← Quay lại trang sách

MẠCH NƯỚC DŨM HƯƠNG

Khoảng đầu tháng tám, thời tiết nóng nực kinh người: Vào kỳ này, từ mười hai giờ trưa đến ba giờ chiều, người kiên quyết nhất và chuyên tâm nhất cũng không thể đi săn được, và con chó trung thành nhất cũng bắt đầu "liếm gót giày chủ", nghĩa là đi bước một theo sau chủ, mắt nheo lại như bị đau, lưỡi thè lè; và để đáp lại những lời trách móc của chủ, nó khúm núm vẫy đuôi và lộ vẻ bối rối, nhưng không chạy lên phía trước. Tôi đã có dịp đi săn chính trong một ngày như thế. Tôi cưỡng lại hồi lâu cái ý muốn cám dỗ xui tôi tìm một chỗ rợp mát nằm nghỉ, dù chỉ trong chốc lát. Con chó không biết mệt của tôi vẫn tiếp tục sục sạo hồi lâu trong các bụi cây, mặc dù chính nó có lẽ cũng không hề mong đợi hoạt động ráo riết ấy sẽ đem lại cái gì có ích. Cái nóng ngột ngạt cuối cùng đã buộc tôi phải nghĩ đến việc gìn giữ chút sức lực và khả năng cuối cùng của chúng tôi. Tôi gắng lần đến sông Ixta, con sông mà các bạn đọc độ lượng của tôi đã biết. Tôi xuống bờ dốc, và đi trên cát vàng ẩm, tới chỗ mạch nước nguồn nổi tiếng khắp các vùng lân cận, mang tên là Mạch nước dũm hương.

Nguồn nước này vọt ra từ một kẽ nứt trên bờ mà dần dần đã biến thành một cái khe nhỏ và sâu; cách đây chừng hai chục bước, mạch nước reo vui ồn ào, đổ vào sông. Sồi non mọc thành cụm chi chít trên sườn khe. Gần nguồn nước, cỏ mọc xanh tốt, thấp và mượt như nhung. Ánh nắng mặt trời hầu như không bao giờ chạm tới làn nước lạnh trắng bạc của con suối nguồn này. Tôi đến được chỗ nguồn nước. Trên cỏ có một cái gầu bằng vỏ cây phong mà một người mujich qua đường đã để lại cho mọi người dùng chung. Tôi uống nước nguồn, nằm trong bóng rợp và nhìn xung quanh.

Gần cái vụng nhỏ do nguồn nước đổ vào sông tạo nên và vì vậy lúc nào cũng gợn sóng lăn tăn, có hai ông già ngồi quay lưng về phía tôi. Một người khá mập và cao, mặc áo kafơtan màu lá mạ thẫm khá tươm tất, đội mũ mềm có lưỡi trai, đang câu cá Người kia gầy gò, nhỏ nhắn, mặc áo dài xẻ vạt bằng vải mukhôiar ( [13] ) đã vá nhiều chỗ, không đội mũ, kẹp giữa hai đầu gối một bình đựng giun làm mồi câu và thỉnh thoảng đưa tay xoa mái đầu bạc, như muốn che nắng. Tôi nhìn người đó chăm chú hơn và nhận ra đấy là Xtêpuska ở Sumikhinô. Xin cho tôi giới thiệu người đó với bạn đọc.

Cách làng tôi mấy dặm, có một làng lớn tên là Sumikhinô với một ngôi nhà thờ bằng đá dựng lên để thờ thánh Kôzima và Đamian. Xưa kia, đối diện với nhà thờ là một toà nhà to, đẹp của lãnh chúa, xung quanh là những căn nhà phụ, xưởng thợ, chuồng ngựa, nhà trồng cây ( [14] ) và nhà để xe, nhà tắm, nhà bếp tạm thời, những gian đầu hồi dành cho khách và cho những người quản lý, những nhà lồng kính trồng hoa, những cột đu và những căn nhà khác ít nhiều có ích. Ở trong tòa nhà ấy là những địa chủ giàu có, và họ sống mới yên vui sung sướng làm sao, cho tới một buổi sáng kia, cái thiên đường ấy bỗng cháy sạch sành sanh. Các ông chủ dọn đi ở nơi khác; khu nhà bỏ hoang. Bãi tro tàn mênh mông biến thành một vườn rau đây đó rải rác những đống gạch chồng chất, di tích của những nền nhà trước kia. Người ta lấy những súc gỗ còn nguyên vẹn, dựng vội một túp nhà gỗ, lợp bằng ván thuyền mua từ mười năm trước, định để làm một cái quán theo phong cách gôtich. Bác thợ làm vườn Mitơrôfan cùng với vợ là Acxinhya và bảy đứa con được đưa đến ở đấy! Mitơrôfan được lệnh phải cung cấp hoa quả và rau cho bếp ăn của ông chủ ở cách đây một trăm năm mươi dặm. Acxinhya thì có nhiệm vụ coi sóc con bò cái thuộc loại bò giống Tirôn mua ở Matxcơva với món tiền rất lớn, nhưng tiếc rằng đã mất mọi khả năng sinh sản, vì thế từ lúc mua về đến giờ chưa hề cho sữa. Người ta cũng còn trao tận tay cho chị một con vịt đực màu tro xám có chòm lông trên đầu, con vật duy nhất thuộc loại gia cầm "của ông chủ". Trẻ con vì còn nhỏ tuổi, nên không được trao nhiệm vụ nào cả, điều đó khiến chúng đâm ra hoàn toàn lười nhác. Tôi đã có dịp ngủ đêm hai lần ở nhà người làm vườn này.

Nhiều lần đi qua nhà ông, tôi đã mua của ông những quả dưa chuột mà chỉ có trời biết là tại sao ngay cả về mùa hè, chúng cũng to khác thường, có vị ung ủng và vỏ dày, vàng choé. Chính ở nhà ông ta, lần đầu tiên tôi đã gặp Xtêpuska. Ngoài Mitơrôfan cùng gia đình và một viên bõ nhà thờ già và điếc tên là Ghêraxim, sống vì Chúa trong căn buồng nhỏ của một người vợ lính chột mắt, khắp vùng Sumikhinô không còn một gia nhân nào của nhà địa chủ, vì Xtêpuska, người mà tôi định giới thiệu với bạn đọc, không thể coi là người nói chung, cũng không thể coi là gia nhân nhà địa chủ nói riêng.

Mỗi người đều có ít ra một địa vị nào đó trong xã hội, và dầu sao cũng có những mối quan hệ này nọ. Mỗi gia nhân, nếu không có tiền công thì ít nhất cũng có cái gọi là "thực phẩm được cấp phát".

Xtêpuska thì chẳng được cấp đỡ gì cả, chẳng có họ hàng với ai, chẳng ai biết ông ta sinh sống ra sao.

Con người này thậm chí không có cả quá khứ, người ta không nói đến ông ta; những lần kiểm tra dân đinh, ông ta không được kể đến. Có tin đồn vu vơ rằng xưa kia ông ta là bồi phòng của một người nào không rõ. Nhưng ông ta là người thế nào, từ đâu đến, con ai, làm sao lại lọt vào trong số dân đinh Sumikhinô, ông ta làm cách nào kiếm được chiếc áo dài xẻ vạt bằng vải mukhôiar mà ông ta vẫn mặc từ đời thuở nào đến giờ, ông ta ở đâu, sống bằng gì - điều đó chẳng ai hay biết tí gì, mà cũng chẳng ai bận tâm đến những câu hỏi ấy. Cụ Tơrôifimts, một người biết gia hệ tất cả các tôi tớ nhà địa chủ ngược lên cho đến đời thứ tư mà cũng chỉ nói rằng đâu như Xtêpan là do một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ sinh ra. Đức ông lữ trưởng ( [15] ) Alêxây Rômanưts đã quá cố, sau một cuộc viễn chinh trở về đã đem theo người đàn bà này trong đoàn xe tải. Ngay cả trong những ngày hội, mà theo phong tục cổ của nước Nga, tất cả gia nhân đều được ban thưởng và được no say, được ăn bánh ngọt bằng bột lúa mạch và được uống rượu màu lục cất bằng các loại cỏ thì Xtêpuska cũng không bén mảng đến gần những chiếc bàn đã bày biện món ăn và những thùng rượu, không cúi chào chủ và đến hôn tay chủ, không uống thẳng một hơi hết cạn cốc rượu trước mắt ông chủ để chúc mừng sức khỏe của chủ, cốc rượu do bàn tay béo mỡ của người quản lý rót đầy. Xtêpuska không được hưởng tí gì, trừ phi có một người tốt bụng nào đi qua bớt cho kẻ khốn khổ một mẩu bánh ngọt ăn dở. Vào ngày lễ Phục sinh, người ta ôm hôn nhau, và cũng ôm hôn cả Xtêpuska nữa, nhưng ông ta không xắn cao ống tay áo đầy vệt mỡ, không moi trong túi sau ra quả trứng đỏ của mình, không vừa thở hổn hển vừa hấp háy mắt, đem quả trứng đến cho các cậu con chủ hay thậm chí cho cả bà chủ. Mùa hè, ông ta ở trong  gian chứa đồ phía sau chuồng gà, còn mùa đông, ông ở trong gian để quần áo trước khi vào nhà tắm.

Đêm nào rét lắm thì ông ngủ ở nhà chứa cỏ. Người ta nhìn ông đã quen mắt, đôi khi thậm chí còn đá cho ông một cái nhưng chẳng ai nói chuyện với ông, còn ông dường như cả đời chưa hề mở miệng ra bao giờ. Sau vụ cháy đã nói, con người bị ruồng bỏ này đến ở nhờ, hay như người buôn thường nói, đến "trú ngụ" ở nhà ông làm vườn Mitơrôfan. Người làm vườn không động đến ông ta, không bảo ông ta cứ ở cũng không đuổi ông ta. Mà thực ra Xtêpuska cũng không ở nhà Mitơrôfan: ông ta quanh quẩn ở vườn rau như cái bóng không hình. Ông ta đi lại và cử động êm ru, hắt hơi và ho thì đưa tay bịt miệng với vẻ sợ sệt. Lúc nào ông ta cũng bận rộn và lẳng lặng làm cái gì như con kiến. Và tất cả là để ăn, chỉ để ăn. Mà đúng là nếu Xtêpuska của tôi không chăm lo từ sáng đến tối về việc ăn uống của mình thì ông sẽ chết đói mất. Thật là cực nếu như buổi sáng ra không biết buổi chiều ta sẽ lấy gì để lấp cho đầy dạ dày? Khi thì Xtêpuska ngồi dưới dẫy rào và gặm một củ cải hay mút củ cà rốt, hay giậm một cây bắp cái bẩn thỉu cho nát vụn ra; khi thì ông ta xách gầu nước đi đâu không rõ và thở hì hụi; khi thì ông ta nhóm lửa để đun cái nồi đất con và lấy những miếng gì đen đen ở khoang ngực áo và ném vào nồi, khi thì ông ta dùng một khúc gỗ gõ cành cạch trong chỗ ở của mình, đóng một chiếc đinh, làm một cái giá treo nhỏ để miếng bánh mì của mình. Ông ta làm tất cả những việc đó một cách lặng lẽ, dường như lén lút: vừa thoáng nhìn đã không thấy ông ta đâu. Có khi ông ta bỗng vắng mặt vài ngày; tất nhiên chẳng ai nhận thấy sự vắng mặt của ông ta... Rồi lại thấy ông ta ở đây, lại thấy ông ta len lén vất những mảnh vỏ bào vào dưới cái giá treo nồi ở một chỗ cạnh hàng rào. Mặt ông ta choắt, mắt hơi vàng, tóc dài chấm tới lông mày, mũi nhọn, tai quá to, trông như tai dơi, râu đường như hai tuần chưa cạo, và không bao giờ thưa hơn, cũng không bao giờ rậm hơn. Tôi đã gặp chính Xtêpuska ấy đang ngồi trên bờ sông Ixta cùng với một ông già khác.

Tôi đến gần họ, chào hỏi và ngồi xuống cạnh họ. Tôi nhận ra ông bạn của Xtêpuska cũng là một người quen. Đó là một nông nô được giải phóng, trước là người của bá tước Piôtr Ilits. Tên ông ta là Mikhailô Xaveliep, biệt hiệu là Tuman ( [16] ). Ông ta ở nhà một tiểu chủ mắc bệnh lao, người này là người vùng Bônkhôpxki, chủ một nhà trọ mà tôi thường hay đừng lại nghỉ. Cho đến nay khi đi xe trên đường cái lớn của tỉnh Orion, những viên chức trẻ tuổi và những người bình dân khác (không kể những thương gia nằm lút người trong những túi đệm lông bọc vải kẻ sọc của mình và không thiết gì đến mọi sự đời) vẫn có thể nhận thấy ở cách làng Tơrôit không xa, có một tòa nhà gỗ hai tầng rất lớn, hoàn toàn bỏ hoang,  mái sụt đổ, các cửa sổ đóng kín mít. Tòa nhà này ăn lan ra tận đường cái. Buổi trưa, vào những ngày quang tạnh nắng ráo, không thể tưởng tượng ra một cái gì buồn hơn cảnh hoang phế này. Hồi xưa, bá tước Piôtr Ilits ở đây. ông ta là một vị đại thần giàu có thuộc thế kỷ trước, một người nổi tiếng mến khách. Có khi cả giới quý tộc tỉnh kéo đến nhà ông ta, nhảy múa và vui chơi thoả thích giữa tiếng nhạc thô thiển inh tai nhức óc và tiếng nổ giòn của các loại pháo hoa. Có lẽ bây giờ, khi đi qua tòa dinh cơ bỏ hoang của viên quan lớn, nhiều bà lão sẽ thở dài nhớ lại thời dĩ vãng và tuổi trẻ đã qua. Nhiều năm ròng, bá tước sống cuộc đời ăn chơi sung sướng, ông thường mỉm cười niềm nở, đi lại giữa đám khách khứa kính nể ông. Nhưng bất hạnh thay, tài sản của ông không đủ dùng suốt đời. Khi đã khánh kiệt, ông đi Pêtecxbua tìm một chức việc và chết trong căn phòng khách sạn mà vẫn chưa có được một quyết định bổ nhiệm nào cả.

Tuman là quản gia của ông và được làm giấy giải phóng ngay khi ông còn sống. Đấy là một người khoảng chừng bảy mươi tuổi, khuôn mặt đều đặn, dễ mến. Ông ta hầu như luôn luôn mỉm cười, bây giờ chỉ những người thời Ekatêrina mới mỉm cười như vậy: cười một cách nhân hậu, trang trọng. Khi nói chuyện, ông ta thong thả chìa môi ra và mím lại, nheo mắt thật âu yếm và nói hơi pha giọng mũi.

- Thế nào, ông Mikhailô Xaliêvits - Tôi mở đầu câu chuyện - ông câu cá đấy ư?

- Xin ông nhìn vào giỏ mà xem: hai con pecca, và năm con cá rói... Đưa cho ông xem, Xtepka.

Xtêpuska chìa cái giỏ cho tôi xem.

- Ông sống thế nào, ông Xtêpan? - Tôi hỏi ông ta.

- Cũng... c - u - ũng... tạm được, thưa ông, tùng tiệm thôi - Xtêpan trả lời ngắc ngứ, như dùng lưỡi đẩy bật ra từng lời nặng hàng pút.

- Thế Mitơrôfan có khỏe không?

- Kh- khỏe ạ, c-c-ố nhiên rồi... thưa ông. Ông lão nghèo quay đi.

" Không hiểu sao cá ít cắn tệ, - Tuman lên tiếng - Trời nóng quá. Cá rúc cả vào bụi cây để ngủ. Móc giun đi, Xtêpan (Xtêpuska lấy một mồi giun, đặt lên lòng bàn tay, nhổ vào bàn tay hai cái, -móc mồi vào lưỡi câu, nhổ bọt vào lưỡi câu và đưa cho Tuman). Cảm ơn, Xtêpa. Thưa ông - ông ta nói vôi tôi - ông đi săn đấy ạ?

- Thì ông thấy đấy.

- Dạ vâng... Thế chó của ông là loại chó gì đấy? Giống chó Anh hay chó Đan Mạch ạ?

Khi có dịp, ông già thích tỏ ra thình là người thông thạo: xưa kia chúng tôi đã từng sống trong giới thượng lưu đấy chứ!

- Tôi không biết nó thuộc giống chó nào, nhưng nó là con chó rất hay.

- Dạ vâng... Thế ông vẫn đem chó đi săn đấy ạ.

- Tôi có hai đôi.

Tuman mỉm cười và lắc đầu.

- Ấy thế đấy! Có người rất thích chó, có người thì cho không họ cũng chẳng cần. Cứ theo cái đầu óc thô thiển của tôi thì tôi cho rằng nuôi chó chỉ là để cho oai hơn mà thôi, nếu có thể nói như vậy...Kể cũng nên làm sao cho đủ lệ bộ: cả ngựa, cả những người quản chó đều phải có đủ, phải tươm tất, mọi cái khác đều cũng phải thế. Nói thực là ngài bá tước đã quá cố cả đời chưa từng bao giờ đi săn cả - cầu cho ngài được lên thiên đàng! - ấy thế mà ngài nuôi chó và mỗi năm hai lần, ngài vẫn làm ra bộ sửa soạn đi săn. Những người quản chó mặc áo đỏ có đính lon tụ tập ở sân và thổi kèn. Ngài bá tước bước ra, người ta dắt ngựa đến hầu ngài. Ngài lên ngựa, còn người điều khiển cuộc đi săn giúp ngài cho chân vào bàn đạp, nhấc chiếc mũ mềm trên đầu mình ra, đặt dây cương lên mũ và dâng lên ngài. Ngài quất chiếc roi da đánh đét một cái, còn những người quản chó hò hét và chạy biến ra khỏi sân. Người hầu ngựa ( [17] ) cưỡi ngựa đi sau bá tước, tay cầm sợi dây lụa buộc vào cổ dề hai con chó quý của chủ, và anh ta đưa mắt quan sát mới oai vệ chứ, hẳn ông cũng biết đấy... Anh ta ngồi ngất nghểu trên cái yên ngựa Côdăc, má đỏ hồng, cặp mắt đưa đẩy. Và tất nhiên, dịp này thường có khách khứa. Vừa là cuộc vui lý thú, lại vừa long trọng... ôi chao, xổng mất rồi, thật là ngớ ngẩn! Ông ta giật cần câu, và bỗng nói thêm.

- Này, nghe đồn bá tước ăn chơi ghê lắm phải không? - Tôi hỏi.

Ông già nhổ bọt vào mồi giun và quăng dây câu.

- Ngài là một bậc đại quý, rõ là như thế. Những bậc có thể nói là vai vế nhất ở Pêtecxbua thường đến thăm ngài. Các vị ấy đeo những cuống huân chương màu xanh, ngồi bên bàn tiệc. Còn ngài bá tước thì chúa là hay thết tiệc. Có lần, ngài gọi tôi tới: "Tuman - Ngài nói - ngày mai cần có cá xteclê  sống: anh hãy ra lệnh kiếm bằng được cho tôi, nghe chưa? " - "Dạ, xin vâng, thưa ngài". Ngài đặt mua từ Paris những chiếc áo thêu, những bím tóc giả, những chiếc can, nước hoa lađêcôlôn ( [18] ) hạng nhất, những hộp đựng thuốc lá ngửi, những bức tranh to ơi là to. Khi ngài mở tiệc lớn thì lạy trời; đấng chúa tể của đời tôi! - pháo hoa như sao sa, trò chơi trượt băng. Thậm chí còn bắn cả đại bác. Chỉ riêng đội nhạc đã có đến bốn chục người rồi. Ngài nuôi một nhạc tràng ( [19] ) người Đức, gã người Đức này lên nước quá lắm: y muốn ăn cùng với các ông lớn; thế là ngài ra lệnh tống khứ y đi: chẳng cần y thì nhạc công của ta cũng hiểu rõ công việc của họ rồi, ngài bảo thế. Uy quyền của lãnh chúa thì ai mà chả biết. Người ta khiêu vũ, khiêu vũ thâu đêm suốt sáng, và được ưa chuộng nhất vẫn là điệu... lakôxezơ – matơrađura ( [20] )... Hè, hè... chú mày bị rồi!(ông già giật lên được một con cá mang mổ nhỏ).

Này, Xtêpa... Một vị quý tộc, một vị quý tộc xứng đáng. - Ông già nói tiếp và lại quăng dây câu - và cũng nhân đức nữa. Có khi ngài đánh chúng tôi, đánh rồi là quên ngay. Duy có điều là ngài bao các ả nhân tình. Ôi, những ả nhân tình ấy, cầu Chúa xá lỗi cho ngài! Chính họ đã làm ngài khuynh gia bại sản. Mà ngài chọn toàn những ả thuộc tầng lớp hèn kém. Bọn họ được như thế tưởng còn mong gì hơn nữa? Ấy vậy mà không đâu, phải cho họ những thứ đắt tiền nhất châu Âu kia! Kể thì cũng phải thôi: tội gì mà không... hưởng hết lạc thú trên đời, thế mới xứng là người quyền quý...nhưng không nên vung tay quá trán đến nỗi khuynh gia bại sản.

Có một cô nàng thật đặc biệt: tên cô ta là Akulina; bây giờ thì là người thiên cổ rồi, cầu cho bà ta được lên thiên đàng! Đấy là một cô gái con nhà dân thường, con một viên trương tuần ở Xitôp, vậy mà đáo để lắm nhé! Có khi cô ta tát bá tước. Cô ta đã làm cho bá tước si mê. Thằng cháu trai tôi bị cô ta khiến cho phải gọt trán ( [21] ). Đúng thế... Nhưng dù sao thời ấy vẫn là một thời tốt đẹp! - ông già nói thêm, thở dài, cúi mặt xuống và im bặt.

- Theo tôi biết, ông chủ của ông nghiêm khắc lắm phải không? - Tôi nói, sau một lúc im lặng.

- Đấy là kiểu cách được ưa thích thời bấy giờ, thưa ông. - Ông già lắc đầu, bác lại tôi.

-Bây giờ thì không như thế nữa - Tôi nói, mắt vẫn nhìn ông ta.

- Bây giờ thì đã đành là khá hơn - ông ta nói lúng búng và quăng dây câu ra xa.

Chúng tôi ngồi trong bóng rợp, nhưng ngay trong bóng rợp cũng vẫn cảm thấy ngột ngạt.

Không khí nặng nề, oi ả như không hề chuyển động. Mặt nóng bừng bừng, buồn rầu chờ đón gió, nhưng không có lấy một phẩy gió. Từ trên bầu trời xanh đã trở nên sẫm màu, vừng dương rọi xuống những tia nắng gay gắt. Ở bờ bên kia, ngay trước mặt chúng tôi là cánh đồng lúa mạch vàng rực, rải rác đây đó chồi lên những đám ngải, và không có  lấy một bông lúa lay động. Xuống dưới chút nữa, một con ngựa của nông dân đứng dưới sông, nước ngập đến gối, uể oải vẫy cái đuôi ướt. Thỉnh thoảng, dưới bụi cây là là thấp trên mặt nước, một con cá lớn ngoi lên, nhả tăm và nhẹ nhàng lặn xuống đáy, để lại những làn gợn lăn tăn. Dế nhảy tanh tách trong đám cỏ màu đỏ hung. Chim cun cút cất tiếng kêu như miễn cưỡng. Những con diều hâu bay lượn nhịp nhàng trên cánh đồng và thường dừng lại ở một chỗ, cánh đập nhanh và đuôi xòe ra như cái quạt. Chúng tôi ngồi không nhúc nhích, mệt lử vì nóng nực. Bỗng có tiếng động ở cái khe phía sau chúng tôi: có người đang đi xuống chỗ mạch nước. Tôi ngoảnh lại nhìn và thấy một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, bụi bám đầy người, mặc sơ mi, đi giày bằng vỏ cây, khoác cái bị và vai vắt chiếc áo khoác. Người đó tới gần nguồn nước, uống một cách thèm thuồng rồi đứng lên.

- Này, Vlax! - Tuman gọi to, sau khi đã nhìn kỹ người đó - Chào ông bạn. Chúa đưa ông từ đâu đến đấy.

- Chào ông Mikhailô Xaliêvits. - Người mujich vừa nói vừa đến gần chúng tôi - Tôi từ xa về.

- Ông đi đâu biệt tăm thế? - Tuman hỏi ông ta.

- Tôi lên Matxcơva, tìm gặp ông chủ.

- Để làm gì?

- Tôi lên kêu cầu một việc.

- Việc gì vậy?

- Xin ông chủ giảm tô hay đưa tôi sang làm tạp dịch, hay truyền cho tôi đi đâu thì đi... Con trai tôi chết rồi, bây giờ một mình tôi không kham nổi.

- Con trai ông mất rồi à?

- Mất rồi. Trước đây con tôi làm nghề đánh xe ở Matxcơva - Người mujich nói thêm, sau một lúc im lặng - Phải nói thực là nó trả tô thay cho tôi.

- Thế ra bây giờ ông làm theo chế độ tô rồi à? - ông chủ bảo sao?

- Bảo sao ấy à? ông chủ đuổi tôi ra và bảo: sao mày dám xộc thẳng vào gặp ta, việc này đã có viên quản lý, mày phải trình với quản lý trước đã... mà ta chuyển mày đi làm việc gì được bây giờ? Mày hãy nộp đủ phần còn thiếu đi đã. Ông ấy nổi trận lôi đình.

- Thế là ông đành quay trở lại chứ gì?

- Thế là tôi đành quay về. Tôi toan dò hỏi xem thằng con tôi chết đi có để lại của cải gì không, nhưng chẳng có kết quả gì. Tôi nói với ông chủ của nó: "Tôi là bố của Filip đây". Còn ông ấy bảo tôi: "Ta làm sao mà biết được? Vả lại con trai ngươi chẳng để lại cái gì; nó còn nợ ta là đằng khác". Thế là tôi đành ra về.

Người mujich kể với chúng tôi tất cả những chuyện đó với nụ cười mai mỉa như nói về người khác, nhưng đôi mắt nhỏ nheo lại của ông long lanh giọt lệ, đôi môi giật giật.

- Bâygiờ ông làm thế nào, về nhà chứ?

- Chứ còn đi đâu nữa? Tất nhiên là về nhà thôi. Vợ tôi bây giờ hẳn là đói bò lê ra rồi đấy.

- Ông nên... ờ... - Xtêpuska đột nhiên lên tiếng, rồi bối rối, im bặt và bắt đầu lục bới trong cái niêu con đựng mồi câu.

- Thế ông sẽ đến gặp viên quản lý chứ? - Tuman nói tiếp, nhìn Xtêpa, vẻ hơi ngạc nhiên.

- Tôi đến gặp ông ta làm gì kia chứ?... Tôi vẫn còn đang thiếu tô cơ mà. Trước khi chết, con trai tôi ốm chừng một năm, vì thế nó không nộp được phần tô của nó... Tôi tuy rủi mà vẫn còn may: tôi chẳng có cái gì để người ta lấy đi được... Chà, ông quản lý ạ, ông muốn mưu mẹo thế nào mặc lòng, ông không moi nổi tí gì đâu: tôi vốn quen nhẫn nhục mà? (Gã mujich cười phá lên). Ông muốn khôn khéo thế nào thì khôn khéo, Kintilyan Xêmênưts ạ, chỉ toi công thôi...

Vlax lại bật cười.

- Sao lại thế, như vậy là không tốt đâu, chú Vlax ạ - Tuman nói rành từng tiếng.

- Không tốt cái gì kia? Không... (tiếng nói của Vlax bặt đi một lúc). Nóng nực kinh người - ông ta nói tiếp và đưa tay áo lên lau mặt.

- Chủ của ông là ai?  Tôi hỏi.

- Bá tước Valêrian Pêtơrôvits.

- Con trai Piôtr Ilits à?

- Con trai Piôtr Ilits - Tuman đáp - Ngài bá tước đã quá cố đem làng ông Vlax trao cho con trai ngay từ khi ngài còn sống.

- Ông ấy khỏe chứ?

- Nhờ ơn Chúa, ông ấy vẫn khỏe - Vlax đáp  Hồng hào lắm, mặt cứ múp lên.

- Thế đấy, ông ạ - Tuman tiếp lời, nói với tôi - Thu tô của nông dân quanh Matxcơva thì cũng phải thôi chứ lấy tô ở đây thì có gì mà lấy.

- Thế mỗi hộ ( [22] ) phải nộp bao nhiêu?

- Chín mươi nhăm rúp - Vlax nói lí nhí.

- Đấy ông thấy không. Thế mà ruộng đất thì có gì đâu, chỉ toàn là rừng của ông chủ thôi.

- Mà ngay cả rừng nghe đâu cũng bán rồi - Người mujich nói.

- Đấy, ông thấy không... Xtêpa, cho mồi đây...Thế nào, Xtêpa? Sao, anh ngủ đấy à?

Xtêpuska giật mình. Người mujich đến ngồi cạnh chúng tôi. Chúng tôi lại im lặng. Ở bờ bên kia, có người nào cất tiếng hát ngân nga, bài hát rất não nề... Vlax khốn khổ của tôi trở nên rầu rĩ...

Nửa giờ sau, chúng tôi chia tay nhau.