← Quay lại trang sách

- 9 -

Những buổi sáng, Trọng có thói quen thức giấc vào khoảng sáu giờ…Những ngày không phải đi làm, Trọng trở mình nằm nghiêng rồi nghĩ thầm: hôm nay mình nghỉ mà!… Trọng nhắm mắt ngủ lại. Giấc ngủ ban ngày nặng nề mệt nhọc, quên cả ăn sáng. Lúc thức dậy, nhìn vào trong gương thấy mặt phờ phạc, ngơ ngác. Đôi mắt thật đỏ, mái tóc bồng lên, cố chải mà không thể nằm ép xuống.

Những giấc ngủ ban ngày thường đưa Trọng vào những cơn mộng thê thảm. Những tiếng người khóc, những tiếng nổ kinh hoàng, những tai nạn phi cơ trên phi đạo. Trọng mơ thấy mình thấy một tai nạn phi cơ chắc chắn sẽ xảy ra, chàng cầm micro mồm há thật lớn mà nói không thành tiếng… Những chiếc phi cơ hỏng thắng, chạy vun vút trên sân, đuổi theo chiếc phi cơ đằng trước, đâm sầm vào nhau, bom nổ tung, lửa rừng rực cháy…Trọng bàng hoàng bừng tỉnh, thấy ngực mình thật nặng. Trọng cố xoay mình rồi lại nhắm mắt. Căn phòng trống chỉ còn lại mình Trọng.

Trong những giấc ngủ chập chờn, lúc bừng tỉnh Trọng thường nằm nghe những tiếng động trong căn cứ để phỏng đoán thời gian. Tiếng xe chạy qua đầu nhà rầm rập, tiếng động cơ gần rồi xa…Tiếng nói chuyện vang trên đường buổi sáng. Đã đến gần tám giờ. Nhân viên của công xưởng đã đi làm. Trọng nhắm mắt rồi một lúc sau lại bừng tỉnh. Tiếng máy bào, máy tiện rú lên phía Xưởng Bảo-trì. À, đã hơn chín giờ. Trọng lại nhắm mắt.

Những tiếng động ban ngày của căn cứ vọng vào căn phòng trong cư xá độc thân. Tiếng máy bay cất cánh từ phía đầu phi đạo 09. Tiếng kẹt cửa nhè nhẹ. Bà già giặt đồ rón rén đi vào phòng, lấy đồ giặt để ở đầu giường. Đã hơn mười giờ. Bắt đầu từ lúc mười một giờ, tiếng khóa mở lách cách ở những căn phòng bên cạnh. Vài ba thằng đã đi làm việc về, tiếng giày bước mạnh ngoài hành lang. Tiếng hát oang oang sai cả nhịp điệu, tiếng nước dội ào ào phía buồng tắm đầu nhà. Trọng uể oải ngồi dậy. Giờ này thì không thể nào ngủ được. Sắp tới giờ ăn cơm trưa.

– Bố khỉ, giờ này mới thức dậy…

Trọng ngồi bó gối trên giường…Những thằng cùng phòng đang ngồi xúm nhau chung quanh một chiếc giường đánh vài ván bài trước khi đi ăn cơm. Có nhiều khi chẳng cần ăn cơm trưa, đánh bài tới lúc giờ đi làm buổi chiều.

Trọng hất cái mền xuống cuối giường, thò chân xuống tìm đôi dép. Chiếc giường sắt kêu cót két.

– Dạo này mấy thằng Lầu Gương thức đêm trắng con mắt. Tàu bay nó bay hành quân suốt đêm. Những ngày không phải đi làm, chúng nó ngủ “ráp-pen”.

Trọng kéo chiếc khăn mặt, đi về phía phòng rửa mặt. Nắng chói mắt làm Trọng chớp mắt nhiều lần. Vườn cao su, lá rung động lấp loáng. Trọng nghĩ tới kiếp con vạc. Đi làm ban đêm rồi ban ngày ngủ bù. Trọng làm việc hai mươi bốn giờ rồi nghỉ bốn mươi tám giờ. Những giờ làm việc ban đêm trên Đài Kiểm-soát phi trường thì thật buồn ngủ nhưng khi về phòng, ít khi nào có thể ngủ trọn được một ngày.

Trọng úp mặt vào chiếc “la-va-bô” đầy nước cho tỉnh ngủ rồi chợt giật mình…nhớ lại cái “la-va-bô” này chúng nó đã rửa nhiều thứ. Trọng lẩm bẩm chửi thầm mấy thằng khốn nạn. Sống với lũ chúng nó, có phen rụng hết răng và đui luôn hai con mắt. Ngửng đầu lên, Trọng thấy khuôn mặt mình trong chiếc gương méo mó, ố vàng, chiếc gương độc nhất còn sót lại trong cái phòng rửa mặt mày.

Trọng ăn cơm ở Câu-lạc-bộ. “Ăn cơm Câu-lạc-bộ, ngủ Cư-xá độc thân.”… Rồi chết thì được chôn ở đâu? Đã nhiều lần, Trọng định ăn cơm tháng của một gia đình binh sĩ trong trại. Để tìm một chút không khí gia đình cho cuộc đời bớt tẻ nhạt. Nhưng Trọng chỉ chịu đựng được có hai tháng.

Những cảnh nhem nhếch của Trại Gia-đình Binh-sĩ mà Trọng phải chứng kiến hàng ngày đã làm Trọng ăn mất ngon. Những đứa trẻ lếch thếch bồng thêm một đứa em, tha thẩn trên sân như những con gà, con vịt…Những lúc ngồi chờ ăn cơm, có vài ba đứa xúm lại quanh Trọng:

– Bác cho cháu một tì…

Trọng móc túi lấy một nắm tiền lẻ, đưa cho đứa lớn nhất để chúng nó chia nhau…. Chỉ vài phút sau là có tiếng chí choé cãi nhau về việc chia không đều. Những đứa trẻ bù lu bù loa khóc, gọi bố, gọi mẹ ầm ĩ.

Rồi thì tiếng cãi nhau của người lớn bênh con. Rồi cuộc cãi nhau lan rộng khi nhắc đến chuyện để nước chảy qua nhà nhau, rút trộm củi hay chuyện mất gà, mất vịt từ “đời tám hoánh” nào cũng đem ra kể lể… Trọng như ngồi trên đống lửa.

Có tới đây, Trọng mới thấy một trăm bạc nó to như thế nào…Vợ người hạ sĩ, chủ nấu cơm tháng cho Trọng có một lần đi chợ về, đã hốt hoảng, mặt thất sắc, lục tìm khắp các túi vì tưởng mất một trăm bạc…Sau khi tìm ra trăm bạc để lẫn vào mớ giấy tờ, mắt mới sáng lên và khuôn mặt hí hửng như một đứa trẻ con được một thứ đồ chơi mong ước. Trọng tự nhiên thấy hối hận, nghĩ tới những buổi tiêu pha đầu tháng…Nhiều khi đã tiêu tiền như ném đi những số tiền đáng kể chỉ để mua một nụ cười, một câu nói đãi bôi ngoài miệng hay một tiếng khen suông hào phóng.

Hết tháng đó Trọng lại về ăn cơm Câu-lạc-bộ. Trọng nghĩ đến cuộc đời không vợ con, sống mãi ở trong cái cư xá độc thân mà buồn ghê gớm. Vợ người hạ sĩ đó cũng đã nổi tiếng một thời, cũng là hoa khôi của một trường nữ trung học, đã từ chối bao nhiêu người để bằng lòng làm vợ một anh lính tàu bay. Không biết có bao giờ chị hối tiếc hay không?…Trọng chắc là có.

Đã nhiều người con gái bị cái vỏ ngoài của “lính hào hoa” nó đánh lừa. Không-quân thích bay, thuộc về loài chim. Chim thường hay gáy, cái đó là lẽ dĩ nhiên.

Có một điều lạ, những em nghe tụi tàu bay nó gáy tin nhiều nhất, lại là những em con nhà lành. Còn những em con nhà “rách cứ bươm ra”, khi nghe anh tàu bay gáy thì xí một tiếng, môi dưới trề ra tới cả thước:

– Gáy hoài…Sức mấy!…

Có những lần, Trọng đứng lẫn vào đám phi công sau những lần Bắc phạt, để nghe lời đối thoại. Các ông phi công mặc đủ các màu áo. Từ màu đen cho đến màu xanh, màu đỏ. Những anh chàng phi công được các em nữ sinh người thơm như múi mít, choàng vòng hoa lên cổ. Một anh chàng tâm sự:

– Lúc đó, tao còn thấy hồi hộp hơn là cái lúc lao thẳng xuống, bấm một phát SALVO…

Trọng mỉm cười khi nghe những bản gáy. Những khuôn mặt trẻ trông rạng rỡ, sáng lên một cách đáng yêu. Như vậy, những người con gái của thành phố làm gì không yêu những chàng lính tàu bay vì khi ra ngoài thì chàng nào cũng là phi công hết.

– Tao chỉ sợ ông Hồ đầu hàng…

– Sao vậy mà?…

– Nếu ông Hồ đầu hàng, chúng mìn đâu có còn được đi Bắc phạt. Chúng mình đâu có được là anh hùng. Chúng mình đâu có còn được “dương liễu” mà mang. Chúng mình đâu có còn được những em thơm như thế kia, kiễng chân, rướn người lên quàng cái thòng lọng hoa vào cổ. Lúc em dơ hai tay lên để ôm lấy đầu tao, hơi người của em thổi phào qua, cái mùi của em thật quyến rũ đến muốn…chịu không nổi.

Trọng tự nhiên tìm thấy cái triết lý về người anh hùng. Khi nhìn một người anh hùng, mình chỉ nên đứng xa, thật xa. Như nhìn một vì sao…Càng xa, càng lấp lánh. Lại gần, nó bớt đẹp đi nhiều lắm. Lột trần một thằng người ra thì thằng nào bên trên cũng chỉ có hàm răng, bên dưới có một con chim dù rằng người đó, chữ “người” được viết bằng chữ hoa.

Có nhiều ngày nghỉ, Trọng về Sàigòn thăm Thắng. Thắng và Trọng thường đi uống rượu ở mấy cái quán đường Tự Do. Buổi tối thường la cà qua bên Khánh Hội. Trọng thích con đường bên Khánh Hội, với một bên đường tối mù mù, một bên thì nhiều ánh đèn xanh đỏ. Con đường sắt ở giữa đường gập ghềnh làm nẩy bánh xe, làm Trọng nhớ tới con đường tàu điện Hà-nội. Chỉ thiếu có tiếng chuông tàu điện kêu leng keng.

Những lần tới Khánh Hội, Thắng và Trọng cùng thấy mình sôi nổi máu giang hồ. Bao giờ thì mình lại được xách va-li, bước qua cái cổng có chữ “Messagerie Maritimes” làm lại một chuyến viễn du?…

Tới những quán bên Khánh Hội, Thắng và Trọng cũng vẫn thường gặp những anh chàng lính tàu bay. Những anh chàng này đi đến đâu cũng vẫn gáy.

– Trong Không-quân, anh làm gì?…

– Anh là phi công.

Trong cái quán rượu rẻ tiền này, toàn mùi thuốc lá, mùi nước hoa thợ cạo, chợt nghe tiếng đó, Thắng và Trọng cùng ngoái cổ lại nhìn. Thắng và Trọng hay có thói quen ngồi trên ghế cao ở quầy rượu. Ồ, cái anh chàng cai xếp chuyện việc đi coi tù làm những công việc thường vụ, cắt cỏ, đắp đường ở trong căn cứ, quét phòng, đốt công văn, vậy mà cũng là phi công sao?…Cái tiếng phi công đã bị mấy cái thằng đó nó “xài” cho rách mướp. Thấy Trọng và Thắng quay lại, nó chợt nhìn thấy nên lấy làm ngượng quá. Nó nhe răng ra cười, hàm răng lấp lánh có vài chiếc răng vàng. Em chiêu đãi viên thì mặt cứ nghệt ra. Chỉ cần nhìn cái đầu xoăn tít, cái mặt đánh phấn loang lổ của em cũng đã biết rằng, em vừa mới thoát cái kiếp “ma-ri sến”. Thắng và Trọng vội quay mặt đi. Anh chàng cai xếp đứng dậy, đi đến gần quầy rượu, ghé vào Thắng và Trọng thì thầm:

– Hai ông đừng phá mình, tội nghiệp!…

Thắng tủm tỉm cười, gật đầu thông cảm:

– Biết rồi mà…Cứ việc đấu đi….

Những lần đi chơi với Thắng, Trọng lại tìm được những giây phút ngày xưa. Những người bạn ngày xưa bằng đâu có còn lại được nhiều.. Có thằng chết còn xác, có thằng thì “lấy không gian ủ ấp hình hài…”

Thằng Pi-lốt Thái Bình cũng là một phi công, nhưng ít khi nó nhận là phi công. Nó chỉ tự xưng một cách khiêm nhượng là tài xế tàu bay. Cầm cần lái, cầm sừng trâu hay cầm vô-lăng, cái đó chỉ là một sự đi đến nơi, về đến chốn.

Nó bảo với Trọng:

– Thiên hạ cứ hay tô son, thếp vàng cho tụi tao thành ra nhiều khi tao đâm hoảng. Mẹ kiếp, ông mà cũng là anh hùng thì….chó thật.

Nhiều khi thấy Trọng buồn, tiện có tàu bay đi công tác, Pi-lốt Thái Bình thường rủ Trọng đi Nha Trang chơi. Trọng thường thích trêu thằng Pi-lốt Thái Bình để được thấy nó nổi giận. Trọng mở cánh cửa sắt mỏng, chống khuỷu tay lên bàn, hai tay chống lên má, nhìn hết các gầm ghế:

– Ê, tàu bay của mày sao không có chỗ đi tiểu?

– Hé cửa ra mà tưới xuống đầu, xuống cổ thiên hạ chứ.

Rồi Pi-lốt Thái Bình bắt đầu gáy về chuyện lái tàu bay. Nhiều khi nó bay trên biển, là xuống thấp để đi tiểu mà “con chim” của nó kéo lê trên mặt biển.

– Mẹ mày, chỉ được cái dóc tổ!…

Thằng Pi-lốt Thái Bình thản nhiên:

– Thật mà!… Cả cái vùng đó nó kéo túa ra xem vì tưởng rằng là rồng hút nước….

Pi-lốt Thái Bình kể những câu chuyện như vậy mà không thèm cười, thành ra Trọng cứ đành phải gật gù cái đầu, ra cái điều tin lắm. Cãi nhau với thằng này mệt lắm. Nó hỏi Trọng:

– Mày có đi Nha Trang không?

Trọng thộn mặt ra, giả vờ ngây thơ:

– Mày lái?

Pi-lốt Thái Bình vỗ vào ngực đánh độp một cái:

– Tao chứ còn ai nữa. Tao là tài xế tàu bay mà.

– Nhưng mà ông sợ mày đi lạc quá.

Pi-lốt Thái Bình lại nổi giận. Trêu được Pi-lốt Thái Bình nổi giận là một điều thật sướng. Nó nói như quát vào tai Trọng:

– Đồ ngu! Sàigòn, Biên Hoà đi ra Nha Trang mà sợ lạc. Từ Nha Trang về mới sợ lạc chứ!

Trọng ngạc nhiên:

– Lạ nhỉ…

– Lạ cái con khỉ!… Từ Biên Hoà đi Nha Trang, ông chỉ cần lấy hướng chéo ra bờ biển, khi gặp bờ biển rồi chỉ việc theo bờ biển mà bay thì thế nào mà không tới được Nha Trang.

Trọng phục nó sát đất…Nhưng rồi Trọng cứ thắc mắc không hiểu Pi-lốt Thái Bình làm cách nào để bay từ Nha Trang về Sàigòn. Theo bờ biển mà bay thì thế nào nó cũng tới Sihanouville…Nhưng chắc rằng nó phải có bí quyết vì giờ đây, Trọng và Pi-lốt Thái Bình đang đứng ở phi trường Biên Hoà.

Những người bạn xưa, đã già, những thằng phi công già như Pi-lốt Thái Bình thì chỉ nhận là một thứ tài xế. Còn những thằng không phải là phi công thì cứ vỗ ngực tự xưng là phi công. Pi-lốt Thái Bình đáng yêu ở chỗ đó. Chơi với bạn bè, không bao giờ có một sự kỳ thị cấp bực.

Khi các ông Tây về nước, các ông bạn Hoa Kỳ sang bên này, Pi-lốt Thái Bình than phiền:

– Nói chuyện với Xê Kỳ mỏi tay quá.

Nghĩa là nói phải nói chuyện bằng tay. Chúng nó gọi như vậy là nói tiếng quốc tế. Nhưng chỉ nửa năm sau, Pi-lốt Thái Bình đã bỏ được lối nói chuyện bằng tiếng quốc tế mà đã có thể nói chuyện bằng mồm. Nó rất tự phụ về cái điểm này và thường chửi đổng:

– Mẹ kiếp! Mình là phi công, mình nói thông được đến ba thứ tiếng mà sao vẫn rách như thường…

Lần này, nó định học nói tiếng Tàu. Như vậy, nó nói thông được bốn thứ tiếng. Kinh nghiệm của những chuyến xuất ngoại đã cho biết rằng cần phải học tiếng Tàu. Học tiếng Tàu thì đến đâu cũng ít khi bị đói vì ở xứ nào cũng đầy những chú “trois bateaux”. Nhưng biết nhiều thứ tiếng cũng có nhiều cái bất tiện vì nói tiếng nó cứ hay choang tiếng kia vào.

Nghe những lời tâm sự của Pi-lốt Thái Bình, chắc các em thành phố hết còn mơ tưởng đến các anh phi công. Cả đời nó, lúc nào cũng than đói rách. Chắc là vì nó ăn khoẻ quá. Chắc vì bao nhiêu tiền, vợ nó đã móc túi lấy hết. …Thằng Pi-lốt Thái Bình nhiều khi buồn lắm. Người ta chỉ có hai lần sung sướng. Lần lấy vợ và lần vợ chết. Thằng Pi-lốt Thái Bình đang chờ cái lần sung sướng thứ hai.

Những buổi sáng đi làm, Trọng thức dậy luôn từ sáu giờ. Chàng rón rén ra đầu nhà rửa mặt. Ánh đèn ngoài đường còn chưa tắt, vàng vọt soi bóng của Trọng lên tường. Nhiều khi, bóng đèn ở đầu nhà bị hỏng, Trọng rửa mặt trong bóng tối, chỉ nghe thấy tiếng nước chảy từ vòi nước xối mạnh vào chất men trong chậu cáu bẩn… Chàng phóng xe đi thay phiên trực cho những người bạn trên Đài Kiểm-soát Phi-trường.

Chiếc cầu thang xoáy trôn ốc, cao tít lên mãi tận lầu năm. Trọng làm việc trên đó. Mỗi một lần leo lên và leo xuống là cả một sự tốn sức lao động. Chàng leo lên bằng hai chân mỏi mệt, và cả bằng hai tay, bám chặt vào tay vịn để kéo cả người lên. Phía bên kia, sân đậu thấp thoáng bóng người. Cánh quạt quay nhiều vòng, hình ảnh những dãy phi cơ mờ mờ trong sương sớm.

– Có gì lạ không mày?…

– Đêm hôm qua, bay hành quân suốt đêm. Cả đêm không ngủ, mệt quá. Tao về…Còn phi tuần RED, cất cánh hồi bốn giờ sáng. Tao đã ghi vào sổ hết rồi..

Thằng bạn của Trọng mắt lờ đờ mệt mỏi, uể oải ký tên vào sổ bàn giao. Trên trời còn lác đác vài ngôi sao chưa kịp tắt. Đèn phi đạo còn sáng như rèm mi người con gái…Chiếc đèn trên nóc hồ nước, trên cao quay nhiều vòng sáng, tắt…

– Mày đi khám phi đạo chưa?

– Chưa…Nhưng thôi… Đêm qua nó cất cánh, hạ cánh suốt đêm. Tụi khốn nạn sức mấy mà dám đến đặt mìn.

Từ ngày có cái phi đạo bằng “bê-tông”, việc khám phi đạo mỗi buổi sáng được làm thật nhanh chóng. Không như những ngày còn cái phi đạo lót vỉ sắt. Khi thấy có vết đào xới trên phi đạo, phải báo cho an ninh phi trường biết. Nhiều khi, việc đó chỉ là “tác phẩm” của lũ chó hoang.

Vừa bước xuống cầu thang, thằng kiểm soát viên ban đêm chợt ngừng lại. Nó hỏi sau tiếng ngáp:

– À, cái đơn xin giải ngũ của mày, nó phê ra làm sao?…

Trọng trả lời chán nản:

– Nó dấu không cho biết…Nhưng tao lên phòng Hành Chánh lén xem được.

Trọng bĩu môi, chun cái mũi lại, nói tiếp:

– Chuyên viên cao đẳng ưu tú… Sự có mặt của đương sự rất cần thiết. Chấp thuận cho giải ngũ với điều kiện phải có người thay thế.

Trọng đá cái đống giây điện vào gầm bàn, thận trọng kéo hết các cần điện xuống, tắt đèn ngoài phi đạo. Trời sáng rồi. Đèn đầu phi đạo 27: OFF. Đèn đầu phi đạo 09: OFF. Đèn đường vận chuyển màu xanh biếc. Chiếc đèn bay trên nóc hồ nước.

Những buổi sáng, công việc đó làm thường xuyên như một cái máy. Trọng làm nghề kiểm soát viên không lưu này không có quyền quên một cái gì. Tất cả các nghề, kể cả nghề tài xế tàu bay, những con người máy đều có thể thay thế, riêng cái nghề của Trọng, không thể nào thay thế được bằng người máy. Một cái nghề mà chỉ có thực hành mới có thể dạy được nhiều. Những lý thuyết học được đều bỏ xó, ít khi mang ra áp dụng.

Hoàng, người bạn làm cùng một phiên việc và mấy người tân binh tập sự vừa tới. Thêm Phạm, anh chàng chuyên viên mây, mưa, nắng tới nữa làm cho cái lồng chim bồ câu thêm chật chội. Rừng Tân Phong mù mịt sương buổi sáng sớm. Tiếng thử máy vang trong máy vô tuyến:

– Alpha xin thử máy…

– Roméo xin thử máy…

Những người tân binh chụp vội lấy micro. Trọng mỉm cười…Những anh chàng mới vào nghề, hăng say làm việc, nhưng các bậc đàn anh lúc giao công việc cho, vẫn không rời đôi mắt cú vọ, nhìn ngắm và sửa chữa, lúc cần thì giựt lại. Những chiếc tàu bay bay mau, chỉ cần hơi sơ sẩy một chút cũng đủ ân hận cả một đời. Trọng đã nhìn thấy những ánh mắt thích thú của những người tân binh khi thấy những chiếc tàu bay cất cánh và hạ cánh theo lệnh của mình.

Khi giao cho những người tân binh làm việc, Trọng vẫn phải dè dặt và đề phòng những biến cố, mà sự thiếu kinh nghiệm đã làm cho vòng phi đạo rối beng…

– Ngày xưa, lúc tôi mới ra trường, thằng La Poussière nó cầm cái gậy to tổ bố. Làm sao nó gõ lên đầu. Mấy bạn bây giờ thật sướng…

-Thì Thượng-sĩ cứ làm như nó, vẫn được cơ mà…

Trọng nháy mắt:

– Để mấy cha đón đường đi Sàigòn, mấy cha đập tôi thì cũng đến chết. Mẹ, chẳng nên chơi dại…

Tiếng cười vang lên trong nắng sớm. Một chiếc phi cơ xin di chuyển và cất cánh đi Nha Trang. Bạn nào làm ơn gọi về Sàigòn xin dùm cái phép bay. Gió êm, cho cất cánh đường bay 27, cho đỡ chói nắng. Bắt đầu của một ngày đã nhộn nhịp tiếng đối thoại.

– Phép bay xin được rồi à, bạn nào đọc cho người ta chép đi.

Tiếng người tân binh ngập ngừng trong máy vô tuyến:

– A.T.C clearance, are you ready to copy?…

Trọng gật đầu, mỉm cười khuyến khích.

– Phép bay từ Biên Hoà đi Nha Trang, theo đường W4, giữ mực bay 115. Sau khi cất cánh, giữ hướng 045o lên cao 1500 bộ, liên lạc với Sàigòn trên tầng số 119.7

Trọng cười:

– Được lắm, nhưng lần sau nói chậm một chút để người ta còn chép và nhớ nhắc hắn đọc lại.

Người tân binh tập sự nghề, ngước mặt lên, hãnh diện nhìn Trọng. Chỉ cần vài năm nữa, mấy bạn sẽ có thể thay thế được tôi. Trong lại nghĩ tới câu “cần có người thay thế” trong lá đơn xin giải ngũ. Một chút buồn man mác.

Buổi sáng, từ sáu giờ tới tám giờ sáng, có ít tàu bay trong vòng phi đạo. Phạm đọc bản tin khí tượng đầu tiên trong ngày. Trời quang, tầm nhìn xa hai mươi lăm cây số. Áp lực dưới đất 29,85. Những người tân binh chép những tin tức khí tượng vào sổ, ngập ngừng và cẩn thận. Không như bọn Trọng, Hoàng.

– Các ông viết, chúng tôi đọc không nổi. Toàn những dấu hiệu…

– Rồi nó quen đi chứ. Nhiều khi nghe tàu bay đọc một thông điệp, chép như mấy bạn thì làm sao kịp…

Trọng lại nghĩ tới sự “có người thay thế” trong lá đơn xin giải ngũ của mình. Tới bao giờ thì những người tân binh này có thay thế được chàng?…

Miền Nam, hết mùa nắng là tới mùa mưa, trời mù đầy mây từ sáng tới tối. Phi trường Biên Hoà lại thật gần với phi trường Sàigòn. Phía Nam phi trường là hành lang không vận dành riêng cho Sàigòn. Những phi cơ đi và đến Sàigòn đều dùng hành lang đó. Trọng thấy cái không gian của mình thật hẹp vào những mùa mưa…

Vào những mùa mưa, Trọng thấy cuộc đời của mình cứ theo những đám mây nặng màu chì mà xuống thấp dần…Những người phi công trẻ có nhiều tính bốc đồng hay hỏi tại sao…”Tại sao vòng phi đạo trống thế này, không có phi cơ nào ở vòng chót, lại bắt tôi phải chờ, không cho tôi cất cánh?…” Nhiều khi Trọng làm thinh, không trả lời. Vì nếu trả lời thì nhiều lắm. Chẳng lẽ phải kể lể dài dòng như đàn bà. Rằng khi có một phi cơ đang làm phương thức xuyên mây, khi đã quẹo hết vòng thủ tục, đang giữ hướng trục phi đạo, đèn của người kiểm soát tiếp cận đã bật đèn đỏ thì không một phi cơ nào được cất cánh. Nói như vậy có vẻ như dạy đời. Những lúc như vậy Trọng nhìn sang Hoàng đang bù đầu với hàng dẫy “strip” màu xanh, màu đỏ:

– Ê Hoàng, “tớp tớp” nó đòi cất cánh.

Hoàng nhún vai, trả lời sau một cái búng tay bất cần:

– Cho nó cất cánh để nó chết à?…Nhưng thôi, mặc kệ nó, cho cất cánh đi. Bảo nó đừng có chui vào mây…

Chiếc phi cơ L19 chậm rãi cất cánh dưới trời mưa nặng hạt, trong lúc chiếc phi cơ lớn đã nhìn thấy đèn vị trí nhấp nháy ở tận đàng xa. Trọng lẩm bẩm khấn thầm.. Lạy trời, nó đừng có tống ga, làm phương thức xuyên mây lại…Lạy trời cho nó nhìn thấy phi đạo. Khi chiếc phi cơ lớn báo cho biết “runway in sight”, Trọng mừng như thằng Pi-lốt Thái Bình lần đầu tiên nghe tin vợ đẻ con trai.

Nhưng ông phi công trẻ đã được lợi thế một lần, lần sau lại đòi hỏi. Trọng và Hoàng nhức đầu vì những tiếng hỏi tại sao “Tại sao lần trước tôi cất cánh được, lần này lại không cho cất cánh?…” Trọng chán nản và ghét cái nghề này thậm tệ. Bởi vậy, Trọng ghét mùa mưa.

Những phi trường được giao việc kiểm soát viên không lưu xen kẽ. Sàigòn, Đà Lạt, Đà Nẵng thuộc về dân sự. Biên Hoà, Nha Trang, Pleiku thuộc về quân sự. Những anh chàng kiểm soát viên không lưu dân sự, vì được coi là tối cần thiết nên không bị động viên, mà có bị động viên cũng được cấp bậc sĩ quan, đứng trên đầu trên cổ mấy thằng kiểm soát không lưu quân sự, nên hay có những cử chỉ không đẹp. Hoàng phàn nàn:

– Mẹ, mấy cái thằng làm đài kiểm soát Sàigòn phách lối. Xin cái “clearance” mà phải chờ tới cả nửa giờ…

Trọng lơ đãng nhìn cái tàu bay C47 đang quay máy đứng chờ ở điểm đợi:

– Cứ cho nó cất cánh đi. Rồi khi nó lên trời mày bảo nó liên lạc với Sàigòn mà xin “clearance”…

– Nhưng rồi mấy thằng khốn kiếp ở Sàigòn lại cự nự sao lại để cho tàu bay làm loạn ở cái cao độ mà chúng nó đang xử dụng. Hôm nào nghỉ, ông về Sàigòn, đập vỡ mặt mấy cái thằng phách lối ở cái phi trường Tân Sơn Nhất.

Hoàng chỉ doạ suông như vậy nhưng rất ít khi dám đánh ai. Anh chàng thật dễ tính. Những người tân binh rất mến Hoàng vì dù có hỏi ngớ ngẩn thế nào, Hoàng cũng cố trả lời và giảng giải thật cặn kẽ. Nhiều khi còn kiêm thêm cả cái công việc dạy Anh ngữ. Dù rằng vợ con đùm đề, Hoàng vẫn còn nhiều tính đùa nghịch trẻ con.

Với tuổi lính già nua, Hoàng và Trọng đã trải qua nhiều thời đại. Thời vui nhất là thời Tây vừa về nước. Có lệnh phải dùng tiếng Việt trong tất cả các cuộc đối thoại giữa phi công và kiểm soát viên không lưu, trong khi đó chưa có bản dịch nào chính thức, thành ra mỗi thằng nói một kiểu, tùy theo lối hành văn của mình. Chỉ riêng có chữ “remettez les gaz” mà đã có dăm bẩy lối nói. Những thằng xấc, thích ra lệnh: tống ga, dọt!...Những thằng lễ phép có nhiều chất Khổng Tử nói dài dòng kiểu ngồi chơi xơi nước: yêu cầu tống ga, làm vòng phi đạo khác!…Thôi thì đủ kiểu…Nhiều khi những chữ đã quá quen thuộc mà lại khó dịch, chúng nó thường phát ngôn một cách lai căng, tiếng Tây pha lẫn tiếng Việt: số một hạ cánh, xin gọi lại ở final..

Trọng ngồi thoải mái trên chiếc ghế nệm thật êm có bánh xe phía dưới để dễ di chuyển. Vòng phi đạo đã đông phi cơ. Tất cả những việc xảy ra từ mười năm về trước mà như mới xảy ra từ hôm qua.

– Ê Trọng, tao đi ăn sáng…Khi nào tao về thì mày đi.

Trọng gật đầu…Hoàng bước vội vã xuống bậc thang. Cầu thang cao, nhìn xuống, nếu không quen thấy hoa mắt. Mỗi ngày, leo lên, leo xuống cả chục lần. Hoàng vừa cười vừa bước xuống thang:

– Mẹ kiếp, ăn sáng xong, leo lên cái cầu thang này lại thấy đói. Chẳng lẽ lại phải đi ăn sáng lại.

Tiếng giày bước xuống bậc thang chìm dần. Phi tuần RED, cất cánh từ lúc bốn giờ sáng đi hành quân đã trở về.

– Đài Kiểm-soát Biên Hoà, phi tuần RED, xong nhiệm vụ hành quân, 4 phi cơ A1H, xin vào vòng phi đạo và chỉ thị hạ cánh…

Mấy người tân binh nhìn Trọng….Thường thường ở những phiên việc khác, ít khi người trưởng phiên chịu để cho những người tập sự làm việc với phi cơ khu trục. Những chiếc phi cơ A1H hạ cánh tập đoàn. Bằng những con mắt nhà nghề, người kiểm soát viên không lưu ước lượng được khoảng cách có đủ an toàn để hạ cánh. Nhưng với Trọng, chàng muốn cho những người lính mới quen với hết tất cả. Trọng gật đầu khuyến khích:

– Bạn nào trả lời đi…

Hai ba cái bàn tay vội vã chụp vội lấy cái micro. Một sự sung sướng sáng rỡ trên những khuôn mặt trẻ.

– Phi đạo 27. Áp lực dưới đất 29,84. Gọi lại hai phút trước khi break.

Những giọng nói run run như giọng chim mới tập hót những bản ca vỡ lòng. Mắt người tân binh đăm đăm nhìn về hướng đông và cố nhìn để thấy bốn chấm đen tận phía chân trời.

Lòng Trọng cũng thấy vui lây. Hết năm nay, không biết mình có thể được giải ngũ?… Vài ba chiếc phi cơ xin cất cánh. Từng chiếc phi cơ lướt qua mặt Trọng nhẹ nhàng nhấc mình lên khỏi mặt đất, bánh xe xếp lại dưới bụng gọn gàng. Mây trắng nhẹ như bông bay nhè nhẹ in bóng lên khung cửa kính đài kiểm soát.

Bốn chiếc phi cơ làm break. Trọng đi tới, đứng bên cạnh người tân binh. Từng chiếc, từng chiếc chạm bánh xuống phi đạo êm ái. Đôi cánh đã không còn nặng chĩu bom.. Nghĩ tới những người vừa chết vì bom đạn, Trọng thở dài…

Lúc phi cơ chạy ngang đài kiểm soát, người phi công giơ tay vẫy Trọng. Chiếc mũ sắt sơn màu đỏ nổi bật trong cockpit. Cũng vẫn những hình ảnh ấy, bao nhiêu năm qua đi rồi.

– Đài Kiểm-soát Biên Hoà, đây C47 Echo Alpha.

– C47 Echo Alpha, Đài Kiểm-soát Biên Hoà nghe…

Trọng uể oải trả lời trong máy vô tuyến…”Phi đạo 27, vòng phi đạo bên phải….Áp lực dưới đất 29,84. Gọi lại ở gió xuôi”

Nắng đã lên, chiếu vào đài kiểm soát. Chiếc máy lạnh không đủ làm bớt cái nóng. Trọng quay đầu sang bảo Phạm đang hí hoáy viết trên cuốn sổ khí tượng chi chít dày đặc những con số:

– Mày mở dùm cái máy lạnh, số lớn nhất….

Phạm quăng cây viết xuống bàn, vươn vai rồi cúi xuống chiếc máy lạnh. Số lớn nhất rồi đó. Chắc là chiếc máy lạnh này sắp sửa được về hưu. Có một giọng nói quen thuộc trong máy vô tuyến:

– Có Trọng ở Đài không?…

Trọng cầm lấy cái micro:

-Trọng đang nói đây..

-Thắng đây. Lát nữa, chiếc Echo Alpha hạ cánh, xuống câu lạc bộ Tàu Bay ăn sáng với tao. Tao ở lại đây để đổ xăng chừng nửa giờ.

– Đồng ý…

Tiếp theo đó, một giọng nói thật oai trong máy vô tuyến, chắc là giọng một ông quan lớn:

– Yêu cầu dùng thủ tục đàm thoại vô tuyến… Xin đừng nói chuyện riêng trên tầng số của Đài.

Trọng và Thắng cùng im bặt…Những lời hẹn hò như vậy đã là tạm đủ. Ông lớn kia đã nhắc cho người ta biết là không được quyền nói gì ngoài những câu mà trong thủ tục đã ấn định. Nhưng các ông đã quên nhiều lần, khi những người kiểm soát không lưu đang bù đầu với công việc, như giải quyết những vụ phi công gọi xin khí tượng, hỏi gió ở mặt đất, yêu cầu cho chỉ thị hạ cánh, báo cáo vị trí của mình, nhắc lại clearance, khiếu nại một kẻ vi phạm luật lệ không lưu …, thì các ông chỉ gọi để hỏi những chuyện bâng quơ… Chiếc phi cơ này mấy giờ thì đến?… Điện thoại dùm về nhà tôi, để tài xế mang xe ra đón…Chạy đi kiếm cho tôi ông X… v.v… Người kiểm soát viên không lưu bao giờ cũng có một mặc cảm. Mặc cảm rằng mình lon nhỏ, còn các ông phi công thì lon lớn. Đã từ lâu, trong con người những người kiểm soát không lưu như Trọng, đã mất hẳn cái quan niệm khi làm việc là “một nghề giao thiệp với một nghề”.

Trọng thấy tiếc cái thời xa xưa, cái thời rất xa. Những kiểm soát viên không lưu có quyền mời phi công tới Đài để tranh luận về vụ vi phạm quy tắc không lưu. Tranh luận một cách thật bình đẳng. Những cái giấy báo cáo về vi phạm không lưu gửi đi, bao giờ cũng có kết quả, không như bây giờ. Trọng đã nghe Hoàng than thở:

– Những giấy vi phạm tụi mình gửi đi, không hiểu rằng qua nhiều hệ thống nên đã bị bay hết chữ, hay là có những cuôc “ça va” kín với nhau nên đã êm luôn. Còn những báo cáo về tụi mình thì bao giờ cũng có kết quả liền…

Trọng nghĩ đến lá đơn xin giải ngũ. Trọng tha thiết với chuyện đó dù biết rằng giải ngũ lúc nầy là trốn trách nhiệm. Nhưng mình sẽ làm công việc khác, có ích cho cuộc chiến đấu dai dẳng này hơn.

Hoàng đã về…đứng ở đầu cầu thang để thở. Leo lên hết năm cái cầu thang xoáy trôn ốc, thật là mệt. Những hôm bị cúp điện, Trọng và Hoàng phải thay phiên nhau leo lên, leo xuống để quay cái máy phát điện. Không dám sao những người tân binh vì sợ mang tiếng là “lợi dụng cấp bậc”, là “hối mại quyền thế”. Hoàng ngồi xuống ghế:

– Mày đi ăn sáng đi…

– Tao đi hơi lâu đấy. Có thằng Thắng “mê vô” của chiếc Echo Alpha rủ xuống câu lạc bộ Tàu Bay. Đi không, Phạm? Xuống gặp thằng Thắng, đấu láo cho đỡ buồn…

Phạm lắc đầu… Từ ngày mấy thằng khí tượng phải lên Lầu Gương làm việc chung với dân không lưu, Phạm ăn sáng trước khi đi làm rồi ngồi dính ở ghế cho tới lúc mười hai giờ. Hoàng dặn:

– Nhớ đừng lâu quá một giờ…

Trọng vừa bước xuống cầu thang thì Hoàng gọi lại:

– Đêm nay mày trực, có cần mấy ông tân binh không? Tao nghĩ chỉ cần hai người cũng đủ. Để cho họ chia phiên nhau nằm ngủ ở nhà cho đỡ mệt…

Trọng gật đầu rồi chậm rãi xuống cầu thang. Ánh sáng ban ngày soi rõ bộ mặt tang thương của những tầng lầu dưới. Cửa kính vỡ chưa được thay trong vụ pháo kích cách đây mấy tháng. Căn phòng nhỏ ngập bụi. Lăn lóc ở góc nhà, một khúc bánh mì ăn dở.

Đã một lần, thấy cái đài kiểm soát dơ quá, Trọng lấy cái chổi quét nhà, lấy khăn lau cửa kính. Trong khi đó, những người tân binh mắt lơ láo nhìn. Không may là ông Đại-úy trưởng phòng Hành-quân tới. Ông thấy Trọng cặm cụi làm công việc đó, mặt sa sầm, gọi tất cả những người tân binh lại:

– Các anh thấy ông thượng sĩ, trưởng phiên của các anh quét nhà, lau cửa kính mà các anh không có phản ứng gì sao?…Tôi sẽ phạt, không ký giấy trong một tháng..

Những người tân binh thoáng có một chút oán hận Trọng. Chàng rất băn khoăn về chuyện đó. Phải mất đến nửa tháng, tình thân mới được như trước. Ông Đại-úy, một người bạn cũ, bảo nhỏ Trọng:

– Mày chia những công việc thường vụ cho chúng nó làm. Hơi sức đầu mà những thằng lính già cứ làm mãi những công việc đó..

Trọng nhún vai:

– Ngày trước, tao bị Tây nó sai…Tao đã ghét và chán nản đến cùng cực bộ quần áo kaki. Bây giờ, mình phải tránh cho họ những cái đã làm mình khổ.

Trọng phóng xe xuống sân đậu, chờ chiếc phi cơ C47 của Thắng hạ cánh. Vài thằng thợ máy già lớn tiếng gọi Trọng:

– Ê, cái thằng chuồng Cu, xuống đây làm gì vậy?…

Trọng dựng xe vào trong lề cỏ, lững thững đi về phía sau những dẫy phi cơ. Trọng cười với các bạn quen, chỉ vào chiếc C47 đang bắt đầu quẹo vào vị trí gió xuôi.

– Tao chờ thằng Thắng… Nó sắp hạ cánh, rủ tao đi ăn sáng.

Sân đậu phi cơ nhộn nhịp. Những người chuyên viên vũ khí đang đưa bom lên nóc. Vài người phi công đứng gác chân lên bánh máy bay đứng nói chuyện với mấy tay thợ súng:

– Nghề này cũng nguy hiểm đấy chứ… Sơ sẩy một chút thì bom, rốc-kết, đạn 20 nó đâu có tha…

– Cái đó là cái chắc….Nhưng đâu bằng các anh lao đầu xuống mục tiêu trong lúc đạn phòng không phơi phới bay lên.

Những mẩu chuyện nhỏ lọt vào tai Trọng. Và người tân binh khiêng nặng nề những chiếc mâm đầy nhớt đi đổ vào lề cỏ. Chàng hỏi một thằng bạn quen:

– Sao nhớt chúng mày xả ra, chúng mày cứ bắt người ta mang đi đổ. Chúng mày không làm cái công việc đó được à?

Thằng thợ máy già cười vang…Nó xoay cái tuộc-nơ-vít gõ gõ nhẹ vào ngực mình:

– Khi tao mới ra trường, tao làm cái công việc ấy rồi. Tất nhiên là bây giờ, công việc ấy không phải là công việc của tao.

Trọng thẫn thờ ngắm những khuôn mặt trẻ. Tuy dầu mỡ nhem nhuốc nhưng khuôn mặt vẫn chưa hết nét thư sinh. Chàng thật tình thấy thương những người lính mới như thương những đứa em.

Hai người phi công mang dù, mang nón bay, đi ra sân đậu, sửa soạn một cuộc hành quân. Hai người đi vòng quanh chiếc phi cơ, lắc chiếc cánh cản gió, lắc chiếc cánh phía đuôi. Họ leo lên phi cơ. Người cơ trưởng leo lên theo, giúp những người phi công buộc dù, thắt lưng và đội mũ…Người cơ trưởng nhảy xuống đứng chéo trước mặt phi cơ. Một cánh tay giơ thẳng, một cánh tay vẽ thành nhiều vòng trong không khí.

Trong lúc đó, vài người cơ khí viên trẻ đẩy chiếc máy phát điện, cắm vào hông tàu. Chong chóng quay một vòng, hai vòng…Một đám khói màu xanh nhẹ, cuộn tròn, bay về phía sau, cánh quạt được trớn quay tít. Những người cơ khí viên rút máy phát điện, đẩy sang phía chiếc phi cơ khác, bước đi, đầu đưa về phía trước, một tay giữ chặt chiếc mũ “dô-kề”. Cánh quạt lại quay một vòng, hai vòng…

Trọng nhìn cảnh hùng tráng của người phi công ngồi trên chiếc phi cơ. Đôi môi mấp máy, đôi lông mày chợt cau lại vì không nghe tiếng trả lời…. Người phi tuần trưởng nhìn sang chiếc phi cơ bên cạnh. Người bạn đồng hành cười, hai tay đập nhẹ vào hai tai, lắc đầu…Người phụ trách về vô tuyến vội leo lên.

Người hạ sĩ vô tuyến nằm bò trên thành cửa phi cơ, đầu cúi hẳn vào lòng cockpit. Cánh quạt vẫn quay đều. Năm phút sau, người phi công giơ ngón tay cái lên trời. Người hạ sĩ vô tuyến nhảy xuống đất. Người cơ trưởng rút hai miếng gỗ chèn bánh xe. Hai cánh tay ngoắt về phía sau, phi cơ rời sân đậu. Người hạ sĩ vô tuyến cau có:

– Pi-lốt yếu quá. Quên cả việc bật máy vô tuyến sang chữ ON…Máy kêu không rõ mà cũng không biết điều chỉnh vặn “volume” cho nhỏ bớt lại…Cái gì cũng gọi.

Anh than phiền xong, xách ống nghe về những chiếc phi cơ khác, leo lên…Bravo thử máy!… Delta xin thử máy! … Lima xin thử máy!…

Sân đậu nằm trong lòng phi trường lúc nào cũng đầy khung cảnh hoạt động.

Phi cơ của Thắng đã rẽ vào bến. Cánh quạt quay mạnh vài vòng rồi tắt máy. Thắng mở mạnh cửa, nhảy từ phi cơ xuống lấy lá cờ đỏ cắm vào ống “pi-tô”. Trọng tới bên cạnh:

– Tao để xe ở ngoài kia. Tụi mình đi thôi..

Hai người bạn cũ đi về phía cuối sân. Mới tám giờ rưỡi mà vùng phi trường như bốc lửa. Tiếng động cơ gầm vang, hai chiếc khu trục cơ vừa cất cánh nơi đầu phi đạo 27.

Hai người đi vào câu lạc bộ. Tám giờ rưỡi, câu lạc bộ ít người, nhìn mặt, chỉ toàn là những tay thợ vịn và thợ lặn. Trong Không Quân có hai cái nghề là thợ vịn và thợ lặn là không có chỉ số, được anh em đặt tên một cách hài hước. Anh thợ vịn chỉ biết vịn, mồm lớn nhất mà ít làm việc. Còn anh thợ lặn, chỉ có mặt vào lúc điểm danh. Sau giờ đó, anh “lặn” mất tiêu, rất khó tìm thấy. Giang sơn của anh là câu lạc bộ, là một tấm nệm đặt trong xó tối góc nhà kho.

Thắng mượn chiếc điện thoại ở câu lạc bộ, gọi về kho xăng. Buổi sáng, trời đẹp như tất cả những buổi sáng miền Nam mùa nắng. Thắng xin xe xăng làm “plein” cho chiếc C47. Xăng 140 octanes. Kho xăng chỉ có hai xe “xi-tẹc” còn mắc bận đổ xăng cho những chiếc A1H tiếp tục hành quân. Thắng xin thời hạn nửa giờ. Chàng đặt chiếc điện thoại xuống ra ngồi bên cạnh Trọng, gần cửa sổ. Đằng sau câu lạc bộ, còn sót lại một vài cây cao su cổ thụ. Bên cạnh là căn nhà lầu ba từng mà hai người đã có bao nhiêu kỷ niệm của một thời rất xa. Bây giờ tất cả đã chia tay nhau, thỉnh thoảng mới gặp nhau ở phi trường cũ.

Thắng gọi một miếng bí-tết đúp, năm chục đồng. Một chai coca cola. Gọi thêm một miếng xăng-uých gà, gói mang đi. Trọng mỉm cười:

– Mày ăn sáng gần bằng thằng Pi-lốt Thái Bình rồi đấy nhé. Ăn sáng mà cứ như bị nhịn đói đến ba ngày…

Thắng nhếch mép, cười gượng:

– Những ngày tập cho phi công bay “không hành” thường là từ sáng cho tới tối mịt. Lần này, tụi tao cất cánh từ Sàigòn để đi Biên Hoà, Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng rồi trở về Pleiku, Đà Lạt và Sàigòn. Mệt muốn chết luôn. Tao phải ăn sáng thay cho cả buổi trưa. Buổi chiều mới có thể về Sàigòn đi đớp…

Trọng thấy thương thằng bạn thật nhiều…Cuộc đời của thằng thợ máy phi hành phi cơ vận tải cứ dính vào những chuyến bay dài dằng dặc. Một tháng, may ra được vài ba lần xuất ngoại, mua vải và transistor, nếu mà không bị thộp cổ, thì có thể tậu được cái xế bốn bánh.

Trọng uống một ly cà-phê thật đặc. Để cho ngủ mà tỉnh táo làm việc tới mười hai giờ trưa và thức suốt đêm nay. Người chủ quán đi ra bắt tay Thắng:

– Lâu quá mới gặp anh… Dạo này ra sao?…

– Vẫn thường…Có nhiều đô-la đổi bớt cho một ít..

Người chủ quán cười…Cái cười thật sáng của kẻ có tiền. Trọng không thích người chủ quán. Những người lính của phi trường này đã làm giàu nhiều cho ông chủ quán, nhưng ông chủ quán thường có nhiều cử chỉ không đẹp với những kẻ thiếu nợ. Người chủ quán đi vào trong quầy rượu. Thắng hỏi Trọng:

– Mai nghỉ, mày có về Sàigòn không?

Trọng ngập ngừng chưa muốn trả lời…Những cơn hứng thường nổi lên bất chợt. Tám giờ sáng, nếu buồn quá chàng lại phóng xe ra chợ chơi, rồi có nhiều khi chạy thẳng về Sàigòn. Nhiều khi chàng ở lại Thủ Đức vào hồ tắm bơi lội cho tới chiều rồi lại trở về Biên Hoà. Trọng thắc mắc:

– Có chuyện gì cần không?…

– Cần lắm. Nếu về, ghé qua phòng tao. Thằng Pi-lốt Thái Bình mấy ngày nay nằm ở phòng tao, một mình tao không thể nào khiêng nó trả về nhà cho vợ nó…Mai mày nên về Sàigòn giúp sức tao..

Trọng ngạc nhiên. Pi-lốt Thái Bình mà cũng nổi máu giang hồ, bỏ nhà đi hoang? Chắc phải có chuyện gì quan trọng. Từ xưa tới nay, ít khi nào nó dám bỏ nhà đi du hí suốt đêm. Thắng kể:

– Dạo này, nó có nhiều chuyện buồn… Vợ nó vừa mới đẻ con trai…

– Như vậy là chuyện vui chứ!…

– Nhưng nó đã có tới sáu đứa con. Mày cũng biết rằng, đứa con thứ sáu, chỉ được lĩnh có một nửa lương. Nó lo lắm vì vợ nó thuộc vào cái loại tốt nái, chồng chỉ cần đi qua đầu giường là bụng đã to…

Tiếng cười vang lên trong câu lạc bộ. Trọng thắc mắc vì chưa phải là cái cớ để cho Pi-lốt Thái Bình bỏ nhà đi giang hồ. Chàng hỏi Thắng:

– Thế rồi sao nữa?…

– Vợ nó nhất định đặt tên cho con là Long. Nhưng mà nó nhất định không chịu. Vợ nó giận lắm, hai vợ chồng cãi nhau ầm ĩ mà nó thì nhất định không thèm nói rõ lý do.

Trọng thở dài…Dù Pi-lốt Thái Bình không cần nói rõ lý do nhưng Trọng và Thắng cũng đã hiểu rõ. Những người bạn trong Không Quân có tên Long đều đã về với đất. Long Bô chết ở Nhà Bè. Long Rùa mất tích, đến bây giờ chưa tìm thấy xác. Long Chà chết ở Cần Thơ. Cách đây vài hôm, Long Con, ông thiếu tá đẹp trai đã chết ở phi trường này trong lúc hạ cánh, phi cơ bị hư thắng chạy hết phi đạo không ngừng lại được, tàu bay lộn mấy vòng ở cuối phi đạo.

Nếu đặt tên con là Long, mỗi lần gọi tên con lại nhớ tới những người bạn cũ, đã cùng chia với nhau từng khúc bánh mì, từng mẩu thuốc trong những ngày cuối tháng. Thắng nói tiếp:

– Tao cũng khuyên nó nên nói rõ chuyện đó cho vợ nghe, nhưng nó lắc đầu…Nó khóc, mày ạ. Những lần khác, thấy nó khóc mếu thì mình buồn cười, nhưng lần này nó khóc trông thảm lắm. Tao đành phải cầu cứu đến mày…

Trọng gọi thêm một ly cà-phê. Một cơn gió đưa vài ba chiếc lá bay qua cửa sổ. Tiếng động cơ làm point fixe, rú lên từ phía sân đậu. Hai người ngồi đối diện nhau, nhìn rõ khuôn mặt của nhau, đã mất đi nhiều nét học trò. Đầu Thắng đã có vài ba sợi tóc bạc. Thắng thở dài:

– Một chuyện buồn hơn nữa là nó vừa mất một chuyến mua hàng ở Thái Lan về. Lâu lâu, nó mới được đi một chuyến mà chuyến của nó lại đúng vào chuyến bị tịch thu.

– Nó mất cái gì?..

– Năm trăm hộp thuốc ngừa thụ thai Lyndiol 2,5.

Trọng giật bắn người…Giá tiền năm trăm hộp Lyndiol 2,5 không phải là nhỏ. Trọng nghĩ tới hoàn cảnh đau khổ của Pi-lốt Thái Bình. Với người vợ tốt nái, hay chửa đẻ, mua được thuốc ngừa thụ tai về để dùng thì lại bị tịch thu. Chàng thấy cần phải gặp Pi-lốt Thái Bình. Nếu bây giờ, về đến Sàigòn gặp nó, hỏi xin nó một hộp thuốc ngừa thụ thai, chắc là thế nào nó cũng nổi giận. Mọi khi Trọng và Thắng thích trêu cho Pi-lốt Thái Bình nổi giận nhưng ở trong trường hợp này, còn trêu chọc nó thì thật quả là đắc tội với Trời, với lương tâm…

– Sao nó không nói rõ cho cái thằng sĩ quan An Ninh mặt đen sì biết. Nếu cần thì kèm theo cả sáu cái giấy khai sinh …

– Mày còn lạ gì cái thằng hắc diện. Nó có bao giờ nghĩ tới tình bạn hay tình thương nhân loại gì đâu …Bố nó mang hàng lậu thì chắc nó cũng…thộp cổ luôn.

Trọng hỏi:

– Thế phải ứng của Pi-lốt Thái Bình? Nó có đeo đuổi chuyện đó, để có thể vớt vát lại một ít gì không? Năm trăm hộp Lyndiol 2,5 đâu có phải là ít của..

Thắng trả lời buồn buồn:

– Nó bỏ rơi ngay chuyện đó. Như một thằng đi buôn nồi đất. Khi nồi đã rơi xuống đất thì chắc chắn là vỡ rồi. Không bỏ đi luôn mà còn quay lại, thiên hạ thế nào cũng bắt quét dọn..

Thắng hay có lối ví von đặc biết như vậy….Hai người đi ra khỏi câu lạc bộ. Đường trong căn cứ bụi tung mù. Trọng và Thắng bước dọc theo con đường gập ghềnh sỏi đá. Đầu đường là một trường tiểu học của căn cứ. Những giọng hát trẻ thơ vang lên trong giờ hoạt động thanh niên.

Một đám trẻ con đang quay vòng tròn chung quanh cô giáo trẻ. Mái tóc dài buông lơi xuống đôi vai…Thắng thấy hiện lên hình ảnh của Thủy, người vợ sắp cưới của Trung lúc sắp chết cũng có một vẻ đẹp não nùng như thế này. Trung và Thủy, chỉ còn một tháng nữa thì tới đám cưới, đột nhiên Thủy lìa bỏ cõi đời. Thắng lẩm bẩm: “Ông Trời thật là …nhảm. Cái thằng làm phi công, suốt ngày đùa giỡn với cái chết thì lại sống nhăn răng để bù lu, bù loa khóc con vợ sắp cưới…” Thắng thấy thương cuộc tình duyên dang dở của Trung.

– Hôm nay, chúng mình chơi một trò chơi mới, các em nhé!

Mấy chục cái miệng xinh xinh reo lên vui thú:

– Trò chơi gì vậy cô?…

Cô giáo trẻ hất mái tóc ra đằng sau lưng thon đẹp:

– Chim bay, cò bay…

Thắng và Trọng dừng lại bên lề cỏ. Cô giáo trẻ chớp mắt, e thẹn. Trung ơi, có bao giờ mày tìm lại được hình bóng của người xưa đã mất rồi…Hai người đứng im không nói chuyện gì với nhau. Không còn chuyện gì để nói.

– Chim có bay được không?…

– Có, có…

– Thế thì khi nào cô nói chim bay, các em cũng nhảy lên nói chim bay…Nhớ chưa?…

– Dạ, nhớ rồi..

– Cái nhà có bay được không?…

– Không, không..

– Thế thì khi nào cô nói cái nhà bay, các em phải đứng im, nghe không?… Khi nào một cái gì không bay được, mà em nào nhảy lên thì bị phạt, đứng ra ngoài…Nhớ chưa?…

Thắng và Trọng cùng tìm thấy lại nét hồn nhiên thuở nhỏ. Ước gì mình trở lại được với tuổi thơ. Đụng chạm với đời nhiều, thấy đời có nhiều cái bất bình. Những người không thích phá phách như Trung, đã tìm thấy một cuộc tình duyên đẹp mà rồi cũng mất đi… Ngoài con người còn có Thượng Đế. Những cái mê tín không phải chỉ để dành riêng cho đàn bà. Thằng Pi-lốt Thái Bình không muốn đặt tên cho con là Long vì những người bạn tên Long đều không còn ở trên cõi đời này. Trọng thấy cái đẹp của mê tín và nghĩ rằng cái mê tín, đừng có nhiều quá, làm cho con người ta thêm một chút tí ti trí thức. Như những người phi công ít khi nào dám đi xe hơi màu đen, màu của tang tóc…

Chung quanh hai người, tiếng reo cười vang vang…

Trường Tiểu học được bao bọc một hàng giây kẽm gai. Một chút gì làm cay đắng lòng Trọng và Thắng. Những ý nghĩ trẻ thơ cũng không được tự do thoát ra ngoài cái không khí chiến tranh giết chóc.

Trọng đốt một điếu thuốc lá:

– Thằng Trung nó quên được Thủy chưa? Nghe nói thằng đó nó trung thành với kỷ niệm lắm…

Một đám mây che lấp mặt trời. Thắng chớp mắt:

– Nó tìm quên trong công việc… Nó nghỉ bay khu trục rồi. Bây giờ thì nó bay tàu bay trắc giác, đi tìm đài phát thanh của Vẹm. Nó lái loại tàu bay U6A, trang bị nhiều máy móc lắm. Những công việc nhức đầu như vậy, may ra có thể làm cho nó quên. Hôm nào, mày có hứng, thích bay sáu giờ đồng hồ từ lúc hoàng hôn xuống tới lúc nửa đêm thì cứ việc về Sàigòn, leo lên tàu bay của nó.

Trọng nghĩ đến công việc trắc giác để tìm kiếm đài phát thanh của địch. Công việc thật rắc rối.

– Nó vừa được ban khen vì tìm được một đài phát thanh của tụi giải phóng ở chiến khu D. Tụi B52 nó “cạo” tan nát hết, rồi cái đài phát thanh ấy tịt luôn. Cũng là một thành tích đáng ăn mừng đấy chứ…

Trọng cũng thấy vui vui…May ra thì Trung có thể quên được mối tình đầu đẹp ấy. Nắng đã lên cao, có lẽ đã tới hơn chín giờ. Thắng bảo Trọng:

– Cho tao về sân đậu.

Hai người đi về chỗ để xe. Học trò của trường tiểu học trong căn cứ đang xếp hàng vào lớp. Cô giáo trẻ đi sau cùng, còn ngoái cổ lại nhìn theo hai bóng người khuất vào nẻo đường sỏi đá.

Trong tiếng gió hoà lẫn tiếng máy xe ào ào, Thắng ghé vào tai Trọng nói như quát:

– Tao quên chưa báo cho mày biết một tin buồn. Tháng sau, tao cưới vợ rồi. Mình già rồi, phải không mày? Vợ tao nó quen với em Phượng của mày, tao đã xúi nó mời em Phượng đi phù dâu. Hôm đó, tao sẽ để cho mày ngồi cạnh em Phượng. Chịu khó xin lỗi đi…

Phượng…Phượng…! Cái tên đó lại làm sôi nổi một chút quá khứ đã chìm sâu trong lãng quên. Một sự giận dỗi giả vờ rồi tới một sự giận dỗi thật. Cả hai đều nhiều chất tự ái ở trong người, thành ra không ai muốn xin lỗi trước. Tuy có vài lần, thấy lòng mình buồn muốn khóc, Trọng muốn nối lại cuộc tình duyên ấy, nhưng khi đến đầu ngõ nhà Phượng, Trọng ngập ngừng một chút rồi lại quay trở ra.

Đưa Thắng về chiếc C47 Echo Alpha, Trọng quay xe trở về đài kiểm soát phi trường. Phi đạo nắng ngập đầy. Một chiếc L19 cất cánh, bóng lẻ loi, đơn độc, trông côi cút như một con gà lang thang. Trọng thở dài:

– Đêm nay trực, mình sẽ viết một lá thư thật dài cho Phượng….