← Quay lại trang sách

Chương XI Đích đến tiếp theo của chúng ta là gì?

Cuộc tranh đấu XE BUÝT ở Thành phố Montgomery thuộc tiểu bang Alabama đã đi vào lịch sử. Giờ đây, bên cạnh nhiệm vụ chuyên chở hành khách, những chuyến xe buýt không phân biệt màu da hàng ngày lăn bánh trong Thành phố còn mang biểu tượng sức mạnh của quần chúng. Sự hòa thuận giữa đại đa số hành khách trên xe là minh chứng cho thiện chí có sẵn trong mỗi con người, và là tín hiệu của hòa bình ngay trong lòng một xã hội đang vật lộn với nạn phân biệt chủng tộc. Thỉnh thoảng những bất hòa giữa các hành khách trên xe buýt như một lời nhắc nhở rằng những khía cạnh khác trong đời sống của người dân da đen ở Montgomery vẫn còn phải chịu sự phân biệt chủng tộc, và tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát những cuộc bạo động tập thể và xung đột cá nhân. Quả thực, nạn phân biệt chủng tộc vẫn đang còn hiện hữu trên khắp miền Nam.

Vậy thì, đích đến tiếp theo của chúng ta là gì? Vì chuyện xảy ra ở Montgomery mới chỉ là triệu chứng của một vấn đề lớn hơn thuộc quy mô quốc gia. Chúng ta sẽ làm gì tiếp theo không chỉ ở Montgomery mà trên toàn miền Nam và khắp cả nước? Những lực lượng nào đã hình thành từ nhiều năm qua và đến bây giờ đủ khả năng để gây ra cuộc khủng hoảng chủng tộc hiện nay? Cuộc chiến này sẽ kết thúc như thế nào? Liệu rằng chúng ta có sẽ rơi vào ngõ cụt của những mâu thuẫn chính trị và xã hội? Hay chúng ta có đủ các nguồn lực sáng tạo để đạt tới lý tưởng về tình anh em và một đời sống hòa hợp?

Trong nửa thế kỷ qua đã có những thay đổi cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của Cộng đồng người Mỹ Da Đen. Những biến động xã hội từ hai cuộc Chiến tranh thế giới, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế năm 1930 (Great Depression) và sự sử dụng ô tô ngày càng phổ biến giúp những người Mỹ da đen không còn bị cô lập trong các nông trường hẻo lánh nữa.

Nông nghiệp sút giảm, trong khi công nghiệp lại phát triển không ngừng đã thu hút rất đông những người da đen dịch chuyển đến các vùng đô thị đông đúc, và kinh tế của họ cũng được cải thiện. Việc tiếp cận với những thay đổi này đã mở rộng tư duy và cơ hội phát triển cho giáo dục. Tất cả những yếu tố này cộng hưởng với nhau đã giúp người da đen có một cái nhìn mới mẻ về chính họ. Kinh nghiệm sống phong phú làm suy nghĩ của họ được mở mang hơn. Họ ý thức được rằng mình là một phần tử trong xã hội mà mọi người đều bình đẳng, và do đó, họ đáng được nhận những quyền và lợi ích tương xứng với trách nhiệm của mình. Từng bị mặc cảm tự ti về sự thấp kém - là hậu quả truyền nối từ chế độ nô lệ và phân biệt đối xử, giờ đây, những người da đen có tác nhân để “định nghĩa lại” chính mình. Họ dần cảm nhận được giá trị của bản thân. Tôn giáo giúp họ hiểu rằng, Thượng Đế yêu thương tất cả những đứa con của Ngài, và điều quan trọng của một con người không nằm ở những đặc điểm riêng, mà là bản chất - nghĩa là không phải màu da hay sợi tóc, mà chính là những giá trị vĩnh cửu của một con người đối với Thượng Đế.

Lòng tự trọng ngày càng tăng đã thúc đẩy những người da đen đấu tranh và hy sinh cho đến khi giành được đầy đủ quyền công dân và được đối xử công bằng. Đây là ý nghĩa thực sự của câu chuyện Montgomery. Sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của phong trào tẩy chay xe buýt ở Montgomery, nếu không biết rằng ở miền Nam đã xuất hiện một thế hệ người da đen mới nhận thức rõ về phẩm giá và số phận của bản thân mình.

Sự thay đổi suy nghĩ của những người da đen như một hồi chuông thức tỉnh hàng triệu người Mỹ da trắng quan tâm đến nạn phân biệt chủng tộc. Kể từ khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ra đời, nước Mỹ đã bộc lộ sự không nhất quán trong vấn đề chủng tộc. Trong lòng đất nước này luôn có sự giằng xé giữa hai thái cực - một bên là niềm tự hào khi “vỗ ngực xưng tên” là một nền dân chủ; còn một bên, buồn thay, lại là những hành động hoàn toàn trái ngược với mục tiêu cao cả đó. Những biểu hiện của sự phân biệt chủng tộc, như chế độ nô lệ, luôn phải đối đầu với những lý tưởng của chế độ dân chủ và Kitô giáo. Quả là một nghịch lý lạ lùng, khi nạn phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử lại tồn tại ngay trong lòng nước Mỹ - một quốc gia được thành lập dựa trên nguyên tắc tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Mâu thuẫn này đã khiến những người da trắng ở cả miền Bắc và miền Nam cảm thấy cắn rứt lương tâm, và nhiều người trong số họ đồng ý rằng sự phân biệt chủng tộc về bản chất là xấu xa.

Đỉnh điểm của quá trình này là khi Tòa án Tối cao ban hành Luật chống phân biệt chủng tộc tại các trường công lập. Đối với tất cả những người dân có thiện chí, ngày 17 tháng 5 năm 1954 là một cột mốc đầy phấn khởi, đánh dấu sự kết thúc của những đêm dài chìm trong sự hợp pháp hóa những hành vi phân biệt chủng tộc. Bằng những từ ngữ rõ ràng, Tòa án đã khẳng định các hình thức của thuyết “phân biệt, nhưng bình đẳng” (“separate but equal”) bản chất là không bình đẳng, và việc phân biệt đối xử với một đứa trẻ dựa trên chủng tộc là tước đi của chúng quyền được luật pháp bảo vệ. Phán quyết này đã mang đến hy vọng cho hàng triệu người da đen đang bị tước đi những quyền cơ bản nhất - những con người trước kia chỉ dám mơ ước về tự do. Những sự kiện này đã góp phần nâng cao ý thức về phẩm giá của những người da đen và khiến họ càng thêm quyết tâm đấu tranh giành công lý.

Động lực thúc đẩy những người Mỹ gốc Phi quyết tâm giành được tự do và thoát khỏi mọi hình thức áp bức bắt nguồn từ khát vọng chung của mọi dân tộc đang chịu áp bức nô dịch trên toàn thế giới. Tình trạng bất mãn sục sôi của người dân ở châu Á và châu Phi đã tạo nên làn sóng đòi hỏi tự do và phẩm giá của những con người từ lâu đã là nạn nhân của Chủ nghĩa thực dân và Chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, về mặt ý nghĩa, cuộc khủng hoảng chủng tộc ở Mỹ là một phần của cuộc khủng hoảng lớn hơn trên toàn thế giới.

Dù rất nhiều những thay đổi đã góp phần tạo nên sự biến chuyển lớn trong nhận thức về phẩm giá của một số người da đen, nhưng chúng cũng không phải là nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng hiện tại. Nếu tất cả mọi người thật lòng chấp nhận những thay đổi mang tính lịch sử này thì khủng hoảng sẽ không xảy ra. Cuộc khủng hoảng đã trở nên nghiêm trọng khi cuộc đấu tranh vì mục tiêu công bằng cho người da đen ở vào cảnh quẫn bách gặp phải sự chống trả mạnh mẽ và ngoan cố.

Trật tự xã hội mới dựa trên nguyên tắc bình đẳng dân chủ đã tuyên chiến với trật tự cũ theo chủ nghĩa gia trưởng và lệ thuộc. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng không phải do những nhân tố bên ngoài kích động như tổ chức Hiệp hội Quốc Gia Vì Sự Tiến Bộ Của Người Da Màu (NAACP), những người phản kháng Montgomery hay thậm chí là Tòa án Tối cao, mà ngược lại nó ngày càng trở nên tồi tệ là do các nguyên tắc ưu việt nhất của nền dân chủ Mỹ không được thực thi một cách triệt để trong suốt gần hai thế kỷ. Đến khi các nguyên tắc này bắt đầu tự hoàn thiện thì gặp phải sự phản kháng tàn bạo của các lực lượng luôn tìm cách hạn chế và kìm hãm sự lớn mạnh của tự do.

Sự chống đối có xu hướng gia tăng đến mức đáng lo ngại. Nhiều bang đã phản ứng bằng những sự thách thức công khai. Trong sảnh đường của các viện lập pháp ở miền Nam vẫn inh ỏi những từ như “sự can thiệp vào pháp luật” (“interposition”) và “vô hiệu hóa” (“nullihcation”). Nhiều quan chức nhà nước sử dụng quyền hành pháp để thách thức luật pháp về đất đai. Qua các hành vi vô trách nhiệm, các tuyên bố đầy kích động và sự phát tán những tin tức xuyên tạc chỉ mang một nửa sự thật, họ đã thành công trong việc khơi dậy nỗi sợ hãi không bình thường, ác cảm và bệnh hoạn trong tâm trí của một số người da trắng tư chất thấp kém và thất học, khiến cho những người này luôn có trạng thái phấn khích và mất trí đến mức có những hành vi xấu xa và tàn bạo mà không một người bình thường nào dám làm.

Mức độ nghiêm trọng của các vụ bạo động chống lại trật tự xã hội mới thể hiện ngay trong chính sự hồi sinh của Ku Klux Klan. Đây là một tổ chức ủng hộ tư tưởng duy trì sự kỳ thị chủng tộc bằng mọi giá. Tổ chức này sử dụng những cách thức hoạt động tàn bạo và man rợ. Thành viên của tổ chức thường là những nhóm người ở tầng lớp thấp, thiệt thòi về quyền lợi, và những người nhìn thấy mối đe dọa về chính trị và kinh tế trước những thay đổi vị thế của người da đen. Mặc dù Klan là tổ chức không có quyền lực chính trị và bị công khai lên án từ mọi phía, nhưng đây vẫn là một lực lượng nguy hiểm khiến sự phân biệt chủng tộc và mâu thuẫn tôn giáo trở nên tồi tệ hơn. Bởi vì trong lịch sử tồn tại của nó, ở đâu có Klan, ở đó có nỗi khiếp sợ bạo lực.

Sau đó là sự xuất hiện của Hội đồng Công Dân Da Trắng (White Citizens’ Councils). Hội đồng này tuyển mộ những thành viên có kinh tế và vị trí xã hội cao hơn so với Klan, có thể xem đó là một lớp hào quang mờ ảo giúp họ nhận được sự kính nể hơn. Nhưng cũng giống như Klan, họ cổ xúy cho việc duy trì phân biệt chủng tộc bất chấp luật pháp. Vũ khí của họ là sự đe dọa, trừng phạt và tẩy chay đều nhằm trực tiếp chống lại tất cả những người da đen và bất kỳ người da trắng nào đứng ra ủng hộ công lý.

Họ đòi hỏi sự thích ứng tuyệt đối từ những người da trắng, và sự quy phục triệt để từ những người da đen. Các Hội đồng Công Dân này thường đưa ra những quan điểm hết sức đạo đức giả, rằng họ ghê tởm bạo lực, nhưng chính sự coi thường luật pháp, các hành động phi đạo đức và những lời đả kích công khai cay độc của họ lại là môi trường hoàn hảo để bạo lực lên ngôi.

Như một kết quả tất yếu từ những hoạt động cực đoan của Hội đồng Công Dân Da Trắng, hầu hết những người da trắng ôn hòa ở miền Nam không còn thoải mái thảo luận về các vấn đề liên quan đến sự xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc ở nơi công cộng, vì sợ bị trả thù kinh tế và bị xã hội tẩy chay. Vì thế, những kênh liên lạc giao tiếp đã từng tồn tại giữa những người da trắng và người da đen giờ đã chấm dứt hoạt động.

Cuộc khủng hoảng trong quan hệ chủng tộc hiện nay có những điểm đặc trưng dễ nhận thấy của bất kỳ giai đoạn chuyển đổi xã hội nào. Những người chủ trương duy trì tình hình hiện tại của xã hội công kích và chống lại những cá nhân hoặc tổ chức mà họ cho rằng chịu trách nhiệm chính về sự xuất hiện của trật tự xã hội mới. Thông thường, sự công kích đe dọa này sẽ phát triển thành nguyên nhân chính của khủng hoảng.

Trong quá trình chuyển đổi từ chế độ nô lệ sang giải phóng sự kìm kẹp, Abraham Lincoln đã bị ám sát. Trong quá trình chuyển đổi từ sự phân biệt sang xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong nhà trường ngày hôm nay, Tòa án Tối cao bị chỉ trích và NAACP bị vu khống và phải chịu sự trả thù ngoài vòng pháp luật.

Như trong các cuộc khủng hoảng xã hội khác, những người bảo vệ thực trạng ở miền Nam cho rằng họ đang dần tự giải quyết vấn đề của mình cho đến khi họ gặp phải áp lực bên ngoài. Lời khiếu nại quen thuộc ở miền Nam lúc này là Phán quyết của Tòa án Tối cao về giáo dục đã xóa bỏ ranh giới trong quan hệ chủng tộc, nhưng những người thuộc các chủng tộc khác nhau từ lâu đã sống hòa bình rồi bây giờ lại chống nhau. Tuy nhiên, đây là một giải thích sai lầm về những gì đang diễn ra. Khi một người bị trị tiến tới tự do, họ không tạo ra hố chia tách mà chỉ nói lên sự thật này khi những kẻ biện hộ cho trật tự cũ đã tìm cách che giấu. Phong trào đấu tranh cho sự đồng đẳng hóa không hề tạo ra sự phân tách ở Hoa Kỳ trong lúc này. Sự phân biệt sâu sắc đã thực sự tồn tại đang được bộc lộ qua sự chống đối lại việc hợp nhất, mà phái ôn hòa không nhìn ra bản chất thật của nó và làm sáng tỏ.

Trong thời kỳ khủng hoảng, những kẻ cực đoan đã liều lĩnh ra sức tác động vào suy nghĩ của các lực lượng tự do trong phần lớn giới lãnh đạo. Ví dụ, trong quá trình chuyển đổi hiện nay, người da trắng ở miền Nam cố gắng thuyết phục người da trắng miền Bắc rằng người da đen là tội phạm bẩm sinh. Họ tìm kiếm các trường hợp phạm tội của người da đen và tội phạm yị thành niên ở các cộng đồng phía Bắc rồi nói: “Mọi người thấy đấy, người da đen toàn đem phiền phức đến. Họ đi đến đâu là gây rắc rối đến đó”. Lời buộc tội được đưa ra mà không dựa vào bản chất thực sự của tình huống. Các vấn đề môi trường sống của tội phạm được giải thích như là bằng chứng cho việc phạm pháp của người da đen. Các cuộc khủng hoảng phát sinh tại các trường học phía Bắc cũng được xem là bằng chứng cho thấy người da đen luôn là kẻ phạm pháp. Những kẻ cực đoan không nhận ra rằng những vấn đề học đường này là dấu hiệu của sự xáo trộn đô thị hơn là biểu hiện của chủng tộc với tư chất thấp kém. Tội ác và phạm lỗi không phải do chủng tộc; nghèo đói và thiếu hiểu biết mới sản sinh tội phạm dù là ở bất cứ nhóm chủng tộc nào.

Trong nỗ lực gây ảnh hưởng đến suy nghĩ của những người tự do miền Bắc và miền Nam, những người chủ trương phân biệt chủng tộc thường xảo quyệt và khôn khéo. Những kẻ này dựa vào Kinh Thánh để lý luận một cách lươn lẹo về tính hợp lệ của sự phân biệt và về chủng tộc thấp kém nhìn theo khía cạnh văn hóa và xã hội học. Họ nói rằng người da đen chưa đủ yếu tố để được đồng đẳng hóa; trong các trường học, sự thua sút về học vấn và văn hóa của người da đen sẽ kéo chủng tộc da trắng xuống. Họ chẳng bao giờ đủ trung thực để thừa nhận rằng sự tụt hậu về học hành và văn hóa trong cộng đồng người da đen là kết quả của sự chia tách và phân biệt đối xử. Cách tốt nhất để giải quyết bất kỳ vấn để nào là loại bỏ nguyên nhân của nó. Cả về mặt lý lẽ và xã hội học, đều không đủ căn cứ nếu sử dụng hậu quả bi thảm của sự phân biệt để biện bạch cho việc duy trì nó.

Tất cả những phương thức hoạt động có chủ đích này - sự bất chấp của các cơ quan lập pháp miền Nam, hoạt động của các Tổ chức người Da Trắng thượng đẳng và những luận điệu xuyên tạc nghe có vẻ hợp lý của những kẻ phân biệt chủng tộc - đã hợp lại thành sự chống đối quyết liệt. Sự chống đối này bắt nguồn từ nỗ lực cuối cùng của người da trắng ở miền Nam để duy trì một hệ thống mà con người bị đối xử như dưới thời đồn điền phong kiến. Nhưng hệ thống này không thể tồn tại khi mà cuộc sống được đô thị hóa và công nghiệp phát triển. Đây là những nguyên nhân sâu xa nhất của cuộc khủng hoảng hiện nay.

Trường học của miền Nam hiện là tâm bão. Tại đây, phe ủng hộ điều tốt nhất cho dân tộc đã bất lực. Một năm sau khi Tòa án Tối cao tuyên bố sự phân biệt trong học đường là trái Hiến pháp, một nghị định nêu cụ thể việc đồng đẳng hóa nên có “tiến trình cẩn trọng” được ban xuống. Mặc dù Tòa án không đưa ra thời hạn kết thúc tiến trình này, nhưng ấn định thời điểm bắt đầu. Rõ ràng Tòa án đã chọn giải pháp hợp lý này với mong muốn các lực lượng thiện chí sẽ thực hiện ngay và chuẩn bị cho cộng đồng một sự chuyển tiếp suôn sẻ và hòa bình.

Nhưng các lực lượng thiện chí đã thất bại trong việc thực hiện và hoàn tất. Văn phòng Tổng thông đã im lặng một cách đáng sợ, không hó hé một lời nào dù là không chính thức với cương vị của mình để tư vấn cho quốc gia về khía cạnh đạo đức của sự hợp nhất và cần thiết phải tuân thủ luật pháp, để tránh cho miền Nam khỏi sự hỗn loạn và khủng bố như hiện nay. Các lực lượng công lý khác cũng không hành động. Thực tế là ngay sau khi quyết định đầu tiên được đưa ra, các lãnh đạo nhà thờ, lãnh đạo công nhân và lãnh đạo các tổ chức phúc lợi xã hội hàng đầu đã tuyên bố tán thành quyết định này, và nhiều nghị quyết hỗ trợ đã được các tổ chức của họ thông qua. Nhưng hầu như không một tổ chức nào tự để ra một chương trình hành động để các thành viên có thể tích cực làm việc mang lại sự chuyển đổi hòa bình. Họ cũng không xây dựng một kế hoạch nào để các cá nhân trong cộng đồng miền Nam - những người sẵn sàng làm việc cho sự xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc - có thể nhận được sự hỗ trợ của tổ chức khi đối mặt với sự trả thù về kinh tế và bạo lực thể xác.

Sự vận động cho việc đồng đẳng hóa học đường của phe đạo đức bị thất bại đã tạo cơ hội cho phe đối nghịch tổ chức và kết tụ sự chống đối của họ. Trong khi những người tốt im lặng và tự bằng lòng, thì những người lầm đường đã hành động. Nếu mỗi nhà thờ và giáo đường xây dựng một chương trình hành động; nếu mọi tổ chức phúc lợi xã hội và công dân, mọi tổ chức lao động và tổ chức giáo dục đưa ra các kế hoạch cụ thể để thực hiện các nghị quyết chính đáng của họ; nếu báo chí, đài phát thanh và truyền hình sử dụng các công cụ mạnh mẽ của họ theo hướng giáo dục và nâng cao nhận thức người dân về vấn đề này; nếu Tổng thống và Quốc hội thể hiện lập trường một cách thẳng thắn; và nếu tất cả những điều trên đã xảy ra thì quân đội liên bang có thể đã không bị buộc phải cuốc bộ trên hành lang của trường Trung Học.

Song vẫn chưa quá muộn để hành động. Mỗi cuộc khủng hoảng đều có cả những hiểm họa và cơ hội của nó. Nó có thể báo hiệu sự cứu rỗi hoặc diệt vong. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, nước Mỹ chỉ có thể đạt được công lý chủng tộc hoặc chứng rối loạn xã hội tột cùng dẫn đến sụp đổ như sự tự sát mà thôi. Lý tưởng về một nền dân chủ, tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người sẽ thành hiện thực - hoặc cả nhân loại sẽ chia sẻ kết cục tận thế về mặt xã hội và tinh thần. Nói tóm lại, cuộc khủng hoảng này có thể đem lại một nền dân chủ mơ ước hoặc là lễ khải hoàn cho chủ nghĩa phát xít; cho sự tiến lên hoặc thụt lùi của xã hội. Chúng ta phải chọn hoặc là con đường của tình anh em cao quý, hoặc là con đường vô nhân tính với đồng loại.

Lịch sử đã giao phó cho thế hệ của chúng ta một sứ mệnh cực kỳ quan trọng - là hoàn thành quá trình dân chủ hóa mà nó đã diễn tiến quá chậm chạp trên đất nước này. Đó là thứ vũ khí mạnh nhất của chúng ta để thế giới tôn trọng và noi theo. Cách chúng ta ứng phó với tình thế quan trọng này sẽ thể hiện đạo đức của mỗi cá nhân chúng ta, nền văn hóa của một vùng lãnh thổ, nền chính trị của một quốc gia và uy tín của chúng ta như một nhà lãnh đạo của thế giới tự do. Tương lai của nước Mỹ phụ thuộc vào giải pháp cho cuộc khủng hoảng hiện tại. Khuôn mẫu của thế giới ngày nay không cho phép ta ngập ngừng và láng phí thời gian của tiến trình dân chủ hóa chậm chạp. Hoa Kỳ không thể hy vọng đạt được sự tôn trọng của các quốc gia da màu quan trọng và đang phát triển trên thế giới nếu không khắc phục được các vấn đề chủng tộc tại quê nhà. Nếu nước Mỹ là một quốc gia hạng nhất, thì không thể có công dân hạng hai được.

Một giải pháp cho cuộc khủng hoảng hiện tại sẽ không diễn ra trừ khi tất cả mọi người cùng thực hiện nó. Sự tiến bộ của con người không phải tự nhiên mà có, nhưng nó tất yếu sẽ phải đến.

Ngay chỉ một cái nhìn hời hợt về lịch sử cũng có thể thấy rằng không có sự tiến bộ xã hội nào luẩn quẩn mãi trong những vòng xoay không có lối thoát. Mỗi bước tiến tới mục tiêu của công lý đòi hỏi sự đấu tranh, gian khổ và hy sinh; những nỗ lực không mệt mỏi và sự hưởng ứng tích cực của những con người nhiệt huyết. Không có nỗ lực bền bỉ, thời gian sẽ trở thành đồng minh của các lực lượng nổi dậy thiếu kỹ năng, là căn nguyên của đấu tranh tự phát đầy cảm tính và hủy diệt xã hội. Vậy nên, đây không phải là lúc để thờ ơ hoặc tự mãn. Đây là thời điểm để hành động mạnh mẽ và tích cực.

Nếu những điều nói ở trên chỉ là những lời sáo rỗng, giống như vô số bài phát biểu chính trị nghe rất kêu, thì đó là nỗi nhục nhã của những người tuyên bố đấu tranh chống lại chuyên chế mà không trung kiên. Những điều này phải được nói đi nói lại nhiều lần, bởi con người rất nhanh quên. Nhưng một khi đã nói, chúng phải đi cùng với một chương trình hành động cương quyết, nếu không chúng sẽ trở thành nơi ẩn náu cho những người ngại ngần hành động. Nếu nước Mỹ phản ứng một cách sáng tạo với cuộc khủng hoảng hiện nay, nhiều tổ chức và cơ quan phải vượt lên những lối mòn có tính hệ thống và bắt đầu tham gia tích cực vào việc thay đổi bộ mặt của quốc gia.

Đầu tiên, cần có sự lãnh đạo mạnh mẽ và tháo vát từ chính phủ Liên bang. Nếu các cơ quan hành pháp và lập pháp quan tâm đến việc bảo vệ quyền công dân của tất cả mọi người như Tòa án Liên bang, thì quá trình chuyển đổi từ một xã hội phân biệt và chia rẽ sang một xã hội hình đẳng và hợp nhất sẽ tiến xa hơn so với ngày nay. Thiếu thốn sự lãnh đạo tích cực từ Washington, không chỉ bởi một đảng chính trị, cả hai đảng lớn đã trễ nải trong việc phục vụ cho công lý. Nhiều thành viên Đảng Dân chủ đã đi ngược lại bằng các tập tục phi dân chủ của đảng Dân chủ cực hữu hoạt động ở miền Nam (Dixiecrat) trước đây. Còn Đảng Cộng hòa đã phản bội bằng cách quy phục theo hành động đạo đức giả của phái Cánh Hữu miền Bắc.

Mặc dù bộ máy tư pháp liên bang có vai trò quan trọng trong giai đoạn chuyển đổi căng thẳng này, nhưng các tòa án không thể làm việc đơn độc. Tòa án có thể giải thích rõ ràng các nguyên tắc hiến pháp và loại bỏ cơ sở pháp lý của sự phân biệt, nhưng họ không thể viết luật, bổ nhiệm quản trị viên hoặc thực thi công lý ở cấp địa phương.

Chính quyền ở cấp tiểu bang và địa phương có thẩm quyền để thực thi công lý nếu họ muốn, nhưng các bang miền Nam đã xác định rõ chính sách của họ. Quyền hạn chính trị của Hoa Kỳ trên thực tế, được cho là bao gồm quyền phế truất nếu thất trách và làm phản cảm, thậm chí thay đổi Hiến Pháp, Các Tu chính Án và các giải thích về luật pháp. Vậy nên quyền lực và trách nhiệm mặc định nằm trong tay của Chính phủ Liên bang. Việc chấp nhận thử thách hay không, hoàn toàn tùy thuộc vào các nhánh quyền lực trong Chính quyền Trung ương.

Tuy nhiên, hành động của chính phủ không phải là toàn bộ câu trả lời cho cuộc khủng hoảng hiện nay, nhưng nó cũng có vai trò quan trọng. Đạo đức không thể luật pháp hóa, mà chỉ có thể giúp điều chỉnh hành vi của con người. Luật pháp không thể khiến một người chủ thương yêu tôi, nhưng nó có thể khiến anh ta không từ chối thuê tôi chỉ vì màu da. Chúng ta phải nương nhờ vào tôn giáo và giáo dục để thay đổi những sai lầm của con tim và khối óc. Nhưng đợi đến khi trái tim con người hướng về chính nghĩa thì việc ép buộc một người phải chấp nhận sự bất công là phản đạo đức. Theo như kinh nghiệm của một số bang miền Bắc cho thấy, luật chống phân biệt đối xử có thể tạo nên biện pháp chế tài mạnh mẽ đối với loại phản đạo đức này.

Hơn thế nữa, tự bản thân luật pháp cũng có ý nghĩa giáo dục. Lời của Tòa án tối cao, của Quốc Hội, hay nội dung của Hiến pháp là những giảng viên hùng hồn. Thực tế, sẽ là sai lầm nếu nói lệnh của Tòa án Liên bang và các điều luật có hiệu lực thi hành ít có sự tác động đến phía Nam. Ví dụ sự xóa bỏ nạn phân biệt trong quân ngũ đã thực sự có những tác động to lớn khôn lường. Nghị định của Tòa án Liên bang đã thay đổi mô hình giao thông vận tải, lương bổng giáo viên, việc sử dụng các phương tiện giải trí và vô số những vấn đề khác. Với những hành động của Liên bang, sự thay đổi này dù người dân không muốn thì nó cũng dần trở thành thói quen.

Một nhóm khác đóng vai trò quan trọng trong cuộc khủng hoảng hiện tại là những người da trắng phe Tự do ở phía Bắc. Vấn đề chủng tộc mà ta phải đối đầu ở Mỹ không phải là vấn đề mang tính địa phương mà chính là vấn đề của quốc gia. Làm sao để quyền công dân của người da đen được tôn trọng ở bất kì đâu mà không làm giảm bớt những quyền lợi của mỗi công dân Mỹ khác. Sự bất công ở bất cứ một nơi nào cũng là mối đe dọa cho công lý ở khắp mọi nơi. Việc không tuân theo luật ở bang Alabama làm nền tảng của chính phủ thượng tôn pháp luật ở 47 bang còn lại bị lung lay. Thực tế chúng ta sống ở Hoa Kỳ có nghĩa là chúng ta bị ràng buộc trong một mối tương liên lẫn nhau không thể né tránh được. Vì vậy, không người Mỹ nào có thể thờ ơ về vấn nạn phân biệt chủng tộc. Đó là vấn đề mà tất cả mọi người sẽ phải đối diện khi bước ra khỏi nhà. Vấn đề chủng tộc ở Mỹ sẽ được giải quyết khi mọi người đều tự thấy đã nghiêm trọng đến mức độ mình phải đối mặt với nó. Dù anh đang sống ở miền Nam xa xôi hay vùng ngoại ô phía Bắc, việc phân biệt chủng tộc vẫn là vấn đề của anh, Đó là vấn đề của anh vì đó là vấn đề của toàn nước Mỹ.

Một chủ nghĩa tự do thực sự ở phía Bắc đang là một nhu cầu cấp bách và chủ nghĩa tự do đó phải tin sự hội nhập của cộng đồng nơi ấy cũng cấp bách như ở miền Nam xa xôi. Điều thứ nhất, cần đồng thuận rằng mục đích của việc hội nhập về mặt luật pháp và đạo đức là đúng; điều thứ hai,chính vì thế mà phải quyết tâm dấn thân cho lý tưởng hội nhập. Điều đầu là sự tán thành của trí tuệ. Điều sau là niềm tin thật sự. Đây là những tháng ngày đòi hỏi sự rèn luyện để có khả năng tương xứng với sứ mệnh. Chúng ta không còn thời gian để khua môi múa mép, đồng ý việc hội nhập mà không ủng hộ bằng hành động. Chúng ta phải bỏ cả cuộc đời ra để cống hiến.

Ngày nay trong quá nhiều cộng đồng phía Bắc có nhan nhản người theo chủ nghĩa tự do nửa vời cho nên chắc chắn sẽ thấy có rất nhiều phe phái nhưng chẳng ai cống hiến thật sự cho phe mình. Phân tích khách quan điều này là phản lại sự trung thành với cam kết. Một người theo chủ nghĩa tự do thực sự sẽ không bị lung lay bởi những tuyên truyền hay những lời quỷ quyệt như: “Hãy từ từ, bạn đang đẩy mọi thứ đi quá nhanh đấy”. Không phải tôi đang kêu gọi ngừng cảm thông và kiên nhẫn, nhưng không nên lấy sự cảm thông và kiên nhẫn làm cái cớ để lững lờ không dứt khoát. Nó là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt hành động của chúng ta, nhưng không phải chỉ cảm thông và kiên nhẫn mà không làm gì cả.

Trong giai đoạn chuyển đổi căng thẳng này người da trắng ôn hòa ở miền Nam giữ một vai trò quan trọng. Thật không may rằng, quyền lãnh đạo hiện nay đang nằm trong tay một nhóm người da trắng cực đoan hẹp hòi. Những người này giành được sự chú ý và quyền lực bằng cách gieo rắc các ý tưởng sai trái, khơi dậy lòng thù hận và những nỗi sợ hãi sâu thẳm nhất trong tâm trí con người. Nhưng tôi tin chắc rằng họ không đại diện cho cả miền Nam, mà chỉ một số nhỏ cố chấp.

Một điều rất dễ nhận thấy là miền Nam có nhiều ưu đãi tuyệt vời. Tài nguyên phong phú, cảnh sắc thiên nhiên thanh tú mỹ lệ và tình người ấm áp. Mặc dù được sở hữu những tài sản này, nó vẫn bị chậm phát triển bởi sự tàn phá làm cho cuộc sống của người da đen và một số người da trắng bị tụt hậu. Thật đáng thương cho người da trắng, phụ nữ và trẻ em đã chịu hậu quả của sự thiếu hiểu biết, sự tước đoạt, và sự nghèo đói. Đó là những bằng chứng cho thấy rằng một người bị tổn hại cả cộng đồng cũng bị tổn hại chung. Sự phân biệt đã bao trùm toàn bộ xã hội miền Nam, làm cho nền giáo dục và nền kinh tế đi sau những nơi khác trong nước.

Nhưng thực ra, miền Nam không phải là một khối thuần nhất, mà phân chia ít nhất thành ba vùng theo địa lý: có một miền Nam chịu đựng - gồm những bang Oklahoma, Kentucky, Kansas, Missouri, West Virginia, Delaware, một quận của Columbia; một miền Nam chờ đợi - Tennessee, Texas, Bắc Carolina, Arkansas, Florida; và một miền Nam phản kháng - Georgia, Alabama, Mississippi, Louisiana, Nam Carolina, Virginia.

Nếu xét về thái độ thì còn có thêm vài miền Nam nữa. Trong mỗi bang này có một số ít nơi để duy trì sự phân biệt, họ bất chấp và dùng đủ loại phương cách kể cả bạo hành về thể chất. Còn phần lớn thì mặc dù vẫn tin vào sự phân biệt do truyền thống và tập quán để lại, nhưng cũng biết tôn trọng pháp luật và các quy định. Vì thế, họ sẵn sàng tuân thủ luật pháp, không phải vì họ cảm thấy nó đúng, chỉ đơn giản vì nó là luật. Nhóm thứ ba, là một thiểu số cộng đồng đang đấu tranh hết sức can đảm và nhiệt huyết cho Luật đất đai. Những người này tin vào đạo đức cũng như Hiến pháp thời hội nhập. Tuy tiếng nói nhỏ nhoi của họ bị chìm đi trong sự thách thức quá lớn nhưng họ vẫn không bỏ cuộc.

Hơn nữa vẫn còn hàng triệu người da trắng miền Nam chưa cất lên tiếng nói, chưa có đường đi rõ ràng, chưa có những hành động dũng cảm. Những người này thường im lặng vì sợ hãi - sợ bị trả thù về kinh tế, xã hội và chính trị. Nhân danh Chúa, vì phẩm giá của con người và sự nghiệp dân chủ xin kêu gọi lòng can đảm của hàng triệu con người, để họ phải lên tiếng và bước ra lãnh đạo. Và còn miền Nam khác kêu gọi họ: miền Nam giàu bản sắc, miền Nam của hàng triệu người da đen đã xây dựng miền Nam nước Mỹ bằng máu và mồ hôi, những người khao khát tình anh em và sự tôn trọng, những người muốn chung tay với người da trắng đồng hương ở phía Nam để xây dựng một vùng đất tự do hơn, hạnh phúc hơn cho tất cả mọi người. Nếu bây giờ những người da trắng ôn hòa ở miền Nam không hành động, thì bi kịch lớn nhất được ghi vào lịch sử của thời kỳ chuyển đổi xã hội này không phải là tiếng kêu thảm thiết của những người bị tước đoạt, mà là sự im lặng đáng sợ của những người tự do. Thế hệ chúng ta sẽ hối tiếc không phải vì hành động và lời nói của những người dơ bẩn đang sống trong nghịch cảnh mà vì nỗi sợ và sự thờ ơ của những người hiểu biết, diện mạo sáng láng, sống trong no đủ.

Ai có thể dẫn dắt miền Nam ra khỏi vũng lầy của xã hội và kinh tế? Chỉ có thể là những người con của vùng đất này. Những người đã được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất màu mỡ và giàu có ấy; những người yêu quý nó vì đã từng được nó cưu mang nuôi dưỡng. Bằng tình yêu, sự kiên nhẫn, và thấu hiểu lẫn nhau họ có thể kêu gọi những người anh em của mình sống một cách cao thượng. Thời khắc này là một cơ hội tuyệt vời cho những người da trắng ôn hòa nếu như họ dám nói lên sự thật, tuân thủ luật pháp, và dấn thân dù phải chịu đau khổ cho những điều họ cho là đúng.

Hiện nay còn có một tổ chức nữa có thể tạo ra sự thay đổi hiệu quả, đó là phong trào lao động. Trong nhiều năm qua người da đen vẫn luôn là nạn nhân của sự bóc lột. Trước cuộc nội chiến, những người nô lệ làm việc dưới một chế độ không hề có quyền công dân hay bất kỳ bồi thường nào. Sau Cuộc Giải phóng xóa bỏ chế độ Nô lệ, người Mỹ da đen vẫn phải tiếp tục chịu đựng một nền kinh tế cổ hủ. Họ được trả tự do mà không có đất đai hay được pháp luật bảo vệ, bị ruồng bỏ, không có quyền lợi và chỉ nhận được những công việc nặng nhọc nhất. Ngay cả Chính phủ Liên bang cho họ tự do cũng không thực hiện bất kỳ chính sách dài hạn nào để đảm bảo kinh tế cho những người từng là nô lệ trước đây - ít nhất là quyền lợi gì đó xứng đáng liên quan đến mảnh đất của ông chủ cũ mà họ đã làm việc. Sự bóc lột người da màu vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ Tái kiến thiết Quốc gia và kéo dài cho tới ngày nay.

Công đoàn Lao động đóng vai trò to lớn trong việc mang quyền lợi công bằng đến cho người da đen. Các công đoàn lao động đấu tranh nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế cho các công dân Mỹ làm công hưởng lương. Vì người da màu không ai làm chủ hay làm quản lý trong các nhà máy, nên cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào đồng lương.

Ở Hoa Kỳ có 16.5 triệu thành viên của khoảng 150 công đoàn đáng tin cậy. Trong số đó, 142 công đoàn là tổ chức liên kết quốc gia và quốc tế của AFL-CIO (The American Federation of Labor and Congress of Industrial Organizations- Liên đoàn lao động Hoa Kỳ và Hiệp hội công nghiệp). Các công đoàn AFL-CIO có 1.3 triệu người da màu trong số 13.3 triệu thành viên, chỉ khi nào các tổ chức tôn giáo chung tay giúp đỡ cộng đồng người da màu thì số thành viên của người da màu mới được nâng lên. Lúc đó, người da màu mới có thể hy vọng sức mạnh của phong trào công đoàn Mỹ sẽ đảm bảo được quyền lợi cho họ - như tất cả các thành viên khác - về một chỗ đứng trong xã hội Mỹ. Họ, cùng với các công nhân khác, đã giành được điều này trong nỗ lực chung xây dựng các công đoàn dân chủ và tự do trên đất nước này.

Tình trạng kinh tế bấp bênh sẽ sẽ bóp nghẹt sự phát triển thể chất và văn hóa của những người bị ảnh hưởng. Không chỉ có hàng triệu cơ sở giáo dục và y tế chính quy mà đơn vị tổ chức căn bản nhất của xã hội - là gia đình - sẽ bị khổ sở, mục nát và yếu kém do nền kinh tế suy yếu. Khi mà một người da đen không được trả lương thỏa đáng, vợ anh ta phải đi làm để có đủ tiền nuôi những đứa con của mình. Lúc đó, người vợ không thể chăm sóc và dạy dỗ con cái trong tình thương yêu, che chở của người mẹ. Và thường những đứa con không được ai chăm sóc hoặc phải để người khác chăm sóc thiếu chu đáo, hoặc bị bỏ một mình cù bơ cù bất ở ngoài đường. Điều đó không chỉ xảy ra với người da màu mà nhiều gia đình người da trắng cũng ở trong tình trạng tương tự trong một xã hội đang xâu xé rối loạn. Có những người mẹ da màu không thể ở nhà trông con của mình vì phải đi làm công việc vú nuôi cho những người mẹ da trắng đi làm. Sự trớ trêu đó cho thấy cần một sự điều chỉnh trong tương lai.

Cả công nhân da trắng hay da màu đều bị hà hiếp. Đối với họ, mức sống cần được tăng lên tương ứng với nguồn tài nguyên quốc gia của chúng ta. Một sự phân biệt sáo rỗng của xã hội đã chia rẽ các chủng tộc. Người da trắng với đời sống kinh tế ảm đạm chấp nhận cái nghèo của mình bằng cách tự an ủi rằng, nếu không được tôn trọng hơn thì ít nhất về vị trí xã hội họ vẫn cao hơn người da đen. Chính vì niềm kiêu hãnh hão huyền có được từ câu chuyện thần thoại về chủng tộc này mà họ đã phải trả giá rất đắt bằng sự bất an, đói khát, thiếu hiểu biết và một tương lai vô vọng cho bản thân và con cái của mình.

Khi người da trắng và da màu có cùng chung một vấn đề thì họ thân thiết với nhau hơn. Những người công nhân này đều mong muốn có sự công bằng hơn về kết quả lao động trong các ngành công nghiệp và các trang trại. Cả hai đều cần có bảo hiểm thất nghiệp, lương hưu, sự bảo đảm về phúc lợi và an sinh. Các tổ chức phong trào lao động, mà đã đóng góp rất nhiều cho việc bảo đảm kinh tế và hạnh phúc của hàng triệu người, phải tập trung toàn lực rất mạnh mẽ để mang lại sự cải cách kinh tế cho người da trắng và da màu bằng cách kết nối họ lại với nhau trong một xã hội bình đẳng.

Chắc chắn phong trào lao động đã có những chuyển biến theo hướng này. Hầu như công đoàn lao động của mọi quốc gia và quốc tế đều có chính sách rõ ràng về nguyên tắc không phân biệt đối xử, và lãnh đạo của AFL-CIO ở Mỹ đã tuyên bố rất chân thành rằng, mục tiêu chính của việc loại bỏ nạn phân biệt chủng tộc không chỉ ở phong trào lao động Mỹ mà còn trên toàn xã hội Mỹ. Mặc dù lập trường là như vậy, nhưng một số công đoàn vẫn bị chi phối bởi nạn phân biệt chủng tộc, đã khiến tình hình kinh tế của người da màu sút kém. Người da màu bị cấm kết nạp ở một số công đoàn và bị từ chối khi tham gia đào tạo và giáo dục nghề nghiệp. Ở mọi miền của đất nước, các đoàn thể địa phương là một trở ngại rất ghê gớm cho người da màu khi đi tìm việc làm hoặc khi muốn thăng tiến trong công việc. Sự vận động của AFL-CIO ở phía Nam hầu như không có kết quả vì sự chống đối quá lớn của những người đầu não của tổ chức lao động, nhiều người trong số họ đã hoạt động trong Hội đồng Công Dân Da Trắng.

Những vấn đề tồn tại này trong tầng lớp lao động cho thấy những công việc để làm cho thay đổi vẫn còn phải tiếp tục. AFL-CIO phải sử dụng tất cả sức mạnh quyền hạn có trong tay để thúc ép mọi công đoàn địa phương phải tuân theo những nguyên tắc chung đã cam kết. Những người lãnh đạo sẽ thấy được công lao to lớn của công nhân trong cuộc đấu tranh giành quyền dân sự, nếu như thay vì dùng công sức chống người da màu hiện tại thì để phản đối bất công lao động. Các cuộc tấn công hiện nay vào tổ chức lao động do những hành vi sai trái của một số người bất lương không nên để làm cho chúng ta hiểu sai lệch về vai trò thiết yếu của phong trào lao động trong cuộc khủng hoảng hiện nay.

Nhà thờ cũng phải lãnh sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc khủng hoảng này. Nói cho cùng thì vấn đề phân biệt chủng tộc không phải là vấn đề chính trị mà là đạo đức. Thật vậy, như lời nhà kinh tế học Thụy Điển Gunnar Mỵrdal đã chỉ ra rằng, phân biệt chủng tộc là một vấn đề cực kỳ nan giải đối với nước Mỹ. Vấn đề khó khăn này là một thách thức lớn cho nhà thờ. Thuyết phổ độ là giáo lý chính yếu trong Phúc Âm, nên sự phân biệt được coi là một loại phản đạo đức và bất công. Phân biệt chủng tộc đã phủ nhận trắng trợn sự đồng nhất giữa chúng ta ở trong Thiên Chúa. Vì trong Chúa không có người theo đạo Do Thái cũng không có người ngoại đạo, không có sự ràng buộc cũng không có sự tự do, không có người da màu cũng không có người da trắng. Sự phân biệt in hằn vết sẹo lên tâm hồn của người phân biệt và người bị phân biệt. Người phân biệt xem người bị phân biệt như một thứ đồ cũ, không đáng được tôn trọng như một con người. Sự phân biệt biến mối quan hệ “tôi và anh” thành mối quan hệ “tôi và nó”. Do đó nó hoàn toàn trái ngược với những giáo lý cao quý của truyền thống Do Thái - Ki Tô của chúng ta.

Nhà thờ luôn có trách nhiệm mở mang tầm hiểu biết cho cộng đồng, cải tạo hiện trạng và phá bỏ các tục lệ nếu cần thiết. Chắc chắn việc đấu tranh với sự phân biệt là một nhiệm vụ của nhà thờ hiện nay. Nhà thờ có thể làm được một số điều cụ thể. Đầu tiên là cố gắng tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến mối oan cừu giữa các chủng tộc, điều mà pháp luật không thể làm. Tất cả thành kiến về chủng tộc đều xuất phát từ sự sợ hãi, nghi ngờ, hiểu lầm và thường không có căn cứ. Hội Thánh có thể đưa ra sự giúp đỡ vô ngần qua việc hướng dẫn cách tư duy của quần chúng. Thông qua các kênh giáo dục tôn giáo, Hội thánh có thể chỉ ra sự vô lý của thành kiến này.

Ý nghĩ về một chủng tộc siêu đẳng hay thấp kém chỉ là điều hoang tưởng đã bị bác bỏ qua khảo chứng nhân chủng học. Nó cho thấy rằng người da màu cũng không thua kém ai về mặt học vấn, sức khỏe và cả tiêu chuẩn đạo đức. Như vậy có thể hiểu rằng khi mà mọi người đều nhận được cơ hội như nhau thì người da màu có thể đạt được các thành tích đáng kinh ngạc.

Giáo hội còn có thể làm rất nhiều việc để cho mọi người biết rằng người da màu không có mưu cầu thống trị đất nước, mà chỉ đơn giản là muốn có quyền được sống như một công dân thượng đẳng, với tất cả trách nhiệm của một công dân tốt. Giáo đoàn cũng có thể góp phần xoa dịu những nỗi sợ vô căn cứ thường thấy về hôn nhân dị chủng. Vì hôn nhân là vấn đề mang tính cá nhân, được quyết định bởi mỗi cá nhân trong đó. Nên xét cho cùng thì đối tượng trong hôn nhân không phải là chủng tộc mà là con người. Hôn nhân phải cần sự đồng thuận một cách tự nguyện của hai bên kèm theo nghĩa vụ, và bất cứ bên nào cũng luôn có quyền nói không. Giáo đoàn có thể vạch trần ra rằng việc liên tục phản đối hôn nhân dị chủng là đang bóp méo bản chất của vấn đề. Có thể thấy rõ mục đích chính của người da màu là trở thành anh em thực sự của người da trắng chứ không phải chỉ trên danh nghĩa.

Mặt khác, Giáo đoàn có thể làm những điều để nguyên tắc bác ái không chỉ còn là điều viển vông bằng cách dẫn tâm thế của con người hướng về Chúa. Nước Mỹ hiện phải đối mặt với rất nhiều vấn nạn có liên quan đến nỗi sợ. Chúng ta không chỉ có nhiệm vụ giải thoát người da màu khỏi xiềng xích của sự phân biệt mà còn phải giải thoát cho người anh em da trắng của mình khỏi rào cản của nỗi sợ đa sắc tộc. Một trong những cách tốt nhất để gạt nỗi sợ ra khỏi con người ta là hướng cuộc sống của họ tới ý định và mục đích của Thiên Chúa: “Sự yêu thương trọn vẹn không có chỗ cho sự sợ hãi”.

Mỗi khi nghĩ tới nạn phân biệt người ta thường chỉ nghĩ về con người mà bỏ quên Thiên Chúa. Họ chỉ hỏi: “Bạn bè tôi sẽ nghĩ gì nếu tôi quá gần gũi với người da màu hay quá cởi mở với những câu hỏi về chủng tộc?” mà không khi nào đặt câu hỏi: “Liệu Thiên Chúa sẽ nghĩ gì?” chính vì thế mà họ luôn lo sợ, bởi họ muốn chạy theo sự tán thành của xã hội đời thực hơn là sự thành tâm với Thần Thánh ở cõi trên.

Giáo hội phải nhắc nhở những tín hữu rằng con người sẽ được hết mực che chở khi tận hiến cuộc đời của mình cho những đòi hỏi của Thượng Đế hơn là mù quáng hiến mình cho những dục vọng tạm bợ của loài người. Giáo đoàn phải không ngừng nói với các tín hữu rằng: “Các con thuộc về Thiên đàng...” Phải, con người sống ở hai thế giới song song, vừa ở hiện tại vừa ở cõi bất tử, vừa ở địa đàng vừa ở trần thế. Nhưng họ nợ Thiên Chúa một lòng trung thành tuyệt đối. Đó chính là sự tôn kính đối với Thiên Chúa và cống hiến cho mục tiêu của Ngài là diệt trừ sự sợ hãi.

Một giải pháp khác mà giáo hội có thể làm trong quá trình nỗ lực đẩy lùi nạn phân biệt là đi đầu trong cuộc cải cách xã hội. Nếu Giáo đoàn chỉ dừng lại ở việc hăng hái phát biểu ý kiến thì vẫn chưa đủ mà phải bắt tay vào thực hiện. Trước tiên, giáo hội phải triệt tiêu rào cản của nạn phân biệt trong chính tập thể giáo hội. Chỉ có cách này mới có thể đánh đuổi được những ác quỷ từ bên ngoài. Tiếc thay, hầu hết những giáo phái lớn vẫn còn thi hành nạn phân biệt ở các giáo xứ địa phương, bệnh viện, trường học, và các giáo xứ hiệu toà khác. Thật đáng sợ là trong cộng đồng Công giáo ở Mỹ, nạn phân biệt xảy ra mạnh nhất là vào mười một giờ sáng Chủ nhật, thời điểm mà rất nhiều người đứng lên hát: “Thiên Chúa không phân biệt Đông hay Tây...” Tương tự, những trường học có nạn phân biệt nặng nhất là những trường mở vào Chúa nhật. Đã không biết bao nhiêu lần giáo hội hô hào rất quyết liệt nhưng lại thiếu vắng sự hành động! Trưởng khoa Thần học Liston Pope của đại học Yale đã trình bày sâu sắc trong cuốn Vương Quốc vượt ngoài đẳng cấp thân phận (The Kingdom Beyond Caste): “Giáo hội là thể chế phân biệt chủng tộc nặng nhất xã hội Mỹ. Nó tụt hậu hơn Tòa án Tối cao trong câu hỏi lương tâm về vấn đề sắc tộc, và nó thua xa những liên đoàn lao động, các xí nghiệp, trường học, siêu thị, những giải đấu thể thao và hầu hết những hoạt động xã hội xét về mặt hiệu quả của nỗ lực đem lại bình đẳng chủng tộc”.

Cũng đã có một vài tiến triển. Giáo xứ khắp mọi nơi đang tích cực bài trừ nạn phân biệt, và thực sự kết nối đa sắc tộc trong giáo đoàn của mình. Giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ đã liên tục lên án nạn phân biệt chủng tộc và đề nghị các giáo phái hệ thuộc làm điều tương tự. Hầu hết các giáo phái lớn hưởng ứng phát động đó. Giáo hội công giáo Rôma đã tuyên bố: “Nạn phân biệt là trái đạo đức và là tội lỗi”. Tất cả những điều trên thật đáng ngưỡng mộ. Thế nhưng chủ trương này vẫn còn vô cùng hiếm thấy, và mất quá nhiều thời gian để đi vào thực tiễn tại những giáo xứ địa phương. Có những chia rẽ do tà thuyết chen lẫn trong chính nội bộ giáo hội phải được giải quyết. Sẽ là một trong những bi kịch của lịch sử đạo Công giáo nếu sau này có một Dã nhân nào dám phát biểu rằng ở đỉnh cao của thế kỷ hai mươi, Giáo hội lại chính là kẻ bao che cho nạn phân biệt lộng hành.

Giáo hội còn phải năng nổ hơn nữa trong các hoạt động ở ngoài xã hội. Họ phải nỗ lực làm cho các kênh truyền thông cởi mở với cả người da màu và người da trắng. Họ phải chủ động phê phán những bất công đối với người da màu trong vấn đề nhà cửa, giáo dục, sự bảo vệ của cảnh sát, và cả ở toà án. Họ phải nâng tầm ảnh hưởng của mình trong việc tạo bình đẳng kinh tế. Với vai trò là chỗ dựa cho đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cả cộng đồng, giáo hội không thể chỉ nhìn nhận một cách đơn giản trước những ác quỷ ban ngày này.

Nhắc đến vai trò của giáo hội thì không thể không đề cập đến vị trí của mục sư. Mỗi mục sư đều có sứ mệnh phải để cao tính chính trực, nói lên những chân lý bất diệt của Phúc Âm, và dẫn dắt con người từ bóng tối của sa đọa và sợ hãi đi ra ánh sáng của chân lý và tình yêu.

Ở miền Nam, sứ mệnh này khiến những mục sư người da trắng gặp phải lựa chọn khó khăn. Những ai tin rằng nạn phân biệt là đi ngược ý định của Thiên Chúa và tinh thần của Chúa Jesus thì sẽ bị giằng xé giữa việc lựa chọn giữ vững lập trường và bị sa thải hay giữ im lặng để tiếp tục sống yên ổn. Những mục sư đi theo hướng thứ hai cảm thấy nếu họ bị ép phải rời khỏi Giáo đoàn thì người kế vị nhất định sẽ là một kẻ phân biệt chủng tộc, và điều đó là đi ngược với mục đích của Công giáo. Nhiều mục sư đã chọn im lặng không phải chỉ để giữ lại công ăn việc làm mà còn vì họ cảm thấy kiềm chế là cách tốt nhất để phụng sự mục đích của Chúa Jesus tại miền Nam này. Bằng những phương thức kín đáo, không ồn ào, rất nhiều trong số những mục sư này đang đóng góp cho một tương lai tương sáng và góp phần uốn nắn tư tưởng của thanh thiếu niên. Những người như vậy không đáng bị chỉ trích.

Cho dù thế nào thì cuối cùng mục sư người da trắng ở miền Nam cũng phải quyết định chọn con đường nào. Không có chiến lược nào là đúng đắn tuyệt đối. Điều tối quan trọng là mỗi mục sư phải cống hiến hết mình cho lý tưởng của Thiên Chúa về tình anh em, và đảm bảo thực thi bằng những hành động tích cực. Người mục sư không bao giờ được có ý niệm rằng giữ im lặng là cái cớ hay để trốn tránh sứ mệnh. Rất nhiều mục sư có thể làm nhiều hơn hiện tại trong khi vẫn nắm giữ được giáo đoàn của mình. Có một điều chắc chắn rằng các mục sư sẽ không bị thiệt thời. Tại mỗi thành phố ở miền Nam nên có các hiệp hội mục sư đa sắc tộc, ở đó mục sư da màu và da trắng có thể gặp gỡ trong tình đồng tín ngưỡng Công giáo và bàn luận về các vấn đề nổi cộm trong cộng đồng. Một trong những điều đáng tiếc nhất của cuộc đấu tranh tại Montgomery là chúng tôi đã không thể thuyết phục những mục sư da trắng chịu ngồi xuống và cùng nhau bàn bạc về các vấn đề chung. Còn những trường hợp ngoại lệ, những mục sư da trắng chịu cùng thảo luận thì chẳng nhiệt tình bao nhiêu so vài kỳ vọng ngây thơ của tôi.

Và các mục sư còn có thể cùng nhau kêu gọi sự hợp tác từ phía luật pháp và xóa bỏ bạo lực. Điều này đã được các mục sư ở Atlanta, Richmond, Dallas và nhiều thành phố khác áp dụng, và không một ai trong số họ theo những gì tôi biết, mất việc. Sẽ rất khó để một giáo phận sa thải toàn bộ mục sư trong một thành phố. Chỉ cần những mục sư người da trắng tại miền Nam đồng lòng cất chung tiếng nói đề cao sự thật về chân lý của những vấn đề chủng tộc thì sự quá độ từ một xã hội phân biệt chủng tộc lên một xã hội đa chủng tộc sẽ tuyệt nhiên dễ dàng.

Bất kỳ tranh luận nào về vai trò của giới mục sư hiện nay cũng đều phải nhấn mạnh đến tính thiết thực của việc mang thông điệp cân bằng tự nhiên của Thượng đế truyền đạt cho loài người. Không phải mục sư nào cũng có thể làm ngôn sứ có vai trò thúc đẩy sự thay đổi trong xã hội, nhưng có một số người phải chuẩn bị cho vai trò này bằng sự vượt qua những thách thức, để sẵn sàng đón nhận sứ mệnh mạnh mẽ dấn thân vì chân lý. Mong sao nạn phân biệt ở Mỹ hãy sớm lay động những trái tim để các ngôn sứ sẽ phải xuất hiện và nói “Nhân danh Thiên Chúa,” rồi thốt lên như Amos trước đây, “... hãy để công lý chảy cuồn cuộn như sông, hãy làm cho lòng nhân từ chảy như suối không ngừng”.

May thay, ở miền Nam đã có vài người mang tinh thần của ngôn sứ này. Tôi hết lòng ca ngợi các cha xứ đạo Thiên Chúa và giáo sĩ Do Thái đã kiên cường trước những chông gai và mỗi đe dọa, sự bất tiện và mất mát danh tiếng, thậm chí là nguy hiểm tới tính mạng, để xướng lên lý tưởng của chúa cha và tình anh em của con người. Niềm an ủi cho những bầy tôi cao quý đó của Thiên Chúa chính là lời của Jesus: “Người ta sẽ nhục mạ và làm tổn thương các con. Họ sẽ lấy mọi điều xấu vu cáo các con vì các con theo ta. Nhưng khi họ làm như thế thì các con có phúc. Hãy hớn hở vui mừng lên, vì có một phần thưởng rất lớn đang dành cho các con trên Thiên đàng. Vì họ cũng đã ngược đãi các nhà tiên tri sống trước các con như vậy”.

Tại đây và thời điểm này là thử thách to lớn và cơ hội cao thượng: để cho tinh thần Thiên Chúa sáng tạo một quốc gia Công Giáo chân thật và vĩ đại. Nếu như giáo hội đối mặt với thử thách với lòng dũng cảm và với tâm cống hiến thì ngày ấy sẽ đến nhanh và sẽ là lúc mọi người ở khắp nơi nhận ra rằng Thiên chúa ở trong hết thảy mọi người.

Cuối cùng, những người Mỹ gốc Phi đóng một vai trò quyết định nếu muốn được bình đẳng thực sự. Nếu người da đen muốn giành được quyền công dân hạng nhất với đầy đủ quyền lợi thì người đầu tiên phải hành động không ai khác hơn là chính họ. Sự xóa bỏ phân biệt chủng tộc và hội nhập xã hội của những người da đen tuyệt đối không phải là món cao lương mỹ vị mà chính phủ Liên bang hay người da trắng hào phóng dọn sẵn lên đĩa bạc ở trên bàn và những người da đen chỉ việc bày tỏ sự thèm khát rồi thụ hưởng thoải mái. Có thể, một trong những tác động tai hại nhất của cuộc chiến chống nạn phân biệt chủng tộc trong quá khứ là đã làm những người da đen mang ảo tưởng rằng, có nhiều người khác quan tâm đến quyền công dân của họ hơn cả chính bản thân họ.

Trong thời kỳ thay đổi xã hội này, những người Mỹ gốc Phi cần phải nhận ra được rằng họ có thể làm được rất nhiều điều để thay đổi hoàn cảnh khốn khổ của mình. Họ có thể thất học hay nghèo túng, nhưng những bất lợi này không thể ngăn họ nhận ra sức mạnh tự thân để thay đổi số phận của mình. Những người da đen có thể trực tiếp phản kháng chống lại sự bất công mà không cần chờ đến sự can thiệp của chính phủ, sự đồng thuận của đám đông hoặc phán quyết bênh vực của tòa án.

Những người bị áp bức thường ứng phó với những kẻ áp bức theo ba con đường. Con