa nhật, chúng tôi vẫn đang còn đến các hộp đêm để báo tin. Do chúng tôi triển khai kế hoạch kịp thời nên tin tức được truyền đi nhanh chóng, vậy nên ngày hôm sau xe buýt vẫn trống trơn như thường lệ.
Ngay sau đó, tôi đã có dịp nói chuyện riêng với từng người trong “ba giáo sĩ da đen uy tín” Một trong ba người khăng khăng họ đã không đồng ý về bất kỳ sự thỏa thuận nào. Họ khẳng định rằng họ đã bị “lừa” đến cuộc gặp do có lời mời qua điện thoại về việc thảo luận một loại bảo hiểm mới cho Thành phố. Cả ba đều bác bỏ thông báo của ủy ban.
Thất bại với trò lừa bịp, các quan chức Thành phố đã bị mất mặt. Không cần biết họ có được đánh giá giỏi chiến thuật mưu mẹo hay không nhưng tính trung thực của họ đang phải chịu sự thử thách. Đến bây giờ họ đã hoàn toàn bế tắc. Và cách mà họ bắt đầu đáp trả là thực hiện một chính sách “cứng rắn”. Với sự phẫn nộ thực sự, Thị trưởng đã lên truyền hình và lên án sự tẩy chay. Ông hăm dọa, ủy ban sẽ “không lòng vòng với vụ tẩy chay nữa mà sẽ giải quyết dứt điểm”. Đại đa số người da trắng ở Montgomery, ông tuyên bố, không quan tâm dù chỉ một người da đen có đi xe buýt nữa hay không. Và ông kêu gọi các nhà tuyển dụng da trắng ngừng đưa đón nhân viên da đen của họ đến chỗ làm và về nhà. Trong thời gian này, cả ba ủy viên Thành phố cho biết họ đã tham gia Hội đồng Công Dân Da Trắng.
Chính sách “cứng rắn” hóa ra bao hàm một loạt các vụ bắt giữ vi phạm giao thông nhỏ và thường thấy. Có những người chưa bao giờ bị phạt thì bây giờ cũng bị phạt, và đã vài lần bị vào tù. Những người da đen lái xe đưa rước thì bị dừng xe ở khắp thành phố để hỏi về giấy phép, bảo hiểm và nơi làm việc của họ. Các cảnh sát đã ghi chép cẩn thận, dường như để thu thập bằng chứng cho những lần vi phạm sau. Một số người đi xe buýt trước kia, khi đứng đợi xe đến đón, được bảo là có luật cấm đưa đón người; những người khác được biết rằng họ sẽ bị bắt nếu bị nhìn thấy “đi lẩn quẩn ở khu vực người da trắng”.
Trước những khó khăn này, những người tình nguyện lái xe đưa rước bắt đầu ít đi. Một số tài xế thấy lo sợ rằng giấy phép của họ sẽ bị thu hồi hoặc bảo hiểm của họ bị hủy bỏ; những người khác cảm thấy rằng họ không còn có thể tham gia cuộc tẩy chay trong hoàn cảnh như vậy nữa. Nhiều tài xế lặng lẽ từ bỏ việc đưa đón khách, vì vậy đón xe ngày càng trở nên khó khăn hơn. Khiếu nại bắt đầu tăng lên. Từ sáng sớm đến đêm khuya, điện thoại của tôi reo liên tục và chuông cửa nhà tôi hiếm khi im lặng. Tôi bắt đầu nghi ngờ về khả năng cộng đồng da đen có thể tiếp tục cuộc đấu tranh.
Để cố gắng giữ cho phong trào không bị tan rã, tại các cuộc họp quần chúng các giáo sĩ đã đưa ra các kiến nghị đặc biệt và kêu gọi mọi người giữ vững lòng tranh đấu. Chúng tôi cam kết với các tài xế lái xe đưa rước là sẽ gắn bó với họ để vượt qua những khó khăn này. “Chúng ta phải kề vai sát cánh với nhau”, chúng tôi nhắc đi nhắc lại, “dù tốt hay xấu, cũng cùng đồng cam cộng khổ cho đến khi vấn đề này được giải quyết”.
Tôi cũng nghĩ mình sẽ bị bắt do kết quả của biện pháp “cứng rắn”. Một buổi chiều giữa tháng Một, sau khi làm việc tại văn phòng nhà thờ, tôi bắt đầu lái xe về nhà với một người bạn là Robert Williams và thư ký của nhà thờ là bà Lilie Thomas. Trước khi rời trung tâm Thành phố, tôi quyết định ghé qua bãi đậu xe để đón một vài người đi cùng hướng với tôi. Khi chúng tôi đi vào bãi, tôi thấy bốn hoặc năm cảnh sát đang tra hỏi các tài xế. Tôi đón ba hành khách và lái xe đến rìa bãi đậu thì bị một trong những nhân viên này giữ lại. Trong khi anh ta yêu cầu được xem giấy phép của tôi và hỏi về quyền sở hữu xe, tôi nghe một cảnh sát đứng bên kia đường nói “Đó là tên King chết tiệt”.
Rời khỏi bãi đậu xe, tôi nhận thấy hai cảnh sát chạy xe gắn máy phía sau tôi. Qua ba dãy nhà, vẫn còn một chiếc chạy theo. Khi tôi nói với Bob Williams chúng tôi đang bị theo dõi, ông ấy trả lời, “Anh hãy tuân thủ đúng luật lệ giao thông”. Tôi lái xe đi từ từ và cẩn thận, chiếc xe máy vẫn đi sau tôi. Cuối cùng, khi tôi dừng lại để cho ba hành khách xuống, viên cảnh sát chạy tới và nói: “Hãy bước ra khỏi xe, King. Ông bị bắt vì chạy tốc độ ba mươi dặm một giờ trong khu vực cho phép hai mươi lăm dặm một giờ”. Không cần hỏi han gì, tôi ra khỏi xe, nói Bob Williams và bà Thomas lái xe về và thông báo cho vợ tôi, chẳng mấy chốc một chiếc xe tuần tra đến, hai cảnh sát bước ra và khám tôi từ trên xuống dưới xong đưa tôi vào trong xe rồi lái đi.
Khi chúng tôi đi, có lẽ là đến nhà tù Thành phố, một cảm giác hoảng sợ bắt đầu xuất hiện. Tôi luôn tưởng rằng nhà tù ở khu vực trung tâm Montgomery. Tuy nhiên, sau khi đi một lúc, tôi lại thấy đi theo một hướng khác, càng đi càng xa khỏi trung tâm Thành phố. Vai phút sau, xe rẽ vào một con đường tối tăm và dơ dáy chưa từng thấy, rồi đi tới một cây cầu cũ hoang vắng. Lúc này tôi đã nghĩ rằng họ mang tôi đến một nơi xa xôi để quăng tôi lại đó. “Điều này là không thể”, tôi tự nhủ, “những người này là viên chức thừa hành luật pháp”. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu họ có đưa tôi đến chỗ phe nhóm nào đó đang chờ đợi hay không, sau đó lấy cớ rằng họ bị áp đảo. Toàn thân tôi run rẩy. Tôi thầm cầu xin Chúa ban cho tôi sức mạnh để chịu đựng bất cứ điều gì sẽ đến.
Lúc này chúng tôi đã đi qua khỏi cầu. Tôi đinh ninh rằng bên kia cầu là nơi định mệnh của mình. Nhưng khi nhìn lên, tôi thấy một ánh sáng chói ở đằng xa, và ngay sau đó tôi thấy bảng chữ “Nhà tù Thành phố Montgomery”. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm đến mức tự thấy mỉa mai thay cho tình cảnh của mình: đi tù mà như đi đến một nơi trú ẩn an toàn nào đó!
Một cảnh sát đã mở cửa cho tôi. Sau khi gửi đồ đạc và cung cấp thông tin cho cai ngục, tôi bị dẫn đến một căn phòng tồi tàn và hôi hám. Khi cánh cửa sắt lớn mở ra, người cai ngục nói với tôi: “Được rồi, hãy vào ở chung với những người này”. Trong tích tắc một cảm xúc rét mướt lạ lùng lướt qua tôi như những cơn gió lạnh trên đồng cỏ mênh mông. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi bị ném vào sau chấn song sắt.
Khi bước vào phòng giam đông đúc, tôi nhận ra hai người quen, có một giáo viên bị bắt vì liên quan đến cuộc phản kháng. Trong nền dân chủ của nhà tù, họ bị nhốt chung với những tên du đãng, kẻ say rượu và những kẻ phạm tội hình sự. Một người bị tù vì tấn công và bạo hành; một người khác bị buộc tội mạo danh quyên tiền. Nhưng nền dân chủ đã không đi xa đến mức phá vỡ các quy tắc phân biệt. Ở đây người da trắng và người da đen bị giam mòn mỏi trong các phòng giam riêng.
Khi nhìn xung quanh, tôi đã rất kinh hoàng trước những điều kiện sống ở đây đến nỗi quên cả tình trạng hiểm nguy của chính mình. Tôi thấy những người đàn ông nằm trên những thanh giường cứng và những người khác thì ở trên những chiếc nệm rách. Nhà vệ sinh nằm ở một góc mà không có gì che chắn. Tôi tự nhủ rằng dù những người đàn ông này đã làm gì, họ cũng không nên bị đối xử như vậy.
Tất cả bọn họ xúm lại hỏi để biết tại sao tôi lại vào đây, và một số tỏ vẻ ngạc nhiên cho rằng bắt tôi là Thành phố đã quá lố. Chẳng mấy chốc, hết người này đến người khác bắt đầu nói chuyện với tôi, kể lý do anh ta vào tù và hỏi tôi có thể giúp anh ấy được thả ra không. Đến người thứ ba yêu cầu tôi giúp đỡ, tôi quay sang đám đông nói: “Các anh em, trước khi tôi có thể giúp đỡ bất kỳ ai thoát ra ngoài, tôi phải thoát thân trước đã”. Họ bật cười.
Không lâu sau, người cai ngục đến đưa tôi đi. Khi rời phòng giam, tôi đang thắc mắc ông ta sẽ đưa tôi đi đâu thì một người tù nói với theo: “Đừng quên chúng tôi khi anh được ra ngoài nhé”. Và tôi đã hứa là sẽ không quên họ. Tên cai ngục dẫn tôi xuyên một hành lang dài đến một căn phòng nhỏ đối diện phòng giam vừa rồi. Trong thoáng đó tôi nghĩ chắc mình được bảo lãnh tại ngoại bằng trái phiếu, nhưng rồi nhanh chóng phát hiện ra mình đã nhầm. Gã cai ngục cộc lốc ra lệnh cho tôi ngồi và bắt đầu lăn ngón tay của tôi trên một hộp mực. Tôi sắp bị lấy dấu vân tay như một tên tội phạm.
Vào lúc này, tin tức về vụ bắt giữ tôi đã lan truyền khắp Montgomery, và một số người đã đi đến nhà tù Thành phố. Người đến đầu tiên là bạn thân của tôi, Ralph Abernathy. Anh ta lập tức tìm cách ký kết trái phiếu bảo lãnh tôi, nhưng các quan chức nói với anh rằng anh phải mang giấy của tòa án khẳng định là có tài sản đảm bảo để ký kết một trái phiếu. Ralph nói rằng vì đã gần 6 giờ 30 tối, tòa án đã đóng cửa.
Một cách thờ ơ, viên chức nhà tù vặn vẹo: “Ừm, vậy anh cứ chờ đến sáng mai”.
Sau đó Ralph hỏi anh ta có thể gặp tôi không.
Người cai ngục trả lời: “Không, 10 giờ sáng mai anh mới được gặp”
“Vâng, vậy có thể”, Abernathy nói, “bảo lãnh bằng tiền mặt được không?”
Gã cai ngục miễn cưỡng trả lời có. Ralph vội vã đến văn phòng nhà thờ của mình cách đó vài dãy nhà để đi lo tiền mặt.
Trong khi đó, một số người đã tập hợp trước nhà tù. Các chấp sự và ủy viên quản trị nhà thờ của tôi đã kéo đến từ mọi nơi. Chẳng mấy chốc đám đông trở nên quá lớn đến mức người cai ngục bắt đầu hoảng sợ. Ông ta vội vã vào phòng lăn vân tay và nói: “King, ông được thả ngay bây giờ” và tôi chưa kịp lấy áo khoác của mình, ông ta đã đẩy tôi ra mà không phải đóng tiền tại ngoại. Ông ta trả lại tài sản của tôi và thông báo rằng phiên tòa của tôi sẽ được tổ chức vào sáng thứ Hai lúc 8 giờ 30.
Khi bước ra khỏi cửa nhà tù, được những người bạn và mọi người chúc mừng, tôi lấy lại được sự dũng cảm mà tôi đã tạm thời bị mất. Tôi biết rằng tôi không chỉ có một mình. Sau vài lời ngắn gọn cùng đám đông, tôi được một chấp sự đưa về. Vợ tôi đón tôi bằng một nụ hôn ở ngay cửa. Bên trong, nhiều thành viên trong nhà thờ của tôi và những người bạn khác đang lo lắng chờ đợi kết quả. Lời động viên của họ đã cho tôi thêm sự bảo đảm rằng tôi không đơn độc.
Từ đêm đó, sự cam kết của tôi với cuộc đấu tranh giành tự do mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trước khi nghỉ ngơi, tôi đã nói chuyện với Coretta. Và như thường lệ, cô ấy đã cho tôi sự tin tưởng mà chỉ có thể có được từ một người gần gũi với bạn như nhịp đập của chính trái tim bạn. Vâng, đêm bất công thật tăm tối: chính sách ‘cứng rắn” đang chiếm ưu thế. Nhưng trong bóng tối tôi đã thấy một ngôi sao sáng chói của tình đoàn kết.