Chương VIII Vũ lực của những người bất lực
Sau khi chính sách “CỨNG RẮN” thất bại trong việc ngăn cản phong trào tiếp tục hoạt động, những người cực đoan trở nên liều lĩnh và chúng tôi chờ xem động thái tiếp theo của họ. Gần như ngay sau khi cuộc phản kháng bắt đầu, chúng tôi cũng đồng thời nhận được những cuộc điện thoại và những lá thư đe dọa. Ban đầu thỉnh thoảng mới có một lần, nhưng càng ngày chúng xuất hiện càng nhiều hơn, đến giữa tháng Một thì đã tăng lên đến ba mươi, bốn mươi lần một ngày.
Những tấm bưu thiếp chỉ với vài chữ “khôn hồn thì rời khỏi Thành phố, không thì...” thường được ký tên là “KKK”. Rất nhiều lá thư được viết nguệch ngoạc và sai chính tả lợi dụng giáo lý để lý luận rằng “Chúa không có ý định cho người da trắng và người da đen sống với nhau không phân biệt, vì nếu muốn vậy chúng ta đã được tạo giống nhau rồi”. Có những lá thư được kèm theo những tờ giấy in từ máy in rô-nê-ô và những tài liệu khác in những lập luận chống người Do Thái và người da đen. Trong số đó có một tài liệu được chú thích thêm bằng chữ viết tay: “Lũ mọi da đen các người đang tự đưa đầu vào nơi tồi tệ. Kinh Thánh ủng hộ sự phân biệt giữa Do Thái và những chủng tộc khác, thậm chí còn tán thành sự phân biệt giữa 12 chi tộc của Isarael. Chúng ta cần và sẽ dựng lên một Hitler để chỉnh đốn lại đất nước này” Trong số những lá thư này có rất nhiều lá mang nội dung nguyền rủa và thô lỗ đến mức không thể trích lại trong tác phẩm được.
Bên cạnh đó, điện thoại luôn đổ chuông vào ban ngày và thường xuyên hơn vào ban đêm. Những lúc như vậy thường chỉ có một mình Coretta ở nhà, và ngay cả như vậy đi nữa thì những giọng nói xúc phạm này vẫn không buông tha cô ấy. Rất nhiều lần người gọi bên kia chỉ chờ chúng tôi nhấc máy trả lời là họ cúp máy.
Khá nhiều cuộc gọi mang đề tài tình dục. Có một người phụ nữ, mà không lâu sau đó tôi đã nhận ra khi nghe giọng nói của cô ấy, đã gọi điện hết ngày này qua ngày khác để buông ra lời cáo buộc những người da đen đã có hành vi xâm hại tình dục. Những lần như vậy tôi thường nhấc máy để muốn giải thích một cách ôn hòa về việc làm của chúng tôi thì người gọi lại cúp máy. Đôi khi chúng tôi phải rút cả dây điện thoại ra, nhưng cách này không thể kéo dài vì biết đâu sẽ có những cuộc điện thoại quan trọng gọi đến.
Khi những tai họa này bắt đầu xuất hiện, tôi đối diện một cách dễ dàng vì nghĩ rằng đây chỉ là việc làm của một vài người nóng nảy, họ sẽ sớm bị nhụt chí khi nhận ra rằng chúng tôi không đáp trả. Nhưng rồi nhiều tuần trôi qua, tôi nhận thấy phần lớn những lời đe dọa đó không phải là lời nói suông. Không lâu sau đó tôi bắt đầu cảm thấy chùn bước và một nỗi sợ hãi đang lớn dần. Một ngày kia, một người bạn da trắng đã cho tôi biết rằng, anh ta nghe được từ những nguồn tin đáng tin cậy là có người đang lên kế hoạch sát hại tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhận ra mình có thể sẽ gặp phải bất trắc.
Trong một cuộc họp mặt quần chúng vào buổi tối, tôi buộc miệng nói: “Nếu một ngày nào đó, mọi người tìm thấy xác của tôi đang nằm sóng soài, tôi không muốn thấy sự trả thù bằng bất kỳ một hành động bạo lực nào hết. Ngay cả khi điều đó có xảy ra”, tôi kêu gọi mọi người, “hãy tiếp tục phản kháng với phẩm giá và kỷ luật như các anh em vẫn làm từ trước đến nay”. Một sự im lặng kỳ lạ bao trùm lên tất cả.
Sau đó, để cố gắng làm giảm bớt tính nghiêm trọng của sự việc, tôi đã nói với một nhóm người đang lo lắng vây xung quanh mình rằng, những gì tôi vừa nói không xuất phát từ một nguyên nhân cụ thể nào cả, mà chỉ là một tuyên bố chung chung về nguyên tắc mà phong trào nên tuân thủ khi có bất kỳ sự chết chóc nào xảy ra. Nhưng Ralph Abernathy không hài lòng với câu trả lời đó. Trong khi đang lái xe đưa tôi về nhà đêm đó, anh ta nói:
“Có điều gì đó không ổn. Anh đang phiền muộn về một chuyện gì đó”.
Tôi cố tránh né vấn đề bằng cách lặp lại những gì tôi đã nói với nhóm người ở nhà thờ. Nhưng anh ấy vẫn không chịu thôi:
“Martin”, anh ấy nói, “lúc đó không phải anh muốn nói về một nguyên tắc chung nào đó. Nhất định anh đang có một suy nghĩ khác trong đầu”.
Không thể tránh né được nữa, tôi thú nhận sự thật. Lần đầu tiên tôi kể với anh ấy về những lời đe dọa đang làm phiền gia đình tôi, về cuộc nói chuyện với người bạn da trắng của mình, về những nỗi sợ đang len vào tâm hồn tôi. Ralph đã cố trấn an tôi, nhưng tôi vẫn cảm thấy lo sợ.
Những hành động đe dọa vẫn tiếp diễn. Gần như ngày nào cũng có người cảnh báo rằng họ đã nghe được tin những người da trắng đang lên kế hoạch trừ khử tôi. Gần như đêm nào tôi cũng đi ngủ trong trạng thái bất an không biết điều gì sẽ xảy đến. Mỗi buổi sáng trông thấy Coretta và “Yoki” tôi lại tự nhủ: “Tôi có thể mất hai mẹ con bất cứ lúc nào; hoặc hai mẹ con có thể mất tôi vào bất kỳ lúc nào”. Lần này tôi không dám chia sẻ suy tư của mình với ngay cả Coretta.
Vào một đêm gần cuối tháng Một, tôi đi ngủ trễ sau một ngày làm việc vất vả. Coretta đã chìm vào giấc ngủ và ngay khi tôi vừa thiếp đi thì chuông điện thoại reo. Một giọng nói giận dữ vang lên: “Nghe đây tên da đen, chúng tao sẽ lấy đi của mày mọi thứ chúng tao muốn. Chưa cần đến tuần sau đâu, mày sẽ phải hối hận vì đã đặt chân đến Montgomery”. Tôi cúp máy, nhưng lại không thể ngủ được. Dường như nỗi sợ hãi trong tôi đã lên đến cực độ. Nó vượt quá sức chịu đựng của tôi.
Tôi ra khỏi giường và cứ đi đi lại lại, sau đó vào bếp hâm nóng một bình cà phê. Tôi có ý định đầu hàng. Tách cà phê đặt trước mặt vẫn chưa được đụng đến, tôi cố gắng nghĩ ra một cách để rút lui khỏi cuộc đấu tranh này mà không bị xem là một kẻ hèn nhát.
Trong tình trạng kiệt quệ này, khi mà dũng khí của tôi đã biến mất hoàn toàn, tôi quyết định đem vấn đề của mình chia sẻ với Chúa. Hai tay ôm đầu, tôi cúi gập người trên bàn ăn và cầu nguyện thành tiếng. Những gì tôi nói với Chúa vào đêm hôm đó cho đến bây giờ vẫn còn đọng lại vô cùng sống động trong ký ức của tôi. “Con đang cố gắng bênh vực cho những gì con tin là lẽ phải. Nhưng giờ đây con đang run sợ. Mọi người đang trông chờ vào sự dẫn dắt của con, và nếu con xuất hiện trước họ không có một chút sức mạnh và dũng khí nào, thì rồi họ cũng sẽ chùn bước. Sức lực của con đã cạn kiệt, chẳng còn gì hết. Con không đủ sức tiếp tục đương đầu một mình được nữa”.
Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy như có sự hiện diện của Đấng Tối Cao mà trước đây tôi chưa từng được cảm nhận. Tôi cảm giác như nghe thấy lời an ủi thầm lặng và che chở của một giọng nói từ sâu thẳm bên trong: “Hãy đứng lên vì lẽ phải, đứng lên vì sự thật, và Chúa sẽ ở bên cạnh con mãi mãi”. Mối lo sợ của tôi biến mất. Tôi cảm thấy mình sẵn sàng đối mặt với mọi thứ.
Ba đêm sau, vào ngày 30 tháng Một, tôi rời khỏi nhà lúc gần 7 giờ tối để tham dự buổi họp mặt quần chúng vào tối thứ Hai tại Nhà thờ Baptist Đệ Nhất. Một thành viên của cộng đoàn, bà Mary Lucy Williams, đến nhà chúng tôi để ở cùng Coretta khi tôi đi vắng. Sau khi đã cho em bé đi ngủ, Coretta và bà Williams ra phòng khách xem tivi. Vào khoảng 9 giờ 30, họ nghe một tiếng động phía trước nhà giống như có ai đó ném một viên gạch vào. Chỉ trong vài giây, một tiếng nổ gây chấn động căn nhà. Một trái bom đã phát nổ trên hiên nhà.
Ở xa cách nhiều dãy nhà cũng nghe thấy được tiếng nổ, và tin tức về vụ đánh bom bay đến cuộc họp mặt quần chúng gần như ngay lập tức. Khi ấy cuộc họp chuẩn bị kết thúc, tôi đang đứng trên bục phát biểu giúp mọi người thu nhận tiền đóng góp thì thấy người trợ giáo tức tốc tìm đến Ralph Abernathy để nhắn một tin gì đó. Abernathy quay người chạy xuống cầu thang, không lâu sau đó anh quay trở lại với vẻ mặt lo lắng. Nhiều người khác chạy vào rồi lại chạy ra khỏi nhà thờ. Mọi người nhìn tôi rồi lại quay đi, có một hay hai người dường như đang muốn nói gì đó vởi tôi và rồi lại thôi. Người trợ giáo gọi tôi ra bên hông bục phát biểu, có lẽ là để nói với tôi một điều gì, nhưng trước khi tôi tới được đó thì S. S. Seay đã bảo ông ta đi chỗ khác. Lúc này thì tôi tin chắc rằng việc đã xảy ra có liên quan đến tôi. Tôi gọi Ralph Abernathy, S. S. Seay và E. N. French lại và yêu cầu họ nói cho tôi biết đã có chuyện gì không hay xảy ra. Ralph nhìn Seay và French, sau đó quay sang tôi ngập ngừng nói:
“Nhà của anh đã bị đánh bom”.
Tôi hỏi liệu vợ và con tôi có bị làm sao không.
Họ nói: “Chúng tôi đang kiểm tra”.
Kỳ lạ thay, tôi đã rất bình tĩnh khi đón nhận tin tức về vụ đánh bom này. Trải nghiệm tôn giáo cách vài đêm trước đó đã cho tôi sức mạnh để đối diện với nó. Tôi dừng việc thu tiền và yêu cầu tất cả những người có mặt hãy chú ý lắng nghe. Tôi giải thích với họ lý do tôi phải ra về, và kêu gọi mọi người hãy đi thẳng về nhà sau cuộc họp và tuyệt đối tuân thủ triết lý phi bạo lực. Tôi khuyên mọi người không được hoảng loạn và mất bình tĩnh. “Hãy tiếp tục chiến đấu”, tôi động viên họ, “với niềm tin những gì chúng ta đang làm là đúng, và với một niềm tin còn mãnh liệt hơn nữa là Chúa đang ở cùng chúng ta trong cuộc đấu tranh này”.
Ngay lập tức tôi được chở về nhà. Khi gần đến tôi nhận thấy hàng trăm người đứng trước nhà chúng tôi với nét mặt giận dữ. Cảnh sát đang cố gắng giải tán đám đông, vẫn bằng một thái độ thô bạo thường thấy ở họ, nhưng đám đông không còn nghe theo nữa. Một người da đen nói với một viên cảnh sát đang định đẩy anh ta qua một bên: “Này nhé, tôi sẽ không đi đâu hết. Người da trắng các anh luôn xô đẩy chúng tôi ở khắp mọi nơi. Giờ đây tay anh đang cầm khẩu 38” và tôi cũng vậy, hãy để súng giải quyết việc này”. Trong khi đi về phía hiên nhà tôi nhận ra có rất nhiều người mang vũ khí. Phản kháng phi bạo lực đang có nguy cơ bị biến thành bạo động.
Tôi vội vã đi vào trong nhà để xem Coretta và “ Yoki” có được an toàn không. Khi vào phòng ngủ, thấy vợ và con gái của mình không hề bị làm sao, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi được biết, thật là may mắn khi Coretta và bà Williams vừa nghe tiếng một vật gì đó rơi ngoài hiên, họ đã bật dậy và chạy về phía sau nhà. Nếu thay vì làm vậy, họ lại đi ra hiên nhà để xem xét xung quanh thì có thể đã có người thiệt mạng. Coretta không hề tỏ ra chua chát hay hoảng loạn. Cô ấy đón nhận toàn bộ sự việc bằng một sự điểm tĩnh đáng kinh ngạc. Sự điểm tĩnh của cô ấy đã làm cho tôi càng trở nên bình tĩnh hơn.
Thị trưởng Gayle, ủy viên cảnh sát Sellers, và nhiều phóng viên da trắng khác đã có mặt tại ngôi nhà trước khi tôi trở về và đang đứng trong phòng ăn. Sau khi đã yên tâm vì sự an toàn của gia đình mình, tôi đi đến để nói chuyện với họ. Cả Gayle và Sellers đều bày tỏ sự đau buồn vì “tai nạn không may này đã xảy ra trong thành phố của chúng ta”. Một trong những người đại diện cho nhà thờ của tôi đang làm việc tại một hệ thống trường công lập của Montgomery, đứng bên cạnh tôi khi Thị trưởng và ủy viên nói chuyện. Mặc dù biết là bất lợi, anh ta vẫn nói với Thị trưởng: “Ông có thể bày tỏ sự tiếc thương của mình, nhưng ông phải nhìn nhận rằng chính các phát ngôn trước công chúng của ông là tác nhân cho vụ đánh bom này. Đây chính là kết quả chính sách “cứng rắn” của các ông”. Cả Thị trưởng Gayle hay ủy viên Sellers đều không thể nói được gì.
Đến lúc này thì đám đông bên ngoài đã bắt đầu trở nên mất kiểm soát. Những viên cảnh sát đã không thể giải tán được đám đông, và cứ mỗi phút qua đi lại có thêm một nhóm người mới xuất hiện. Những phóng viên da trắng muốn ra về để đưa tin lên đài nhưng lại không dám trước đám đông giận dữ. Còn Thị trưởng và ủy viên mặt trông tái nhợt, mặc dù có thể họ không muốn thừa nhận điều đó.
Trước tình thế đó, tôi bước ra hiên nhà và yêu cầu đám đông hãy giữ trật tự. Chỉ trong phút chốc tất cả đã im lặng. Một cách từ tốn, tôi nói cho họ biết rằng tôi và vợ con tôi vẫn ổn. “Mọi người xin đừng hoảng loạn”, tôi tiếp tục, “Nếu ai đang mang theo vũ khí hãy đem cất về nhà, nếu ai không có vũ khí thì xin đừng tìm cách tậu chúng. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề này bằng cách bạo động để trả đũa. Chúng ta phải đáp trả bạo lực bằng phi bạo lực. Hãy ghi nhớ lời của Chúa Jesus: ‘Kẻ sống bằng gươm đao sẽ chết bởi gươm đao.’ Sau đó tôi kêu gọi mọi người ra về trong ôn hòa. “Chúng ta phải yêu thương những người anh em da trắng của mình”, tôi nói, “cho dù họ có làm gì chúng ta đi nữa. chúng ta phải làm cho họ hiểu rằng chúng ta yêu thương họ. Lời Chúa Jesus vẫn tha thiết ngân vang qua hàng thế kỷ: ‘Hãy Yêu thương kẻ thù của con; chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa con; cầu nguyện cho những kẻ rắp tâm lợi dụng con’. Đây là những điều chúng ta phải noi theo. Chúng ta phải đáp trả thù hận bằng tình yêu thương. Xin hãy nhớ”, tôi kết thúc, “nếu tôi bị ngăn cản, phong trào này vẫn sẽ không dừng lại, bởi vì đã có Chúa Trời luôn bên cạnh chúng ta. Hãy trở về nhà với niềm tin luôn rực sáng và lời nhắc nhở này như ngọn đuốc soi đường”.
Khi tôi vừa kết thúc bài nói đã có những giọng cất lên “Amen” và “Chúa luôn bên cạnh anh”. Tôi có thể nghe thấy những tiếng nói: “Chúng tôi sẽ sát cánh bên Cha đến cùng, thưa cha”. Tôi ngước mắt nhìn ra đám đông và nhận thấy nước mắt đã rơi trên gương mặt của nhiều người.
Sau khi tôi nói xong, đến lượt ủy viên nói với đám đông. Ngay lập tức có những tiếng la ó. Những viên cảnh sát cố gắng làm cho đám đông tập trung bằng cách lên tiếng: “Trật tự! Ủy viên đang phát biểu”. Để đáp lại, đám đông phản đối còn lớn hơn. Tôi bước ra mép hiên và giơ tay lên ra hiệu im lặng. “Hãy nhớ những gì tôi vừa nói. Xin hãy lắng nghe ngài ủy viên cảnh sát”. Tức thì mọi sự lắng xuống, vị ủy viên lên tiếng và đưa ra mức tiền thưởng cho bất kỳ ai tố cáo những người đã gây ra việc này. Sau đó đám đông bắt đầu giải tán.
Buổi tối tiếp tục trôi qua với một bầu không khí căng thẳng. Những người da đen đã hết chịu đựng nổi. Họ sẵn sàng dùng bạo lực để đáp trả lại bạo lực. Sau sự kiện hôm đó, một người cảnh sát cho tôi biết trong đêm đó chỉ cần một người da đen vấp chân vào một viên gạch thì chắc một cuộc bạo loạn chủng tộc đã xảy ra, bởi vì những người da đen sẽ tin là bị người da trắng xô ngã. Sự kiện này rất có thể trở thành đêm tăm tối nhất trong lịch sử của Montgomerv. Nhưng một điều gì đó đã ngăn nó không xảy ra: chắc hẳn đó là chúng tôi luôn có Thánh, Thần, Chúa ở trong tim. Và cái đêm mà dường như được số phận sắp đặt kết thúc bằng một cuộc bạo loạn không thể kiểm soát thì lại được chấm dứt bằng thái độ bất bạo động thật cao thượng của cả một tập thể.
Đến đêm khuya, sau khi những người bạn đã ra về, Coretta, “Yoki” và tôi được đưa đến nhà một thành viên của nhà thờ chúng tôi để nghỉ qua đêm. Tôi không tài nào ngủ được. Khi tôi nằm thao thức trong căn phòng ngủ yên tĩnh ở phía trước ngôi nhà gần mặt đường, ngọn đèn đường ở phía xa xa tỏa ánh sáng dìu dịu vào phòng qua khung cửa sổ buông rèm đem đến một cảm giác bình yên và an toàn, tôi bắt đầu nghĩ đến sự tàn độc của những kẻ đã đánh bom căn nhà của mình. Và rồi cơn giận dữ dâng trào lên khi nghĩ đến người vợ và đứa con bé bỏng của mình có thể đẫ bị giết chết. Khi nhớ đến những ủy viên Thành phố với tất cả những lời tuyên bố của họ nhắm đến tôi, đến người da đen nói chung, tôi suýt lại để lòng căm hận hủy hoại mình một lần nữa. Rồi tôi trấn tĩnh lại và tự nhủ: “Mình không được phép trở nên cay đắng”.
Tôi cố đặt mình vào vị trí của ba người ủy viên nọ. Tôi luôn nhắc mình rằng họ không phải là những người xấu xa mà chỉ vì đang bị lạc lối mà thôi. Họ được nhiều tiếng tốt trong cộng đồng và là những người đáng kính và lịch lãm trong cách làm việc. Có thể họ cho rằng cách thức họ đối xử với người da đen là đúng đắn. Lý do họ nói năng và hành xử với chúng tôi như họ đang làm là bởi vì họ đã được dạy dỗ như thế. Việc coi người da đen là tầng lớp hạ đẳng đã luôn án sâu trong tư tưởng của họ từ khi còn nằm trong nôi cho đến khi nằm dưới mộ. Những bậc cha mẹ hẳn đã dạy họ điều đó; những trường họ theo học đã dạy họ điều đó; những quyển sách họ đọc, ngay cả nhà thờ và mục sư của họ cũng thường rao giảng về điều đó; và hơn hết thảy, cả định nghĩa về sự phân biệt đối xử cũng dạy họ như vậy. Toàn bộ nền văn hóa truyền thống mà họ đã lớn lên trong đó - một truyền thống bị tiêm nhiễm với hơn 250 năm nô lệ và hơn 90 năm phân biệt đối xử - đã giáo dục họ rằng có một số thứ người da đen không xứng đáng được hưởng. Vì vậy mà những người này cũng chỉ là sản phẩm của nền vãn hóa đó mà thôi. Khi họ tìm cách bảo vệ chính sách kỳ thị là họ chỉ làm những gì mà phong tục tập quán bản địa cho đó là điều đúng đắn.
Đã quá nửa đêm rất lâu rồi. Coretta và con gái đã ngủ say. Cũng đến lúc tôi cần phải ngủ. Vào khoảng 2 giờ 30 tôi trở mình và chìm vào giấc ngủ. Nhưng đêm nay vẫn chưa dừng ở đó. Một lúc sau, tôi và Coretta bị đánh thức bởi một tiếng gõ chậm và đều đều ở cửa trước của căn nhà. chúng tôi nhìn nhau im lặng trong ánh đèn lờ mờ, và lắng tai nghe khi tiếng gõ lại vang lên một lần nữa. Qua ô cửa sổ chúng tôi trông thấy một bóng đen đang đứng trước hiên nhà. Chủ nhà đang say giấc ở căn phòng phía sau, còn chúng tôi đang nằm ở phía trước, tê liệt không biết phải phản ứng ra sao. Cuối cùng thì tiếng động cũng dừng lại, chúng tôi thấy bóng đen đó đi xuống tam cấp và hướng bước ra đường. Tôi gượng nhẹ ra khỏi giường, hé rèm cửa nhìn ra, và nhận ra dáng lưng vạm vỡ tự tin của người đó, dáng lưng này làm tôi thấy nhẹ nhõm hẳn, đó chính là cha của Coretta.
Obie Scott đã nghe tin tức về cuộc đánh bom qua radio ở Marion. Ông lái xe đến Montgomery để đưa Coretta và “Yoki” về nhà mình, “cho đến khi mọi việc lắng xuống”. Chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc, mặc dù Coretta tôn trọng lắng nghe những lời thuyết phục của cha mình nhưng cô ấy không muốn đi. “Con xin lỗi, thưa cha”, cô ấy nói, “nhưng con phải ở đây với Martin”. Vậy là obie Scott phải lái xe trở về Marion một mình.
Chỉ sau đó hai đêm, một trái mìn tự chế được quăng vào sân nhà của E. D. Nixon. May mắn là lần này cũng không ai bị thương. Một lần nữa đám đông người da đen lại tụ tập đến, nhưng họ đã biết kiềm chế mình. Thế là phi bạo lực đã chiến thắng được thử thách đầu tiên và lần này là lần thứ hai.
Sau những cuộc đánh bom, nhiều nhân viên của nhà thờ và những người bạn thân tín đã thúc giục tôi thuê một vệ sĩ và một số bảo vệ trang bị vũ khí để bảo vệ ngôi nhà của mình. Tôi cố gắng nói với họ rằng bây giờ tôi không còn sợ hãi nữa, vì thế không cần thiết phải có bảo vệ. Nhưng họ vẫn kiên quyết, thế là tôi đồng ý cân nhắc điều đó. Tôi cũng đã đến vấn phòng cảnh sát để đăng ký giấy phép mang súng trong xe hơi, nhưng yêu cầu của tôi đã bị từ chối.
Và khi đó tôi suy nghĩ lại. Làm sao tôi có thể dấn thân với vai trò là một trong những lãnh đạo của phong trào phi bạo lực mà đồng thời lại sử dụng vũ khí bạo lực vì sự an toàn của cá nhân mình? Coretta và tôi bàn bạc về vấn đề này trong nhiều ngày và cuối cùng thống nhất giải pháp không dùng vũ khí. Chúng tôi quyết định vứt bỏ khẩu súng đang sở hữu, cố gắng làm yên lòng bạn bè bằng cách lắp đèn pha xung quanh nhà mình, và thuê những vệ sĩ không trang bị súng bảo vệ cả ngày. Tôi cũng hứa là sẽ không đi lại trong thành phố một mình.
Lời hứa này đã dễ thực hiện hơn nhờ một người bạn của chúng tôi, Bob Williams, giảng viên âm nhạc tại trường Đại học Alabama State và từng là bạn học cùng trường đại học với tôi tại Morehouse. Khi tôi chuyển đến Montgomery, tôi đã gặp lại cậu ấy ở đây và kể từ giây phút cuộc phản kháng bắt đầu, hiếm khi nào cậu ấy rời khỏi tôi hoặc Coretta. Cậu ấy là người lái xe chủ yếu chở tôi đi lại trong vùng Montgomery và trong những chuyến đi ra khỏi Thành phố. Mỗi khi Coretta và “ Yoki” đi đến Atlanta hay Marion, cậu ấy luôn chở họ đi và về. Gần như âm thầm, cậu ấy đã trở thành “vệ sĩ” tự nguyện của tôi, mặc dù không hề mang theo vũ khí và cũng không dũng mãnh như những vệ sĩ thực thụ.
Trong thời điểm nhiều gian nguy này, những nhân viên và giáo dân nhà thờ luôn ở gần để động viên và hỗ trợ chúng tôi. Khi tôi thiếu bổn phận một người chồng và một người cha, vì phải vắng nhà trong nhiều giờ liền và đôi khi là trong nhiều ngày liền, những người phụ nữ của nhà thờ đều đến nhà tôi để bầu bạn với Coretta. Nhiều khi họ còn tự nguyện nấu ăn và dọn dẹp, hoặc giúp trông em bé. Nhiều người đàn ông thay phiên nhau làm bảo vệ, hoặc làm tài xế cho tôi khi Bob Williams không thể có mặt. Cộng đoàn của tôi cũng không hề than phiền khi có rất nhiều nhiệm vụ mới đã khiến tôi lơ là trách nhiệm mục sư của mình. Đã nhiều tháng rồi, việc tiếp xúc hàng ngày giữa tôi và tín đồ gần như không còn, tôi chỉ còn thuyết giảng vào Chúa nhật. Tuy vậy, nhà thờ của tôi vẫn sẵn lòng chia sẻ tôi với cộng đồng, và đóng góp những nguồn lực quý giá của họ như thời gian và tiền bạc cho cuộc đấu tranh.
Những người bạn da trắng tại địa phương chúng tôi cũng bày tỏ sự ủng hộ. Họ thường gọi điện cho Coretta để gửi đến những lời động viên. Khi nhà của chúng tôi bị đánh bom, nhiều người trong số họ, cả người quen lẫn không quen biết, đã ghé thăm để nói lời chia sẻ. Thỉnh thoảng trong thùng thư xuất hiện lá thư của một người Montgomery da trắng viết, “Hãy tiếp tục, chúng tôi ủng hộ các bạn một trăm phần trăm”. Thường thì những lá thư như vậy chỉ được ký tên đơn giản là “một người bạn da trắng”.
Có một điều thú vị, một khoảng thời gian sau khi cuộc đánh bom xảy ra, các cuộc điện thoại đe dọa thưa dần. Nhưng đó chỉ là tình trạng tạm thời, nhiều tháng sau chúng xuất hiện trở lại một cách dày đặc. Cuối cùng để có thể yên ổn nghỉ ngơi vào buổi tối, chúng tôi buộc phải đăng ký một số điện thoại ẩn. Số điện thoại mới này được thông báo đến tất cả các thành viên của nhà thờ, các thành viên của Hiệp hội, và những người bạn khác trên khắp đất nước. Và mặc dù đôi khi phải gánh chịu những lời đe dọa là chuyện bình thường, nhưng từ đó chúng tôi không còn nhận được một cuộc gọi thù địch nào nữa. Đương nhiên là những lá thư vẫn được gửi đến, nhưng những người thư ký của tôi đã kín đáo giấu những lá thư này đi không cho tôi biết.
Khi đối phương nhận ra bạo lực không thể ngăn cản cuộc phản kháng, họ chuyển sang bắt bớ hàng loạt. Sáng sớm ngày 9 tháng Một, một luật sư tại Montgomery đã gợi ý cho truyền thông về một đạo luật tiểu bang cũ cấm hoạt động tẩy chay. Ông ta để cập đến phần 14, mục 54, quy định khi từ hai người trở lên lập ra một kế hoạch để ngăn chặn hoạt động của một doanh nghiệp hợp pháp mà không có nguyên nhân hợp lý hay những lý do hợp pháp, thi hành vi của họ được xem là phạm tội mức độ nhẹ. Vào ngày 13 tháng Hai, Bồi thẩm đoàn của Quận Montgomery được triệu tập để đưa ra phán quyết liệu những người da đen đang tẩy chay xe buýt có vi phạm quy định của luật này hay không. Sau khoảng một tuần cân nhắc, Bồi thẩm đoàn, bao gồm mười bảy người da trắng và một người da đen, kết luận việc tẩy chay là trái luật và truy tố hơn một trăm người. Đương nhiên là tên tôi cũng nằm trong danh sách đó.
Tại thời điểm lệnh truy tố được ban ra tôi đang giảng dạy một số buổi tại trường Đại học Fisk ở Nashville. Trong khoảng thời gian này tôi liên lạc với Montgomery qua điện thoại ít nhất ba lần trong một ngày để bắt kịp những tiến triển mới. Nhờ vậy mà tôi được nghe về việc truy tố trước tiên do Ralph Abernathy gọi điện vào khuya thứ Ba, ngày 21 tháng Hai. Anh ta nói việc bắt giữ sẽ được triển khai vào sáng hôm sau. Được biết rằng anh ấy sẽ là một trong những người đầu tiên bị bắt. Tôi trấn an anh ta là tôi sẽ luôn cầu nguyện cho anh ấy và những người khác. Như mọi khi tâm tư anh chẳng hề bị xáo trộn. Tôi nói với anh là tôi sẽ dừng công việc ở Nashville, và trở về Montgomery vào ngày hôm sau.
Tôi đặt một chuyến bay vào sáng sớm. Suốt một đêm dài tôi nghĩ đến những người dân Montgomery. Liệu cuộc bắt bớ hàng loạt này có khiến họ sợ hãi đến mức yêu cầu chúng tôi tuyên bố ngừng cuộc biểu tình? Tôi biết thời gian qua họ đã chịu nhiều áp lực. Đã hơn mười ba tuần rồi mọi người phải đi bộ, hy sinh và vắt kiệt những chiếc xe của mình. Họ gặp phải sự quấy rối và đe dọa trong mọi việc. Và giờ đây họ còn phải đối mặt với việc bị bắt bớ. Liệu họ có kiệt sức chiến đấu? Tôi băn khoan, có khi nào họ sẽ tuyệt vọng mà bỏ cuộc? Có khả nàng đây sẽ là hồi kết cho phong trào của chúng tôi chăng?
Tôi dậy sớm vào sáng thứ Tư và thông báo cho nhân viên của Fisk về việc tôi phải đi sớm do tình hình ở Montgomery. Tôi bay đến Atlanta để đón vợ và con gái, tôi đã gửi họ đến ở nhà của cha mẹ mình trong thời gian tôi ở Nashville. Vợ, mẹ và cha đã ra sân bay đón tôi. Tôi đã kể cho họ về việc truy tố đã nghe qua điện thoại, và họ cũng đã nghe thêm những thông tin từ radio. Coretta vẫn giữ thái độ điềm tĩnh như mọi khi, nhưng trên gương mặt cha mẹ tôi thì đầy vẻ lo lắng.
Cha tôi, người chẳng bao giờ biết lo sợ cho chính mình, lại lo sợ cho tôi và gia đình tôi. Kể từ khi cuộc phản kháng bắt đầu ông đã liên tục đi lại giữa Atlanta và Montgomery để luôn ở bên cạnh chúng tôi. Nhiều lần ông đã tham gia vào các cuộc họp của Ban Quản trị và chưa từng một lần nghi ngờ về tính chính nghĩa của những gì chúng tôi đã làm. Vậy mà người đàn ông nghiêm nghị và gan dạ này tỏ ra yếu đuối đến mức cứ nhắc đến cuộc phản kháng là mắt lại ngấn lệ. Mẹ tôi cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng. Sau vụ đánh bom bà buộc phải nằm dưỡng sức trên giường theo yêu cầu của bác sĩ, và sau đó bà thường xuyên bị bệnh. Nét mặt của hai người - ngay cả dáng đi của họ khi họ đi về phía tôi ở sân bay - đã bắt đầu lộ vẻ khó nhọc.
Khi chúng tôi lái xe về nhà cha mẹ tôi, cha nói rằng ông nghĩ quay trở về Montgomery ngay lúc này không phải là một quyết định khôn ngoan. “Mặc dù nhiều người khác cũng bị truy tố”, ông nói, “nhưng mục đích chính của họ là bắt được con. Rất có thể họ sẽ tống con vào tù và không cho đóng phí bảo lãnh”. Ông tiếp tục kể cho tôi rằng nhân viên điều tra tại Montgomery đã cố gắng tìm một điều gì đó trong hồ sơ của tôi tại Atlanta để có lý do trục xuất tôi khỏi Alabama. Họ đã tìm đến Sở Cảnh sát Atlanta, và thất vọng khi Cảnh sát trưởng Jenkins thông báo với họ là tôi không có lấy một án tích nào dù là nhỏ nhất. “Tất cả những điều này chứng tỏ”, ông kết luận, “con là đối tượng chính mà họ nhắm đến”.
Tôi lắng nghe cha mình chăm chú, nhưng tôi biết mình không thể làm theo để nghị của ông và ở lại Atlanta được. Tôi đã vô cùng lo lắng về cha mẹ mình. Tôi âu lo cho những nỗi lo âu trong lòng họ. Tôi biết nếu tôi tiếp tục cuộc đấu tranh, tôi sẽ đau khổ như chính nỗi đau mà tôi đang bắt họ gánh chịu. Nhưng nếu tôi rút lui vào lúc này, lương tâm tôi sẽ bị cắn rứt, nó sẽ quở trách tôi không có đủ sức mạnh tinh thần để đi tới cùng. Nếu như ai đã từng nhìn vào mắt những người thân yêu của mình để thấy rằng sự mạo hiểm là cách duy nhất mình chọn sẽ làm đau lòng họ đến nhường nào, thì mới hiểu được sự mâu thuẫn trong lòng tôi lúc này.
Cha tôi nói rằng ông đã đề nghị rất nhiều người bạn đáng tin cậy đến nhà vào đầu giờ chiều để thảo luận vấn đề này. Tôi nghĩ việc trao đổi ý kiến này sẽ phần nào giảm nhẹ mối lo cho cha nên đã sẵn lòng ở lại và tiếp chuyện cùng họ. Những người có mặt là A. T. Walden, một luật sư danh tiếng; C. R. Yates và T. M. Alexander, hai doanh nhân thành đạt; C. A. Scott, biên tập viên của tờ Atlanta Daily World ; Giám mục Sherman L. Green từ Nhà thờ A.M.E; Benjamin E. Mays, Chủ tịch của Đại học Morehouse; và Rufus E. Clement, Chủ tịch của Đại học Atlanta. Coretta và mẹ tôi cũng tham gia với chúng tôi.
Cha tôi giải thích với mọi người rằng, vì ông tôn trọng đánh giá của họ nên ông đã mời họ đến đây để cho ý kiến về chuyện tôi có nên trở về Montgomery hay không. Ông nói tóm tắt ngắn gọn về những nỗ lực của ông để làm tôi lánh khỏi Montgomery. Ông thú nhận là nỗi lo sợ về những gì có thể xảy đến với tôi đã khiến ông và mẹ tôi mất ngủ nhiều đêm. Ông kết thúc bằng việc kể lại cuộc trò chuyện với một luật sư dân chủ người da trắng vài giờ trước, người này cũng đồng ý với ông rằng tôi không nên quay lại vào lúc này.
Trong phòng có những tiếng xì xào tán thành. Tôi lắng nghe một cách chăm chú và khách quan nhất có thể khi có hai người đàn ông giải thích lí do vì sao họ đồng tình. Đây là những bậc tiền bối của tôi, là những lãnh đạo trong cộng đồng của tôi. Lời nói của họ rất có trọng lượng. Nhưng không lâu sau đó tôi không thể kiểm chế được nữa. “Tôi buộc phải quay về Montgomery”, tôi phản đối, “Bạn bè và đồng nghiệp của tôi đang bị bắt bớ. Nếu tôi tránh né thì đó là một việc làm vô cùng hèn nhát. Tôi thà ngồi tù mười năm còn hơn bỏ rơi cộng đồng của tôi ngay lúc này. Tôi đã phát động cuộc đấu tranh này, và tôi không thể quay lưng được. Tôi đã đi quá xa để có thể quay lại rồi”. Trong khoảnh khắc im lặng sau đó, tôi đã nghe tiếng cha mình bật khóc. Tôi nhìn Giáo sư Mays, một trong những người có sức ảnh hưởng lớn trong cuộc đời tôi. Có lẽ ông đã nghe được lời thỉnh cầu thầm lặng của tôi. Ngay lập tức, bằng mọi cách ông kiên quyết bảo vệ suy nghĩ của tôi. Những người còn lại sau đó đã cùng với ông ủng hộ tôi. Họ trấn an cha tôi rằng mọi việc sẽ không tồi tệ như chúng ta nghĩ. Và khi đó, ông Walden đã gọi ngay hai cuộc cho Thurgood Marshall - Cố vấn trưởng của NAACP, và Arthur Shores - Cố vấn của văn phòng NAACP tại Alabama, cả hai người đều chắc chắn với ông rằng tôi sẽ được bảo vệ bởi những hàng rào pháp lý tốt nhất. Trước tất cả những sự thuyết phục này, cha tôi bắt đầu chấp nhận việc tôi sẽ quay về Montgomery.
Sau khi mọi người đã ra về, Coretta cùng tôi đi lên phòng của chúng tôi ở trên lầu và nói chuyện rất lâu. Tôi đã rất vui khi biết được cả cô ấy cũng không hề có một chút nghi ngờ nào về việc tôi phải quay trở về ngay lập tức. Ý kiến của những người mà mình tin cậy, cộng với sự lo lắng của cha tôi đã giảm bớt làm vơi đi những cảm xúc nặng nề trong tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn và sẵn sàng hơn để đối diện với những gì đang chờ ở phía trước.
Cha tôi, đúng với tính cách của ông, sau khi rút lại phản đối ý định trở về Montgomery của tôi, đã quyết định đi cùng chúng tôi, không màng đến bất kỳ mối hiểm nguy hay bất tiện nào có thể xảy đến với ông. Ông tìm một tài xế, và khoảng 6 giờ sáng thứ Năm chúng tôi đã ở trên đường cao tốc hướng về Montgomery, và đến nơi vào khoảng 9 giờ. Trước khi chúng tôi bước ra khỏi xe, rất nhiều máy quay phim của đài truyền hình đã chĩa vào chúng tôi để ghi hình. Những phóng viên bằng cách nào đó đã biết được giờ chúng tôi về đến nơi. Vài phút sau Ralph Abernathy đến, anh đã được tại ngoại sau khi bị bắt vào hôm trước. Cùng với Ralph và cha tôi, tôi bước ra chuẩn bị đi đến nhà tù Quận, rất nhiều thành viên nhà thờ của tôi theo sau.
Tại nhà tù tràn ngập bầu không khí như là ngày lễ hội. Trên đường đến đây, Ralph Abernathy đã kể cho tôi nghe về cách mà mọi người đã ùa ra để bị bắt vào ngày hôm trước. Gần như không một ai hoảng sợ cả. Không ai cố tìm cách né tránh để không bị bắt. Nhiều người da đen đã tự động tìm đến văn phòng cảnh sát trưởng để xem tên mình có trong danh sách không, và thậm chí có người còn thất vọng khi không tìm thấy tên mình. Những con người từng mang đầy nỗi sợ trong lòng nay đã thay đổi. Những người trước đây đã run sợ trước luật pháp giờ lại trở nên tự hào khi bị bắt bớ vì cuộc đấu tranh cho tự do. Với tinh thần đoàn kết đó luôn ở bên cạnh mình, tôi vững bước tiến về khu phía sau nhà giam. Sau khi nhận được một con số, chụp hình và lăn vân tay, một thành viên của nhà thờ đóng tiền bảo lãnh cho tôi và tôi được ra về.
Phiên tòa sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng Ba. Bạn bè từ khắp mọi miền đất nước đã đến Montgomery để sát cánh cùng chúng tôi trong suốt quá trình diễn biến. Các mục sư từ những nơi xa xôi như phía bắc New York đã có mặt. Dân biểu người da đen Charles C. Diggs (D-Mich.) đã luôn túc trực và sẵn sàng giúp đỡ. Rất nhiều phóng viên đại diện cho các hãng tin tức Mỹ, Ấn Độ, Pháp và Anh đã có mặt để tường thuật lại phiên tòa. Hơn năm trăm người da đen đã đứng trong sảnh và trên các con đường xung quanh khu tòa án nhỏ bé. Nhiều người trong số họ đeo thánh giá trên ve áo của mình với dòng chữ “Thưa Cha, xin tha tội họ”.
Thẩm phán Eugene Carter yêu cầu phiên tòa trật tự. Sau khi tiến hành các thủ tục, tôi được triệu tập với vai trò là bị cáo đầu tiên. Trong bốn ngày ngồi tại tòa, tôi lắng nghe những tranh luận và chờ đợi một phán quyết. William F. Thetford, Công tố viên của bang, đã lập luận để chứng minh rằng tôi đã bất tuân luật pháp qua việc tổ chức một cuộc tẩy chay trái luật. Những luật sư bào chữa - Arthur Shores, Peter Hall, Ozell Billingsley, Fred Gray, Charles Langford, và Robert Carter - đưa ra các luận cứ cho thấy bằng chứng của phía Công tố viên là không đủ để kết luận tôi đã vi phạm luật chống hoạt động tẩy chay của bang Alabama. Ngay cả khi chính quyền bang có chỉ ra được hoạt động đó, họ khẳng định, cũng không có một bằng chứng nào cho thấy những người da đen hành động mà không có nguyên nhân chính đáng hay lý do hợp pháp.
Tổng cộng có hai mươi tám nhân chứng được cho gọi để làm chứng cho bị cáo. Tôi lắng nghe họ với một cảm xúc trộn lẫn nỗi buồn và sự thán phục khi những con người giản dị này - phần lớn đều mù chữ - ngồi tại ghế nhân chứng không một chút sợ hãi và kể câu chuyện của họ. Họ nhìn thẳng vào mắt Công tố viên và Thẩm phán với sự dũng cảm và tự trọng, cho dù hai người kia không nhìn đáp lại.
Có lẽ lời khai cảm động nhất là của bà Stella Brooks. Trước đây, chồng bà đã lên một chiếc xe buýt. Sau khi trả tiền vé xe, ông bị người tài xế ra lệnh phải xuống và bước lên xe trở lại bằng cửa sau. Ông nhìn qua chiếc xe buýt đông đúc và thấy rằng không còn chỗ ở phía sau xe nữa, ông trả lời rằng mình sẽ xuống xe và đi bộ nếu người tài xế trả lại đồng mười xu cho mình. Người tài xế từ chối, một cuộc cãi vã xảy ra, và người tài xế đã gọi cảnh sát. Viên cảnh sát tới nơi, cưỡng bức Brooks, ông vẫn không chịu xuống xe trừ khi ông được trả lại tiền. Viên cảnh sát đã bắn ông. Nó xảy ra nhanh đến mức tất cả mọi người đều bàng hoàng. Brooks đã chết vì vết thương đó.
Và lời khai của bà Martha Walker, kể lại ngày bà đang dắt người chồng mù lòa của mình xuống xe buýt. Bà đã bước xuống xe và trong khi chồng bà đang bước theo thì người tài xế đã đóng sầm cửa và bắt đầu cho xe lăn bánh. Chân của ông Walker bị vướng lại. Mặc dù bà Walker la lên, người tài xế vẫn không dừng lại, và chồng bà đã bị kéo lê một đoạn trước khi ông có thể thoát ra. Bà đã phản ánh về tai nạn nhưng Công ty xe buýt chẳng làm gì cả.
Những câu chuyện cứ thế tiếp tục. Bà Sadie Brooks kể lại mình đã nghe chuyện một hành khách người da đen bị đe dọa khi ông ta không đưa đúng tiền vé. “Người tài xế đã rút ra một khẩu súng ngắn và ép người đàn ông ra khỏi xe”. Còn Bà Della Perkins cho biết mình đã bị một tài xế gọi là một “con vượn đen xấu xí”.
Tôi đã rất vui và không thể quên khi bà Georgia Gilmore - một người phụ nữ mù chữ nhưng thông thái lạ lùng - kể câu chuyện về một người tài xế đã buộc bà phải xuống xe sau khi đã trả tiền vé và bước lên xe trở lại bằng cửa sau, nhưng rồi lại lái xe đi trước khi bà bước lên được xe. Lúc kể xong, Bà quay sang nhìn Thẩm phán Carter và nói: “Khi đếm tiền, họ đâu có phân biệt giữa tiền của người da đen và tiền của người da trắng”.
Vào trưa ngày thứ Năm, 22 tháng Ba, khi cả hai bên đã nói xong, mọi ánh mắt đều hướng về Thẩm phán Carter, chỉ lặng dừng một chút, ông đưa ra phán quyết: “Tôi tuyên bố bị cáo có tội vì đã vi phạm Luật Chống hoạt động tẩy chay của bang”. Hình phạt là 500 đô và tiền án phí, hoặc 386 ngày lao động công ích tại Địa hạt của Montgomery. Sau đó Thẩm phán Carter tuyên bố rằng ông đưa ra mức hình phạt nhẹ nhất bởi vì những việc tôi đã làm để ngăn cản bạo lực xảy ra. Đối với những người da đen khác bị truy tố cùng tội danh - con số này đã giảm xuống còn 89 người - Thẩm phán Carter đã cho hoãn các phiên tòa này cho đến khi kháng cáo cuối cùng của tôi về vụ án được giải quyết.
Trong vòng vài phút, nhiều người bạn đã bước lên để ký bảo lãnh cho tôi, và những luật sư bào chữa đã thông báo với Thẩm phán rằng họ sẽ kháng cáo quyết định này. Nhiều người đứng xung quanh phòng xét xử đã rơi nước mắt. Những người khác im lặng cúi đầu ra về. Tôi theo dõi phiên tòa cho đến lúc kết thúc, cảm thông với Thẩm phán Carter và tình thế khó xử của ông. Để kết án tôi ông sẽ phải đối mặt với sự lên án của dư luận trong nước và quốc tế; để tha bổng cho tôi ông sẽ phải đối mặt với sự lên án của cộng đồng tại địa phương và những người cử tri đã tín nhiệm ông. Trong suốt quá trình xét xử ông đã đối xử với tôi rất lịch thiệp, và ông đã đưa ra một phán quyết mà có lẽ ông cho là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề. Sau khi phiên tòa kết thúc, ông đã rời khỏi thành phố vì “nhu cầu nghỉ ngơi”.
Tôi rời khỏi phòng xét xử với vợ mình bên cạnh và một nhóm bạn theo sau. Trước tòa án, cả trăm người da đen lẫn da trắng, những người quay phim của đài truyền hình và thợ chụp ảnh, đang chờ đợi. Khi tôi vẫy tay, họ hét lên: “Chúa phù hộ anh”, và bắt đầu cất tiếng hát “Chúng tôi sẽ không bao giờ đi xe buýt”.
Thông thường, một người bước ra khỏi phòng xét xử với một phán quyết có tội sẽ mang một khuôn mặt ảm đạm. Nhưng tôi đã ra về với một nụ cười. Tôi biết mình đã là một tên tội phạm bị kết án, nhưng tôi tự hào về tội mình đã phạm. Đó là tham gia với cộng đồng của mình vào một cuộc phạn kháng phi bạo lực chống lại bất công. Đó là tìm cách khơi dậy trong người dân của tôi nhân phẩm và lòng tự trọng. Đó là khát khao đòi lại cho người dân của tôi những quyền bất khả xâm phạm về mạng sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Và hơn hết chính là tội tìm cách thuyết phục cộng đồng của mình rằng bất hợp tác với cái xấu cũng là một hành động chính nghĩa không kém gì hợp tác với cái tốt.
Vậy là một nỗ lực nữa để ngăn chặn cuộc phản kháng đã kết thúc. Thay vì chặn đứng phong trào, kế sách của đối phương chỉ làm cho phong trào càng lớn mạnh thêm, và kéo chúng tôi xích lại gần nhau hơn. Điều mà những người ở phe đối lập không nhìn thấy được chính là những đau khổ mà chúng tôi phải nếm trải đã kết nối chúng tôi lại với nhau bởi một sợi dây định mệnh. Điều gì xảy đến với một người sẽ xảy đến với tất cả.
Vậy là vào buổi trưa đầy mây tháng Ba đó, Thẩm phán Carter đã kết án nhiều người hơn là chỉ một mình Martin Luther King. Jr., trong vụ án số 7399, ông đã kết án tất cả người da đen tại Montgomery. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi mà phong trào không thể dừng lại. Nó đã quá lớn mạnh không gì có thể dập tắt được. Từng mắt xích của nó được kết lại chặt chẽ như một sợi xích vững chắc. Đó chính là sức mạnh đoàn kết tuyệt vời. Bất kể ở đâu xuất hiện Sự đoàn kết thực thụ, mọi cố gắng nhằm bẻ gãy nó chỉ có thể làm cho nó mạnh mẽ hơn nữa mà thôi. Đây chính là những gì mà phía đối phương đã không hiểu được.
Những thành viên của phe đối lập đã công nhận là họ không hiểu những người da đen, những người mà họ đang đối đầu. Họ tưởng rằng mình đang đấu với một nhóm người có thể bị dụ dỗ hoặc ép buộc làm bất cứ điều gì mà người da trắng muốn. Họ không biết rằng mình đang đứng trước những người da đen đã được giải phóng khỏi nỗi sợ hãi, do đó mà mỗi động thái của họ đều trở nên sai lầm. Đó là điều không thể tránh khỏi, bởi vì những phương pháp họ sử dụng là dành cho những “người da đen xưa cũ”, còn bây giờ họ đang đối đầu với những “người da đen đổi mới”.