← Quay lại trang sách

- 7 -

Thắng nhớ mãi những kỷ niệm ngày xưa ở Nha Trang. Kiếp của mình là kiếp lang thang…Vài tháng sau, Thắng được lệnh đổi về Biên Hoà, nơi phi trường cao su đất đỏ.

Thắng nhớ tới cái hôm đổi về cái phi trường ấy. Từ nhà ga xe lửa, Thắng hỏi thăm đường về phi trường. Năm bảy cái quẹo tay mặt, quẹo tay trái… Nghe xong được cái quẹo cuối cùng thì quên cái quẹo đầu tiên. Chàng ngán ngẫm xách va-li bước liều về phía ngón tay mà người chỉ đường đã vẽ trong không khí. Ông ta hỏi với theo:

– Sao thầy không kêu một cái xích-lô..

Thắng im lặng, bước đi không trả lời. Hai, ba anh chàng xích-lô đạp từ từ theo sau Thắng, mong cho chàng đừng có tập thể thao. Thắng vẫn bước đi, cố nhìn ngang, nhìn ngửa cho có vẻ yêu đời… Mấy anh chàng xích-lô, thấy không nước non gì, vượt qua mặt Thắng rồi đạp xe đi mất hút…

Bấy giờ, bao nhiêu sự tức giận mới để lộ ra trên nét mặt Thắng. Thắng nện gót chân mạnh xuống mặt đường. Đổi đi vào lúc cuối tháng, là lúc mà xoay bở người mới được ba đồng để mua bốn điếu thuốc Ruby. Thắng muốn chửi đổng một câu cho hả tức, nhưng thấy nhiều người qua lại, nên lại thôi.

Thắng nhớ cách đây bốn hôm khi được giấy đổi, Thắng đã năn nỉ với cái thằng làm lệnh di chuyển:

– Xếp để cho mấy hôm nữa, đến đầu tháng hãy làm lệnh di chuyển. Cuối tháng, meo quá, đào đâu ra tiền để đi về cái xứ cách đây đến hàng bốn trăm cây số….

Cái thằng làm lệnh di chuyển, được Thắng gọi bằng xếp, khoái quá, nhìn Thắng, nháy mắt cười ra cái điều thông cảm. Thắng về phòng, nằm yên được tới hai ngày… Ngày thứ ba, cửa phòng mở một cách dữ dội. “Xếp” tông cửa nhảy xổ vào như gió. Nó dựng cổ Thắng dậy, cầm lệnh thuyên chuyển ấn vào tay Thắng:

– Xin mời ngài dậy rồi đi ngay cho. Hai cái công điện thượng khẩn đánh về hỏi thăm sức khoẻ của mày làm tao bị thằng Hai Lùn xạc. Dậy đi!…

Lúc đó là lúc nhịn thuốc lá đã được nửa ngày. Thèm thuốc lá quá nên Thắng phát khùng:

– Ông không đi thì mày làm được gì ông?…

“Xếp” không nói gì, móc túi Thắng, lẳng lặng lấy chìa khoá, xếp quần áo vào va-li cho Thắng. Trông hắn hiền như một người vợ trẻ. Hắn dìu Thắng ra xe. Làm giấy tờ để đi mất có nửa ngày… Buổi chiều, hắn khiêng Thắng lên xe và tiễn Thắng ra nhà ga…”Đèn ga Nha Trang màu vàng, tao cầm tay mày muốn khóc…Chưa bao giờ buồn thế!”.

Đêm hôm đó, Thắng nằm nhịn đói trên xe lửa. Thắng ra đằng cuối toa, ngồi trên sàn tàu, ngắm rừng cây mịt mù. Nhìn lên trời để tìm sao Bắc Đẩu. Ở vĩ độ nào thì nhìn thấy sao Bắc Đẩu ở độ đó. Bây giờ mình đang ở vĩ tuyến thứ mười. Nhìn một góc mười độ với chân trời, Thắng thấy sao Bắc Đẩu lấp lánh. Miền Bắc là phương đó. Không biết đến bao giờ con tàu mới ngược lên phương Bắc, mang mình trả lại quê hương.

Con tàu xuôi về phương Nam để tới phi trường đất đỏ. Sáng mai, mình sẽ tới Biên Hoà. Vườn cao su xanh um, có những căn nhà thấp thoáng. Phi đạo lót vỉ sắt, mỗi lần xe hơi chạy qua, lại có tiếng kêu loảng xoảng. Thắng nghĩ:

– Ở nơi này có lẽ tốt đấy. Không xa Sàigòn lắm để có chỗ du hí khi có tiền. Mà cũng lại đủ xa để ngại không thèm về khi nào túi rách.

Thắng đổi về Biên Hoà được chừng ba tháng thì Trọng cũng đổi về. Trọng xin đi bay lại mà không được. Người ta tiếc một chuyên viên cao đẳng. Đào tạo phi công chỉ mất hơn một năm. Đào tạo một chuyên viên cao đẳng vào loại khá như Thắng, như Trọng thì phải mất ít nhất năm năm.

Bởi vậy, Trọng vẫn phải sống đời bò sát. Ngày ngày leo lên Lầu Gương làm việc ở cái chỗ “chân không đến đất, cật chẳng đến trời”. Những con người bò sát, dân tàu bay đặt tên là Kiwi. Những con chim, tuy mang danh là chim mà không biết bay. Thỉnh thoảng nhìn lên trời cao, lại thấy thèm được chui vào mây, được hưởng cái phút con người bị lắc lư như đồng tiền trong bát xóc đĩa.

Tây về nước, trao lại cho Không Quân tất cả cả các phi trường. Ở Biên Hoà là Phi-đoàn Khu-trục. Những chiếc F8F đen chùi chũi. Cái gian nhà dành làm Ban Kiểm Kỳ, bé tí xíu, ngổn ngang vật liệu và trông tàn tạ như một căn nhà bỏ hoang lâu ngày.

Rồi Thiện đầu bạc cũng đổi về đây. Cả Pi-lốt Thái Bình cũng về để tập lái tàu bay “tớp tớp”. Thành ra cái “lũ quỷ sứ” đi đâu rồi cũng gặp nhau. Le bal des maudits. Những căn phòng độc thân ở cạnh vườn cao su lại vẫn những con người đó. Di sản của Tây để lại ở cư xá độc thân còn sót lại trên tường bức vẽ những con đầm không mặc quần áo và những câu bậy bạ viết bằng bút chì xanh đỏ.

Thắng nhìn ra phi đạo. Phi đạo Nam-Bắc bằng đá đỏ, mỗi một lần phi cơ hạ cánh lại bụi tung mù. Một cái Đài Kiểm-soát thấp lè tè, bị bỏ rơi, kính vỡ, nằm trơ dưới nắng như một người con gái đã hết cái thời xuân sắc.

Mỗi một khi xây cất được một cái phi đạo khác dài hơn, người ta lại làm một cái Lầu Gương mới. Chiếc Lầu Gương cũ đó có từ khi phi trường chỉ có một phi đạo Nam-Bắc bằng đá đỏ. Bây giờ có thêm một cái phi đạo mới, lót bằng vỉ sắt. Nhiều khi những cái vỉ sắt tróc cạnh bung lên, giương lên như một cái bẫy. Tàu bay đang ngon trớn mắc cái bánh xe vào đó là….rồi đời. Trọng ngồi trên Lầu Gương, thỉnh thoảng lại nghe thấy mấy ông phi công la hoảng:

– Đầu đường 33, có một cái vỉ sắt tróc cạnh. Ấn cái đầu nó xuống một chút đi bồ…

Trọng uể oải xuống thang… sau khi đã dặn thằng bạn cùng làm trên Lầu Gương, nếu có phi cơ hạ cánh thì bấm cho một phát đèn đỏ. Nếu thấy chàng chưa nhìn thấy thì bắn một phát hoả pháo đỏ để chàng chạy ra khỏi đường bay.

– Đừng để tàu bay nó đè chết tao đấy nhé…

Trọng xuống dưới nhà, lấy xe cứu thương lái ra phi đạo. Tiếng sắt kêu rào rào dưới bánh xe. Một con chó chạy vụt qua trước mặt. Trọng rất khổ sở vì lũ chó hoang. Chúng hay kéo nhau ra phi đạo đùa giỡn, bất chấp tàu bay hạ cánh và cất cánh. Đã nhiều lần, Trọng thủ cây carbine chỉ để rình bắn chó. Bắn một, hai con không ăn thua gì vì chúng nó sinh đẻ mau lắm. Nhiều gia đình chó sống lúc nhúc trong những ống cống của phi đạo, nhai đứt giây điện, đạp vỡ bóng đèn … Nhiều khi còn đưa nhau ra phi đạo “làm ái tình” ngay giữa ban ngày, dằng co nhau trên những vỉ sắt nóng bỏng. Nhiều lúc đã giơ súng lên, Trọng lại không nỡ bắn, để rồi lúc bị những người phi công cằn nhằn lại ngồi tức một mình…

Trọng ngừng trên đường vận chuyển, chờ một ánh đèn xanh. Từ Lầu Gương, ánh đèn xanh chớp chớp. Trọng quẹo mạnh vào phi đạo, lái xe đi kiếm miếng vỉ sắt tróc cạnh. Gió thổi mạnh, uốn cong đầu những khóm hoa lau, trắng xoá cả vùng đất phi trường. Trọng đập mạnh búa xuống. Miếng vỉ sắt nằm ép xuống rồi lại bung lên… Trọng lấy một cái móc đóng…

Một ánh hoả pháo đỏ vụt bắn lên từ phía Lầu Gương. Trọng nhảy lên xe, lái vội vào bên lề. Hai chiếc F8F làm “break” ngay trên đầu, phơi cái bụng đen, tróc sơn loang lổ.

Một ánh hoả pháo đỏ nữa lại vọt lên từ phía Lầu Gương. Chiếc phi cơ F8F vút qua đầu Trọng. Tiếng động cơ gầm thét. Trọng nhìn theo… Phi cơ chỉ thò ra ngoài có một bánh xe… Chiếc phi cơ thứ hai đáp chạy êm trên sân bay sau khi nhảy vài cái “boum” nhẹ.

Trọng lái xe chạy theo sau rồi về đường vận chuyển đứng chung với toán xe chữa lửa đang chờ sẵn. Ánh đèn đỏ trên nóc xe chữa lửa quay nhiều vòng sáng, tắt. Người y tá và người tài xế xe cứu thương nhảy sang xe của Trọng. Chàng nhường tay lái và đứng ngoài cửa xe nhìn theo chiếc phi cơ đang vào vị trí gió xuôi với nhiều thấp thỏm lo âu…

Những tai nạn xảy ra ở cái phi trường này gần như thường xuyên. Khi nào chiếc cần trục bị hư, các phi công không dám bay. Không có xe cần trục, tàu bay mà lộn úp sấp thì người phi công chỉ còn đành nằm bẹp trong đó. Cái gì mà Tây để lại cũng đều đáng được xếp vào viện bảo tàng.

– Có chuyện gì vậy mày?…

Trọng nhìn lại đã thấy Thắng đứng ở đằng sau. Những nét mặt bồn chồn lo lắng cho người bạn ngồi trên chiếc phi cơ đang lượn vòng trên trời cao xanh thẳm kia. Trọng chớp mắt:

– Chiếc Echo hạ cánh chỉ có một cẳng…

– Buổi sáng, tao sửa máy cũng thấy nó bị trục trặc ở ống áp lực thủy điều. Thằng Thiện đầu bạc coi về vũ khí cũng bảo tao là cây súng bên trái hay bị tắc đạn. Tao biết thế nào cũng có chuyện…

Trọng che mắt cho đỡ chói nắng, đứng nhìn theo chiếc phi cơ nghiêng lượn vào vòng chót. À, lần này thì thò ra được hai cẳng nhưng khi phi cơ gần tới đất lại bốc vụt lên. Thắng hỏi Trọng:

– Tại sao vậy?

– Chắc thằng đó nó không tin tưởng lắm ở hai cái bánh xe. Để chờ thêm một chút nữa xem sao…

Chiếc phi cơ lượn thêm một vòng nữa. Lần này, khi bay vòng trở lại, ngang qua đầu Thắng và Trọng, hai cánh lắc dữ dội…như những lúc tàu bay hỏng vô tuyến xin hạ cánh. Trọng biết rằng anh chàng phi công đã nhờ Đài Kiểm-soát lấy ống nhòm coi xem hai cẳng đáp đã khoá chắc chưa. Hai cái bánh xe không có lắc lư. Trọng thở phào một tiếng:

– Chắc ăn rồi…

Lần này, phi cơ hạ cánh một cách êm thấm. Khi hai bánh xe chạm đất, cả đoàn xe chữa lửa, cứu thương và cần trục chạy theo sau. Chiếc mũ sắt trắng của người phi công lấp loáng, phản chiếu ánh mặt trời. Chiếc phi cơ chạy vào bến đậu, rú lên, quay vài vòng cánh quạt thật nhanh rồi tắt máy.

Người phi công leo ra ngoài phi cơ. Với những thằng Tây cao lớn và chân dài thì bước ra và bước vào phi cơ một cách thật dễ dàng. Nhưng với dân Giao Chỉ thấp nhỏ thì phải leo… Có những anh chàng phi công Việt Nam, như Hữu chẳng hạn, đi bay phải mang theo một đống gối. Cái để sau lưng, cái để lót xuống dưới ngồi… Ngồi trong “cockpit” trông lọt thỏm như hòn bi trong ly nước. Nhưng khi phi cơ chạy trên sân đậu, hai tay anh khuỳnh ra, gác trên thành cửa, chiếc khăn quàng cổ bay phất phơ cũng vẽ nên một bức tranh hùng tráng.

Thắng yêu nhất cái hình ảnh của phi cơ khi rời sân đậu. Người cơ khí viên ngoắt hai tay ra phía sau… Chong chóng quay nhiều vòng. Người phi công giơ ngón tay cái lên trời. Hai chiếc bánh xe nhích lên…

Còn bay ở trên trời, phi cơ chỉ là một khối sắt bay. Cái vẻ đẹp tan biến, nhường chỗ cho cái đe doạ khủng khiếp của chết chóc đau thương.

Thắng theo Trọng lên Đài Kiểm-soát… Ở trên cao nhìn xuống phi trường, mới thấy hết cái đẹp. Phi đạo nằm thẳng băng như một mạch máu. Rừng Tân Phong nằm về phía bên trái. Phía xa xa, thấp thoáng nhiều bóng thánh giá của nhà thờ thuộc khu Hố Nai. Con đường nơi đầu phi đạo 33, xe hơi chạy đi, chạy lại, tấp nập về phía Cấp, Đà Lạt.

Trọng ngồi làm báo cáo về chiếc phi cơ F8F vừa hạ cánh…”Chiếc Xanh I, sau khi vào vị trí hai phút…rồi ba mươi giây, làm break để hạ cánh. Trời tốt, tầm nhìn xa hai mươi lăm cây số. Khi tới vòng chót, người kiểm soát viên không lưu thấy cẳng đáp không ra hết, ra lệnh tống ga làm lại vòng phi đạo. Phi cơ làm lại hai vòng khác, kiểm soát lại bánh đáp, hạ cánh an toàn…Phi công vô sự”.

Tờ báo cáo chỉ vỏn vẹn có như vậy… Trọng uể oải quay sang hỏi Phạm, người chuyên viên khí tượng:

– Tối nay, liệu có mưa không mày?…

– Hỏi để làm gì?…

– Để buổi tối đi coi chớp bóng ở cái rạp lộ thiên.

Rạp chiếu bóng ở trong căn cứ không có mái che nên đi xem, Thắng, Trọng và các bạn rất sợ bị mưa. Hỏi vậy, nhưng Trọng và Thắng không tin ở tài tiên đoán khí tượng của Phạm. Nhiều hôm, nó nói mưa, bắt Thắng và Trọng mang áo mưa, nhưng suốt cả buổi chiếu bóng mặt trăng tròn vành vạnh cứ lơ lửng ở trên đỉnh đầu… Nhiều hôm nó quả quyét không mưa thì trời lại mưa xuống ào ào…

Phạm bước ra ngoài Lầu Gương nhìn về bốn phía… Chân trời có vài đám mây Cummulus, nhưng gió lại thổi hướng Đông Nam. Nhưng biết đâu từ giờ đến tối, trời lại không đổi gió. Trên đầu, thật cao, mây gợn sóng thành đợt mà ngoài Bắc gọi là những vẩy tê tê. Đó là những đám mây Cirrus. “Trên trời có vẩy tê tê, có ông bảy vợ chẳng chê vợ nào.” Phạm nhiều khi thấy cái vô lý của ca dao. Suốt mấy năm trời làm cái nghề khí tượng, Phạm chẳng bao giờ thấy cái cảnh “trên trời có đám mây xanh, ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng…” Phạm đi vào, trả lời Trọng:

– Có thể mưa mà cũng có thể không mưa…

Thắng bĩu môi:

– Hỏi mày mà được trả lời như vậy, thà rằng đừng hỏi. Khí tượng gì mà bết quá vậy.

Bị đụng chạm tự ái nghề nghiệp, Phạm trả lời xẳng:

– Thì đừng có hỏi có được không?…Lần sau thì ông không thèm trả lời chúng mày.

Trọng nháy mắt nhìn Thắng cười… Nó cáu kỉnh rồi đấy, đừng trêu chọc nó nữa. Thắng và Trọng nhiều khi nghịch tinh, ban đêm đi chơi về khuya, múc một lon nước đổ vào bình đựng nước mưa để ngoài trời. Rồi sáng ngày hôm sau, rình coi cái bộ mặt thắc mắc của Phạm. Quái, đêm hôm qua đâu có mưa nhiều mà hôm nay đo nước mưa được cả đến mấy chục phân. Hay là mưa mà mình ngủ quên, không biết… Nhưng nếu mưa nhiều như thế này, buổi sáng dậy cũng phải thấy nước đọng vũng trên mặt đường… Phạm giữ bộ mặt trầm ngâm ngồi trước cuốn sổ, chi chít đặc những con số.

Căn phòng của Thắng có bốn người. Trung sĩ nhất Thắng, Trung sĩ nhất Trọng, Trung sĩ Phạm và Thượng sĩ Thiện. Thiện đầu bạc, vì là chuyên viên vũ khí, gần với súng đạn nên thăng cấp trước nhất. Tất cả, với số lương bốn ngàn đồng cũng đủ đi du hí vào những ngày đầu tháng.

Vào những ngày giữa tháng, nếu các bà chủ quán trong căn cứ, không cho “mở một trang nhật ký” thì bắt đầu ăn cơm Tây. Nghe cái tiếng ăn cơm Tây có vẻ sang trọng lắm, nhưng biết đâu chỉ là một khúc bánh mì nhân thịt và một ly nước lạnh. Buổi chiều, mỗi lần ra phố lại có thằng dặn với theo:

– Lúc về, nhớ mua cho tao mười đồng cơm Tây.

Những cái quán ăn trong căn cứ cũng nhân đạo lắm. Mỗi thằng có một trang để “à la ghi”. Có nhiều thằng ăn cơm mấy tháng không mất tiền. Cứ hết tháng, nó lại “bắn một phát hoả tiễn”, rồi chạy sang quán khác. Những chuyên viên bắn hoả tiễn nổi tiếng đã làm các bà chủ quán phải chạy mặt…

Những buổi chiều thứ bảy và ngày chủ nhật đầu tháng, cái cư xá độc thân vắng hoe. Ít thằng ở lại cái đất Biên Hoà vào những ngày ấy. Những cây cao su cổ thụ, lá rụng ào ào sau mỗi cơn gió. Tiếng con tắc kè ở đầu nhà như kêu lớn hơn, vang động cả ba từng thang lầu.

Thắng đã ở lại cư xá trong một buổi tối thứ bảy, giấc ngủ chập chờn như những đêm uống thật nhiều cà-phê. Miền đất phi trường Biên Hoà ngày đó vẫn còn hoang vu. Những người lính gác ngoài vòng đai phi trường giáp rừng Tân Phong, kể chuyện cho Thắng nghe, thỉnh thoảng vẫn thấy cọp lảng vảng đi sát hàng rào giây kẽm gai.

Những buổi sáng khám phi đạo, Trọng vẫn kể cho Thắng nghe đã gặp những con rắn dài, thấy ánh đèn pha, bò lủi nhanh vào bụi cây mắc cỡ. Thành ra, những ngày nghỉ lần sau, Thắng cứ phải cố lên xe đi về Sàigòn.

Đường từ Biên Hoà về Sàigòn qua ba cái cầu. Ba cái cầu cùng bắc ngang qua một sông. Đi xe lô mất mười lăm đồng. Đi xe đò mất mười hai đồng. Nhưng nếu mặc quần áo lính thì chỉ mất có bảy đồng. Những ông chủ xe đò là người có nhiều cảm tình với lính.

Nếu mặc quần áo ka-ki thì phải lên xe từ lúc xe còn đậu ở bến. Mấy ông tài xế và mấy ông lơ, ít khi chịu rước khách nhà binh ở dọc đường… Những người thừa hành đã phá hoại cái thiện chí của nhà lãnh đạo. Nhiều khi Thắng nghĩ rằng thà cứ việc lấy bằng tiền những người thường dân rồi cho đón xe ở dọc đường, có lẽ lại còn hơn.

Những chuyến xe buổi trưa thứ bảy và buổi chiều chủ nhật, chuyến xe nào cũng gần tới một nửa số hành khách lính tàu bay. Những chiếc mũ kết xanh trông thật vênh váo khó thương.

Chiếc xe đò đi qua đầu phố chợ, chạy dọc theo bờ sông Đồng Nai rồi ngừng lại để chờ qua cầu. Qua được hai cái cầu ở đầu tỉnh thì kể như đã nhìn thấy Sàigòn. Khi chiếc bảng cấm quay sang màu trắng, anh lơ xe nhắc hành khách như một cái máy:

– Xin cô bác dấu thuốc, xả rác ở trong xe…

Chiếc xe bò lên dốc cầu, qua mặt người lính gác. Anh lơ xe nhìn người lính gác, cười tình… Nụ cười ấy được tái bản nhiều lần trong một ngày. Tiếng gỗ cầu bật lên đập xuống rầm rầm dưới bánh xe. Chiếc cầu sắt đã chịu đựng bao nhiêu đoàn xe hơi, xe lửa hàng mấy chục năm.

Qua hai cái cầu là Chợ Đồn…Một chú Ba Tàu bán bánh bò ngay ở chỗ trạm kiểm soát hay bị các chàng lính tàu bay hỏi nhiều lần:

– Đây là đâu vậy, chú Ba?

Chú Ba thản nhiên trả lời:

– Dạ, đây là chợ Đồn…

Tiếng cười khoái trá nổi lên..Mấy cô học trò ngồi trong xe thẹn đỏ mặt, lơ đãng nhìn về phía đường tàu. Chú Ba nói vần Đ không được, nên phải đổi thành vần L. Nhất là giọng của chú thản nhiên và mặt không hề thay đổi..

Có hôm đi về…không gặp chú Ba Tàu. Vài hôm sau lại thấy chú xuất hiện. Chú kể chuyện bị cảnh sát bắt. Tiếng của chú cứ bô bô ở trạm kiểm soát:

– Ngộ đi bán ở chỗ cấm, bị bắt bỏ vô đồn…Đồn trên bỏ xuống đồn dưới, đông quá là đông. Ông cảnh sát cứ đếm đi đếm lại hoài….

Thắng cố giữ vẻ mặt nghiêm trang mà không nổi. Bên cạnh chàng, tiếng cười đủ hết mọi giọng…Nhiều thằng mua một chiếc bánh bò, mua mà không ăn, để hỏi lại chuyện. Thành ra câu chuyện tự nhiên nhiễm một tí ti mất dạy.

Những ông cảnh sát ở Biên Hoà thật là hiền lành. Cả ngày, chẳng bao giờ đặt cái còi lên miệng. Ông cảnh sát đứng chỉ đường cho xe hơi ở ngã tư đầu chợ, lối vào phi trường, ít khi đứng ở trên bục gỗ. Thỉnh thoảng, nhìn thấy một cái xe hơi chạy ở đàng xa, ông cảnh sát chạy ra làm “chim bay, cò bay” một chút xíu rồi lại đứng vào trong lề đường tránh nắng.

Thắng thấy ở đất Biên Hoà, một cái gì lành và mát như sông Đồng Nai. Thiên hạ sống thật thanh bình. Chẳng bao giờ nghe thấy tiếng súng. Vào cái năm 1955, 1956 chiến tranh chưa xảy ra ở cái đất nước này. Tàu bay khu trục chỉ dùng đạn bắn xuống…sân tập tác xạ Phú Lợi.

Bom napalm vừa thả xuống, xăng đặc chưa cháy hết, lũ trẻ con đã chạy ra, nhặt những mảnh vụn vỏ bom mang về bán cho mấy chú Ba Chợ-lớn lấy nhôm, đúc nồi.

Trong mấy năm ở Biên Hoà, Thắng suýt bị…lấy vợ đến hai lần. Thời gian qua đi, Thắng bây giờ đã hai mươi lăm tuổi. Sống độc thân nhiều khi cũng chán. Mỗi một lần về chơi nhà bà bác ở bờ sông Tân Định, lại nghe các bà chị tính đến chuyện làm mối cho Thắng:

– Thắng có lấy vợ không? Có cái đám ở trước cửa để ý nhiều đến Thắng đấy nhé. Muốn thì chị nói một câu là được ngay.

Thắng nhìn sang căn nhà trước cửa… Người con gái đó tên Lan thì phải, vì Thắng thường nghe ông hàng xóm mỗi buổi chiều lại vác đàn ra ca vọng cổ…”Em Lan ơi, tội tình chi mà em phải đoạ…ư…đầy, cho khổ sở kiếp hồng nhan…”

– Ngoan lắm, Thắng ạ. Ngoan như những người đàn bà ở thế hệ cây kim, sợi chỉ…Thắng cứ viết thư đi rồi chị đưa cho.

Thắng mỉm cười nghĩ đến việc mình viết thư tình. Biết viết cái gì để tỏ tình với một người con gái?… Chị Kim nhét vào tay Thắng một tờ giấy và một cây bút máy.

– Viết đi Thắng..

– Viết cái gì hở chị? Hay là chị đọc cho em viết…

Chị Kim lườm Thắng rồi đi vào trong bếp. Thắng ngồi xoay cái cán bút rồi viết nguệch ngoạc…”Anh yêu em, yêu ghê lắm, yêu cứ như là yêu …gái. Anh có thể mổ bụng, lôi trái tim anh ra đặt trước mặt em, nhưng với điều kiện là ở nước mình phải có một ông thầy thuốc nào khâu bụng anh lại không đau đớn gì cả mà lại không lấy tiền….” Thắng quẳng cái bút xuống bàn. Chị Kim đứng đằng sau lưng Thắng tự hồi nào, đọc qua vai Thắng rồi mắng:

– Rõ là thằng khỉ…Sao lại viết vậy? Nhưng được rồi, để chị đưa cho cô ta.

Thắng ra ngồi ngoài hè. Một cây dừa lẻ loi in bóng xuống giòng sông, nước đục ngầu. Con sông Tân Định này chứa hết rác rưởi của Sàigòn. Những căn nhà nằm chênh vênh trên bờ sông, tố cáo hết cả cái nghèo nàn của xóm này. Bè rau muống trôi lềnh bềnh trên mặt nước, mỗi lúc muốn hái mang đi bán, người ta lại ấn cho chìm xuống rồi khua nước cho những thứ cặn bã nổi trên mặt sông trôi đi hết, rồi mới hái lên chiếc thuyền con. Từ ngày về chơi cái xóm này, Thắng thấy lợm giọng mỗi lần ăn rau muống…

Một viên đạn giấy bắn vào người Thắng đau điếng. Thắng giật mình, nhìn lên…Một chú lỏi nhe răng sún ra cười với Thắng. Tuy rằng tức giận, nhưng Thắng vẫn thản nhiên vì biết rằng nếu để lộ sự tức giận ra, thế nào cũng nhận được thêm vài ba viên nữa. Thắng cầm viên đạn giấy lên, nhìn ngắm như chưa bao giờ được thấy… Lũ em của Lan đấy. Nếu mà lấy Lan, mình phải có trách nhiệm nuôi cái lũ ấy thành người.

Chị Kim ở bếp ra, đứng cạnh Thắng. Hai chị em cứ nhìn vơ vẩn về phía bờ sông. Cây dừa bị sóng vỗ đã trơ cả rễ mà vẫn đứng vững mãi trên bờ. Thắng hỏi chị Kim:

– Hình như ông cụ của Lan bị ho lao?…

– Ừ… Lan nó cũng kể cho chị nghe như vậy. Tội nghiệp ông cụ. Đi làm thư ký suốt đời, bàn tay gầy gò gõ mãi trên chiếc máy đánh chũu, làm gì mà không ho lao.

Thắng thở dài. Chị Kim vuốt tay lên đầu, lau mấy giọt mồ hôi đọng trên trán, trên tóc mai…

– Tại sao Thắng cứ thắc mắc như vậy? Nếu yêu nhau, người ta còn chết vì nhau được cơ mà…

Chị Kim cứ làm như Thắng đã yêu Lan. Chị thuộc vào cái thế hệ Tố Tâm… Dĩ vãng của chị cũng nhiều chuyện đau thương về tình ái. Người yêu của chị đã chết, vậy mà chị cứ trung thành với những kỷ niệm cũ, chờ người yêu đến cả hai chục năm…Thắng cười:

– Nếu mà em yêu, cô ta bảo em chết, em có thể chết, nhưng em chỉ sợ lây cái bệnh của ông cụ…

Chị Kim cũng cười… Hai chị em đi vào trong nhà. Ánh nắng chỉ còn thoi thóp trên các ngọn cây. Một mâm cơm dọn ra đạm bạc. Thắng cũng rất muốn có một gia đình. Buổi tối, ăn cơm xong, nằm đọc báo có vợ ngồi khâu, con ngồi học bài… Cái cảnh gia đình vẽ trong tưởng tượng ấy đẹp biết là ngần nào.

Vài tháng sau, Thắng lại về xóm đó thăm chị Kim. Ông hát vọng cổ ở đầu ngõ vênh mặt nhìn Thắng. Chị Kim bảo Th¡ng:

– Nó sắp sửa lấy cô Lan.

Thắng chợt hiểu. Thì ra anh chàng đã coi mình như là một kẻ chiến thắng. Mà địch thủ là Thắng thì cũng đáng hãnh diện lắm đấy chứ. Chàng cười thầm và thấy cũng nên để hắn sung sướng. Mình có mất mát gì đâu.

Thắng cố tạo ra một bộ mặt thật buồn… Nhưng khi nhìn sang nhà Lan, chàng bắt gặp một đôi mắt nhìn mình sâu thăm thẳm. Chỉ vì em nghèo… Chỉ vì chúng mình cùng nghèo. Lấy nhau rồi để nối tiếp cái nghèo khó, nó dính lấy mình đời đời, kiếp kiếp…

– Lan nó cứ hỏi thăm đến Thắng luôn…

Thắng lơ đãng nhìn ra ngoài sông. Một con thuyền xuôi nước, lặng lẽ trôi theo mái chèo nhẹ đẩy.

Những cuộc hôn nhân không thành mà thời gian thì cứ qua đi, không bao giờ trở lại… Một năm, hai năm, ba năm. Tất cả đều thay đổi. Những phi cơ F8F, chìm vào trong quên lãng. Bây giờ người ta dùng Skyraider…Khi nhắc nhở tới “chiếc quan tài bay F8F”, chỉ để thương tiếc những anh tài khu trục.

Phi đạo bây giờ bằng bê-tông dài đến ba cây số. Trước cửa Lăng Cha Cả, lúc nào cũng đông thanh niên xin vào lính tàu bay.

Thắng xin đi bay…nhưng vẫn giữ nghề thợ máy. Để gần với trời hơn. Tóc đã bạc đi thật nhiều mà sự nghiệp vẫn chẳng có gì.

Vườn cao su trong căn cứ Biên Hoà đã bị đốn đi gần hết để lấy đất xây cất nhiều doanh trại mới. Thắng bỏ vùng sông nước Đồng Nai để đổi về Sàigòn với nhiều luyến tiếc. Thiện đầu bạc đổi đi Đà Nẵng. Trọng vẫn ở lại leo lên một cái Lầu Gương cao hơn, làm việc suốt ngày, suốt đêm với nhiều mệt mỏi chán chường…

– Có lẽ tao xin giải ngũ… Mà giải ngũ rồi, có lẽ tao phải nằm nghỉ ở nhà mấy tháng rồi mới có thể kiếm việc đi làm trở lại…

Thắng hỏ:

– Mày có bao giờ thấy thích được nhìn lại Hà-nội không?

Trọng không trả lời…Ngoài ấy, gió lạnh, mưa nhiều. Tiếng F.100 cất cánh làm rung mạnh cửa kính. Tiếng súng lẻ tẻ nổ từ phía rừng Tân Uyên trùng điệp….