NGƯỜI THẦY THUỐC Ở HUYỆN
Có lần vào mùa thu, trên đường về sau một chuyến đi săn ở nơi xa, tôi bị cảm lạnh và đâm ốm. May thay, tôi lên cơn sốt ở huyện lỵ, trong một khách sạn. Tôi cho người đi tìm bác sĩ. Nửa giờ sau, viên thầy thuốc ở huyện đến. Anh ta tầm vóc nhỏ, gầy tóc đen. Anh ta kê cho tôi một thứ thuốc ra mồ hôi thường dùng, bảo đặt thuốc cao hột cải, và luồn đồng năm rúp vào ve tay áo một cách rất khéo léo, nhưng đồng thời ho khan một tiếng và nhìn ra chỗ khác. Anh ta đã toan ra về thì tự nhiên lại thích nói chuyện và ở lại. Cơn sốt làm tôi mệt lử; tôi thấy trước một đêm mất ngủ và rất vui sướng được tán gẫu với một người tốt bụng. Người ta đưa trà lên.
Người bác sĩ của tôi bắt đầu nói chuyện. Anh ta là một gã trai không đần chút nào, nói năng hoạt bát và rất lý thú. Trên đời này thường xảy ra những việc lạ lùng: có người thì ta chung sống lâu dài với họ, có quan hệ thân thiết với họ, nhưng chưa lần nào nói chuyện tâm tình với họ; có người khác thì vừa mới quen nhau, ta hoặc người đó đã thổ lộ hết tâm can như lúc thú tội. Tôi không biết tôi có cái gì đáng cho người bạn mới của tôi tin cậy, có điều là tự dưng vô cớ, như người ta thường nói, anh ta bỗng kể với tôi một câu chuyện khá đặc sắc. Bây giờ tôi xin thuật lại với bạn đọc hào hiệp câu chuyện anh ta kể. Tôi sẽ cố dùng cách nói của người thầy thuốc.
Anh ta bắt đầu nói, giọng bỗng yếu đi và run run (đấy là do tác dụng của thuốc lá Bêrêzôp không pha trộn).
- Thưa ông, ông có biết ông thẩm phán Paven Lukits Milôp ở đây không ạ? Ông không biết ư...Thôi, cũng chẳng sao. (Anh ta ho và giụi mắt). Câu chuyện là thế này, không biết ông sẽ có ý kiến ra sao, nhưng tôi không bịa đặt đâu. Hôm ấy là vào tuần chay, giữa kỳ tuyết tan. Tôi đến chơi nhà ông thẩm phán của chúng tôi và đang chơi bài. Ông thẩm phán của chúng tôi là người rất tốt và thích chơi bài. Bỗng nhiên (người thầy thuốc của tôi thường dùng tiếng: bỗng nhiên) người ta bảo tôi: có người hỏi ông. Tôi hỏi: người ấy cần gì? Người ta nói là người đó đưa đến một lá thư, chắc là của người ốm. Tôi bảo đưa thư cho tôi: đúng thế thư của người ốm. Tốt thôi, ông hiểu chứ, miếng bánh ăn hàng ngày của chúng tôi mà... Sự tình là thế này: một bà địa chủ góa viết giấy cho tôi; đại khái là: con gái tôi sắp chết, vì đức Chúa của chúng ta, xin mời ông đến thăm bệnh giúp, và tôi cho xe ngựa đến đón ông. Điều đó cũng chưa có gì đáng chú ý... Nhưng bà ta ở cách huyện lỵ hai chục dặm, (lại giữa đêm hôm như thế, mà đường sá thì khiếp lên được? Thêm nữa, bà ta cũng đang lâm vào cảnh nghèo túng, không thể trông đợi bà ta bỏ ra quá hai rúp được, mà ngay hai rúp cũng chưa chắc, có khi chỉ được ít vải và ít hạt gì đó. Nhưng, ông hiểu đấy, nhiệm vụ trên hết: người bệnh sắp chết. Tôi bỗng trao bài cho Kanlôpin, một chân dự bị lúc nào ông có mặt ở đây, và tôi trở về nhà. Tôi thấy một chiếc xe ngựa nhỏ đỗ trước bực tam cấp. Ngựa thì đúng là ngựa của nông dân: bụng to phệ, lông y hệt như dạ ép, còn người đánh xe thì ngồi không đội mũ để tỏ ý kính trọng tôi. Tôi nghĩ: người anh em ạ, rõ ràng chủ anh không phải là đang giẫm trên vàng bạc... Ông cười ư, nhưng tôi xin nói với ông rằng: bọn nhà nghèo chúng tôi là hay để ý lắm kia... Nếu người đánh xe ngồi như ông hoàng, không vò mũ trong tay, thỉnh thoảng lại cười dưới vòm râu và ve vẩy roi thì cứ mạnh bạo giã hai tờ mười đồng! Còn đây thì không có hơi hướng tiền bạc gì cả. Nhưng làm thế nào được, bổn phận trên hết, tôi nghĩ vậy. Tôi lấy những thứ thuốc cần thiết nhất và ra đi. Ông nên biết rằng tôi phải trầy trật lắm mới lần được đến nơi. Đường sá quái ác: suối, tuyết, bùn, hồ nước, rồi đột nhiên lại vỡ đê nữa chứ, thật là tai ách. Nhưng tôi đến nơi rồi. Một căn nhà nhỏ lợp rơm. Các cửa sổ có ánh sáng: chắc người ta đang chờ. Tôi vào. Một bà lão hết sức đáng kính, đội mũ chùm đầu ra đón tôi. Bà ta nói. "Xin ông cứu lấy con gái tôi, nó sắp chết rồi". Tôi nói:
- Bà đừng lo... cô gái ốm đâu - "Xin mời ông vào đây." Tôi quan sát: căn buồng nhỏ sạch sẽ, trong góc nhà có cây đèn, một cô gái trạc hai mươi tuổi nằm mê man trên giường. Người cô ta bốc hơi nóng hừng hực, cô thở hổn hển: đang lên cơn sốt. Ở đấy có hai cô em, coi bộ sợ hãi, nước mắt chan hoà. Họ nói: "Hôm qua chị ấy còn khỏe mạnh và ăn ngon miệng. Sáng hôm nay chị ấy kêu đau đầu, đến chiều thì đột nhiên bị như thế..." Tôi lại nói: "Xin đừng lo" - Ông biết đấy, người thầy thuốc thì phải làm như thế thôi, và tôi bắt đầu thăm bệnh. Tôi trích máu cho cô ta, bảo người ta đặt cao hạt cải, kê đơn sắc thuốc. Lúc đó tôi nhìn cô ta, tôi nhìn và ông biết không, xin thề là tôi chưa từng thấy khuôn mặt nào như thế... tóm lại là đẹp tuyệt trần! Tình thương bỗng dậy lên trong lòng tôi. Nét mặt duyên dáng làm sao, đôi mắt... Kìa, nhờ ơn Chúa, nàng đã đỡ mệt, mồ hôi toát ra, hình như nàng đã hồi tỉnh, đưa mắt nhìn quanh, mỉm cười, đưa tay quờ lên mặt... Hai cô em cúi xuống hỏi: "Chị thấy trong người thế nào?" - "Chẳng sao cả" - nàng nói và quay đi. Tôi thấy nàng thiêm thiếp ngủ. Thôi được bây giờ nên để người bệnh được yên tĩnh. Tất cả chúg tôi rón rén đi ra ngoài, chỉ còn một cô hầu phòng ở lại để trông nom người ốm. Còn trong phòng khách thì trên bàn đã đặt ấm xamôva, có cả chai rượu Rum nữa: trong công việc của chúng tôi, thiếu cái đó thì không được. Người ta pha trà mời tôi, nài tôi nghỉ lại đây... tôi ưng thuận: đi đâu được bây được? Bà già luôn mồm rên rỉ. "Sao lại thế, thưa bà- tôi nói - cô ấy sẽ sống, xin bà đừng lo, tốt hơn hết là bà cũng đi nghỉ đi: đã một giờ hơn rồi!".
-Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra, ông sẽ bảo người nhà đánh thức tôi chứ?" - "Dạ vâng, thế nào tôi cũng bảo người nhà mời bà đến ạ!". Bà già lui gót, còn các cô gái cũng về phòng mình. Người ta trải giường cho tôi trong phòng khách. Tôi đi nằm nhưng không thể ngủ được, kỳ lạ làm sao? Lòng tôi đau khổ khôn cùng! Hình ảnh cô gái ốm cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Cuối cùng, không nén lòng được, tôi bỗng trở dậy. Tôi nghĩ: ta đi xem xem con bệnh như thế nào. Buồng của nàng ở ngay cạnh phòng khách. Thế là tôi trở dậy, khẽ mở cửa, tim tôi đập thình thịch. Tôi thấy: ả hầu phòng ngủ, miệng há hốc và còn ngáy ầm lên nữa chứ, đồ súc vật. Còn người ốm nằm quay mặt về phía tôi, hai tay khua lung tung, khổ thân nàng? Tôi đến gần... Nàng bỗng mở choàng mắt và nhìn chằm chằm vào tôi..."Ai đấy? Ai đấy?" Tôi ngượng. "Đừng sợ, thưa tiểu thư - tôi nói - tôi là bác sĩ, tôi đến thăm xem sức khỏe của tiểu thư như thế nào. - "Ông là bác sĩ à"? - "Vâng, bác sĩ... thân mẫu tiểu thư đã cho người lên huyện đón tôi về; chúng tôi đã trích máu cho tiểu thư; bây giờ xin tiểu thư ngủ đi một chút, nhờ ơn Chúa, vài ngày nữa chúng tôi sẽ làm cho tiểu thư trở dậy được" - "À, vâng, vâng, thưa bác sĩ, xin đừng để tôi chết... làm ơn cứu chữa cho tôi" - "Sao tiểu thư lại nói thế, Chúa phù hộ cho tiểu thư!" Nàng lại sốt rồi, tôi nghĩ thầm. Tôi bắt mạch: đúng là lên cơn sốt. Nàng nhìn tôi, và tự dưng bỗng nắm lấy tay tôi."Tôi xin nói với ông tại sao tôi không muốn chết...bây giờ chỉ có tôi với ông mà thôi. Miễn là ông đừng nói lại với ai... ông nghe nhé...". Tôi cúi xuống. Nàng ghé môi sát tận tai tôi, chạm tóc vào má tôi. Thú thật là tôi choáng váng cả đầu óc. Nàng thì thầm.
Tôi chẳng hiểu gì...à, đây là nàng nói sảng...Nàng thì thầm, thì thầm, nói câu cuối rất nhanh và hình như không phải bằng tiếng Nga, rồi giật nảy người lên, buông rơi đầu xuống gối và giơ ngón tay đe tôi. "Nhớ nhé, ông bác sĩ, chớ nói với ai...". Tôi lựa lời nói cho nàng yên tâm, cho nàng uống nước, đánh thức ả hầu phòng và đi ra.
Đến đây, người thầy thuốc lại hăm hở hít thuốc lá và ngẩn người ra một lát.
Anh ta kể tiếp:
- Nhưng, trái với niềm mong đợi của tôi, hôm sau người ốm vẫn không đỡ. Tôi nghĩ ngợi mãi, và cuối cùng quyết định ở lại, tuy có những khách hàng khác đang đợi tôi. Mà ông biết đấy, chuyện đó không thể xem thường được đâu, như vậy có thể mất khách hàng...Nhưng, một là người ốm thực sự sang nguy kịch, hai nữa, phải nói thực là chính tôi cảm thấy mến thương nàng vô cùng. Thêm vào đó, tôi mến cả gia đình nhà nàng. Họ tuy không giàu, nhưng có học thức, có thể nói là hiếm thấy một gia đình có học như thế...ông bố là người thông thái, trước vẫn viết sách... ông ta mất rồi, cố nhiên là mất trong cảnh nghèo túng, nhưng ông đã kịp truyền lại cho các con một nền giáo dục tuyệt diệu; và cũng để lại nhiều sách. Không biết có phải vì tôi sốt sắng chăm sóc người ốm hay vì nguyên nhân gì khác, nhưng tôi dám nói rằng tôi được yêu quý như người ruột thịt...Trong lúc đó, tình trạng đường sá thật là kinh khủng: mọi đường đi lối lại bị cắt đứt hoàn toàn... ngay thuốc men cũng phải khó khăn lắm mới kiếm được ở huyện về...người ốm không khỏi bệnh...Ngày này sang ngày khác. Nhưng rồi...lúc đó...(Người thầy thuốc im lặng một lát). Thực tình tôi không biết bày tỏ với ông thế nào nữa... (Anh ta lại hít thuốc lá, khà một tiếng, và hớp một ngụm trà). Chẳng cần rào đón quanh co làm gì, tôi xin nói với ông rằng người bệnh của tôi...nói thế nào được nhỉ...ờ, có lẽ nàng yêu tôi mà không, không phải là yêu... vả chăng...thực tình thì... (Người thầy thuốc gằm mắt xuống và đỏ mặt lên).
- Không - anh ta nói tiếp với vẻ sôi nổi - yêu cái nỗi gì kia chứ! Cuối cùng thì cần biết rõ giá trị của mình. Nàng là một cô gái có học thức, thông minh, đọc nhiều biết rộng, còn tôi thì thậm chí quên cả thứ tiếng Latinh của mình, quên sạch. Còn về dung mạo của tôi (người thầy thuốc mỉm cười nhìn mình) thì hình như cũng không có gì đáng khoe. Được cái là trời cũng không bắt tôi làm thằng ngốc: tôi sẽ không gọi trắng là đen, tôi cũng sáng ý ít nhiều. Chẳng hạn, tôi hiểu rất rõ rằng Alêcxanđra Anđrêepna - tên nàng là Alêcxanđra Anđrêepna - không yêu tôi đâu, tình cảm của nàng đối với tôi là tình thân mến, có thể nói như vậy, hay là sự kính mến. Tuy có lẽ về điểm này, chính nàng đã nhầm, nhưng lúc ấy bệnh tình của nàng như thế kia mà, ông thử nghĩ xem...Vả chăng - người thầy thuốc nói thêm, suốt từ nãy, anh ta nói tất cả những câu rời rạc ấy mà không nghỉ lấy hơi và vẻ bối tối lộ rõ ra mặt - hình như tôi kể lể hơi dông dài... kể như vậy thì ông không thể hiểu gì được... còn bây giở thì ông cho phép tôi kể với ông tất cả câu chuyện cho có đầu đuôi. Anh ta uống nốt cốc trà và nói bằng giọng điềm tĩnh hơn.
- Vâng, như thế đấy. Người ốm của tôi ngày càng lâm vào tình trạng nguy kịch hơn. Thưa ông, ông không phải là thầy thuốc, ông không thể hiểu được cái gì diễn ra trong tâm hồn những người thầy thuốc chúng tôi, đặc biệt là khi thầy thuốc bắt đầu đoán ra rằng cơn bệnh đang áp đảo mình. Lòng tự trọng biến đi đâu mất! Ta bỗng trở nên rụt rè hết chỗ nói! Ta có cảm giác rằng ta quên hết mọi thứ ta biết, rằng người ốm không tin cậy ta nữa và những người khác cũng bắt đầu nhận thấy ta bối rối, họ miễn cưỡng báo cho ta biết các triệu chứng bệnh, họ nhìn ta gườm gườm, thì thào về ta... chao ôi, thật là khó chịu! Ta nghĩ: vẫn có thuốc chữa cái bệnh này chứ, chỉ cần tìm cho ra thôi! Có phải thứ thuốc này không? Ta dùng thử và thấy là không, không phải! Ta không để cho thuốc có thời gian gây tác dụng đầy đủ...khi thì ta vớ lấy thuốc này, khi thì vồ lấy thứ thuốc kia... Có khi ta cầm lấy cuốn sách thuốc... à đây rồi, ta nghĩ, chính nó đây rồi!
Thú thực là đôi khi ta mở hú họa: cầu may một cái xem sao, ta nghĩ, có số cả đấy... Trong lúc đó thì người bệnh đi dần đến chỗ chết; nhưng người thầy thuốc khác chưa biết chừng sẽ cứu được người bệnh cũng nên. "Cần có cuộc hội chẩn, ta nghĩ; ta không gánh lấy trách nhiệm làm gì". Trong những trường hợp như thế, nom bộ dạng ta mới ngớ ngẩn làm sao? Nhưng dần dà ta sẽ quen đi, không có gì đáng bận nữa. Người bệnh chết không phải lỗi tại ta: ta đã làm đúng mọi chỉ định. Nhưng còn điều này vẫn giày vò ta: ta thấy mọi người gửi gắm ở ta một niềm tin mù quáng, vậy mà ta cảm thấy ta không có khả năng cứu chữa người bệnh. Cả gia đình Alêcxanđra Anđrêepna gửi gắm ở tôi một niềm tin chính như thế. Họ quên hẳn là con gái họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Về phía tôi, tôi cũng cam kết với họ rằng không có gì đáng lo, nhưng trong thâm tâm, tôi lo vô chừng. Đã rủi lại rủi thêm: đường sá bị hỏng nhiều đến nỗi có khi người đánh xe phải đi suốt mấy ngày mới lấy được thuốc về. Còn tôi thì không rời khỏi phòng người ốm, tôi không dứt ra được, tôi kể cho nàng nghe những chuyện cười, chơi bài với nàng. Đêm thì tôi ngồi ở ghế. Bà lão ứa nước mắt cảm ơn tôi, tôi thầm nghĩ:
"Tôi không xứng đáng với lời cảm ơn của cụ! Thú thực với ông, bây giờ chẳng cần giấu giếm làm gì - tôi mê con bệnh của tôi - Alêcxanđra Anđrêepna cũng quyến luyến tôi: nàng không cho ai vào buồng, trừ tôi ra. Nàng chuyện trò với tôi, hỏi tôi trước đây học ở đâu, hiện sống thế nào, cha mẹ tôi là ai, tôi thường hay lui tới nhà ai. Tôi cảm thấy rằng nàng không nên nói chuyện nhiều, nhưng cấm nàng nói, cấm một cách dứt khoát thì... tôi không đủ gan làm việc đó. Đôi khi tôi vò đầu bứt tai: "Mi đang làm gì đấy, thằng tướng cướp kia?". Có khi nàng cầm tay tôi và giữ rất lâu, nàng nhìn tôi, nhìn mãi không dứt, rồi quay đi, thở dài và nói: "Ông tốt quá!" Tay nàng nóng rực, đôi mắt to mệt mỏi. Nàng nói: "Ông là người tốt bụng, tử tế, ông không như những người láng giềng của chúng tôi... không, không phải là người như thế... Sao mãi đến giờ tôi mới biết ông!" - "Alêcxanđra Anđrêepna, xin cứ yên tâm tôi cảm thấy tấm thịnh tình của tiểu thư, hãy tin tôi, tôi không rõ là tôi đã làm gì để xứng đáng với tình cảm ấy...nhưng tiểu thư yên tâm, vì Đức Chúa nhân từ, xin tiểu thư hãy yên tâm... mọi việc rồi sẽ tốt đẹp, tiểu thư sẽ khỏe lại". Tuy nhiên - người thầy thuốc nói thêm, khom người về phía trước và dướn cao đôi lông mày - phải nói rõ với ông rằng họ ít giao du với những người xung quanh, là vì những người thấp kém thì không xứng với họ, còn những người giàu thì...sự kiêu hãnh của gia đình không cho phép họ giao du với những người giàu. Tôi vẫn nói với ông rằng đây là một gia đình có học thức cao, và ông biết đấy, điều đó phỉnh nịnh lòng tự ái của tôi. Nàng chỉ dùng thuốc do chính tay tôi đưa đến...Nàng nhổm dậy, có tôi giúp sức thêm, cô nàng đáng thương, nàng uống thuốc và ngước mắt nhìn tôi... tim tôi rơi đâu mất. Nhưng nàng càng ngày càng mệt nặng hơn: nàng chết mất, tôi nghĩ, nhất định nàng sẽ chết mất thôi. Không biết ông có tin tôi không, tôi sẵn sàng chết thay cho nàng. Nhưng lúc này thì bà mẹ và các cô em đang quan sát thái độ của tôi, nhìn vào mắt tôi... và lòng tin cậy đối với tôi đang mất đi. "Sao? Thế nào?" - "Không sao, không có gì đáng ngại" Nhưng cái gì đáng ngại thì chẳng thể hiểu được. Có một đêm, tôi ngồi canh người ốm, lại vẫn chỉ có mình tôi trong phòng. Người hầu gái cũng ngồi đấy và ngáy như kéo gỗ... Cũng không thể trách mắng cô hầu gái đáng thương được: cô ta cũng mệt mỏi quá rồi.
Alêcxanđra Anđrêepna mệt nặng suốt buổi chiều, cơn sốt hành hạ nàng. Nàng cứ vật vã mãi đến nửa đêm. Cuối cùng nàng dường như ngủ thiếp đi, ít ra nàng cũng không cựa quậy nữa, nàng nằm yên.
Ngọn đèn trong góc nhà, trước ảnh thánh vẫn cháy sáng. Tôi ngồi cúi mặt xuống và cũng thiêm thiếp ngủ. Bỗng nhiên dường như có ai thúc vào sườn tôi, tôi quay lại... Trời ơi! Alêcxanđra Anđrêepna mở to mắt nhìn tôi... môi hé mở, má đỏ bừng. "Tiểu thư làm sao vậy?" - "Bác sĩ ơi, tôi sẽ chết chứ?" - "Ồ không, Chúa che chở cho tiểu thư!" - "Không, bác sĩ ơi không, xin đừng nói với tôi rằng tôi sẽ sống...xin đừng nói... nếu ông biết được... hãy nghe tôi, vì Chúa Trời, xin đừng giấu tôi về bệnh tình của tôi! Nàng thở gấp - Nếu tôi biết chắc rằng tôi phải chết thì tôi sẽ nói hết với ông, nói hết!" - "Alêcxanđra Anđrêepna, đừng nghĩ thế!" – "Hãy nghe tôi nói, nào tôi có ngủ đâu, tôi ngắm nhìn ông đã lâu...nhân danh Chúa, tôi tin ông, ông là người tốt, ngay thẳng, tôi xin viện tất cả những gì thiêng liêng trên đời ra mà thề với ông rằng tôi tin ông, ông hãy nói thật với tôi đi! Nếu ông biết điều đó đối với tôi quan trọng như thế nào...Bác sĩ ơi, ông hãy vì Chúa mà nói đi, tôi đang ở trong tình trạng nguy hiểm phải không?" - "Tôi biết nói gì với tiểu thư được, Alêcxanđra Anđrêepna, tiểu thư nghĩ xem!" - "Vì Chúa, tôi van ông!" - "Alêcxanđra Anđrêepna, tôi không thể giấu tiểu thư được, đúng là tiểu thư đang ở trong tình trạng nguy hiểm, nhưng đức Chúa lòng lành..." - "Tôi sẽ chết, tôi sẽ chết...". Và nàng dường như mừng rỡ, mặt nàng trở nên vui vẻ. Tôi sợ hãi. "Ông đừng sợ, đừng sợ, cái chết không làm tôi khiếp đảm chút nào". Nàng bỗng nhổm dậy và chống một khuỷu tay lên. "Bây giờ... bây giờ tôi có thể nói với ông rằng tôi hết lòng biết ơn ông, ông là người tốt bụng, tử tế, tôi yêu ông..." Tôi nhìn nàng, ngây ra như kẻ mất trí. Tôi khiếp sợ, ông biết đấy..." – "Ông nghe thấy không, tôi yêu ông..." "Alêcxanđra Anđrêepna, tôi không xứng đáng được như vậy!" - "Không, không, ông không hiểu tôi, anh không hiểu em..." Bỗng nhiên, nàng giơ hai tay ra, ôm lấy đầu tôi và hôn... Xin cam đoan với ông là tôi suýt hét lên... tôi quỳ thụp xuống và úp mặt vào gối. Tôi nghe thấy tiếng nàng khóc. Tôi bắt đầu an ủi nàng, cam kết rằng... thực quả tôi cũng không biết tôi đã nói với nàng những gì nữa. "Alêcxanđra Anđrêepna - tôi nói - nên gọi người hầu gái dậy...cám ơn tiểu thư...hãy tin tôi, cứ yên tâm" - "Thôi đủ rồi, đủ rồi - nàng nhắc lại – "Cần gì những người khác; ừ thì họ sẽ thức giấc, sẽ kéo đến, và cũng chẳng làm gì; đằng nào em cũng chết... Còn anh can gì mà rụt rè, anh sợ cái gì nào?" Anh ngẩng đầu lên đi... Hay có lẽ ông không yêu tôi có lẽ tôi lầm... nếu vậy thì thứ lỗi cho tôi" - "Alecxanđra Anđrêepna, tiểu thư nói gì thế?... tôi yêu tiểu thư". Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, dang rộng hai tay. "Thế thì ôm hôn em đi...". Nói thực với ông: tôi không hiểu vì sao đêm ấy tôi không phát điên. Tôi cảm thấy người bệnh của tôi đang tự giết mình. Tôi thấy nàng không hoàn toàn tỉnh trí. Tôi cũng hiểu rằng nếu nàng không tự coi là mình sắp chết thì nàng sẽ không nghĩ đến tôi. Bởi vì muốn thế nào thì thế, chết giữa tuổi hai mươi mà chưa được yêu thì thật đáng sợ: chính cái đó giày vò nàng, chính vì lý do ấy, vì tuyệt vọng mà nàng vơ lấy tôi, bây giờ thì ông hiểu rồi chứ? Nàng cứ ôm riết lấy tôi, không chịu buông ra. "Hãy thương lấy tôi, Alêcxanđra Anđrêepna, và thương lấy thân mình" - "Có ích gì, và thương tiếc gì mới được chứ? Đằng nào em cũng chết kia mà...! Nàng luôn miệng nhắc lại điều đó. "Nếu như em biết em sẽ sống và lại được coi là một trong những cô gái đứng đắn thì có lẽ em sẽ xấu hổ đấy, đúng là sẽ xấu hổ... chứ bây giờ thì cần gì?" - "Nhưng ai bảo với tiểu thư rằng tiểu thư sẽ chết?" - "Ồ, không, đủ rồi, anh không đánh lừa được em đâu, anh không biết nói dối, anh hãy tự nhìn anh xem" - "Tiểu thư sẽ sống, Alêxandra Anđrêepna ạ, tôi sẽ chữa cho tiểu thư khỏi bệnh. Rồi chúng ta sẽ xin mẹ cho chúng ta làm lễ cưới. Chúng ta sẽ gắn bó với nhau bằng những sợi dây thiêng liêng, chúng ta sẽ sung sướng" - "Không, không, em đã buộc anh phải nói ra, em nhất định sẽ chết...anh đã báo trước...anh đã nói với em...". Tôi đau xót trong lòng, đau xót vì nhiều lẽ ông thử nghĩ xem, đôi khi vẫn xảy ra những điều kỳ lạ như thế đấy. Câu chuyện dường như không có gì đáng kể, vậy mà lại khiến ta đau đớn. Nàng lại nảy ra ý nghĩ hỏi tên tôi, không hỏi họ, mà hỏi tên. Thật đáng buồn, tên tôi lại là Tơrifôn. Vâng, đúng thế. Tơrifôn Ivanưts. Trong nhà, mọi người đều gọi tôi là bác sĩ. Không biết làm thế nào, tôi đành nói: "Tên tôi là Tơrifôn, tiểu thư ạ". Nàng nheo mắt, lắc đầu và thì thầm điều gì bằng tiếng Pháp - ôi, đấy là triệu chứng chẳng lành - rồi nàng bật cười, như thế cũng chẳng phải là điều hay. Tôi đã ngồi với nàng gần suốt đêm, một đêm đau khổ.
Đến sáng, khi ra khỏi buồng nàng, tôi như điên như dại. Mãi đến trưa, sau bữa trà, tôi mới trở lại buồng nàng. Trời ơi, lạy Chúa tôi! Không thể nhận ra nàng được nữa: mặt nàng nhợt như mặt người chết. Xin lấy danh dự thề với ông rằng bây giờ tôi còn phải nghiến răng quằn quại ba ngày đêm nữa...và ba đêm như thế nào kia chứ? Nàng đã nói với tôi những gì?... Còn trong đêm cuối cùng, ông hãy tưởng tượng xem, tôi ngồi cạnh nàng và chỉ cầu Chúa ban cho một điều: cầu Chúa mau mau đem nàng đi, và đem cả tôi đi nữa... Bỗng nhiên bà mẹ xộc vào buồng... Hôm trước, tôi đã nói với bà lão rằng không có mấy hy vọng qua khỏi được, tình hình nguy kịch, và cũng nên mời giáo sĩ đi. Vừa thấy mẹ, cô gái ốm liền nói: "Hay quá, mẹ đã đến...mẹ xem chúng con đây này, chúng con yêu nhau, chúng con đã thề thốt với nhau - "Nó nói gì thế, bác sĩ, nó nói gì thế?" Tôi chết sững cả người. "Tiểu thư nói sảng, lên cơn sốt đấy ạ..." Còn nàng nói: "Thôi đi, thôi đi, bây giờ anh lại nói với em khác hẳn, anh đã nhận nhẫn em trao... Giả tảng làm gì? Mẹ em hiền từ lắm, mẹ sẽ tha thứ, mẹ sẽ hiểu, em sắp từ giã cõi đời, em cần gì phải nói dối, anh hãy trao tay cho em..." Tôi bật dậy và chạy ra ngoài. Cố nhiên bà lão đã đoán ra.
- Nhưng thôi, tôi sẽ không làm ông mệt mỏi lâu hơn nữa, và thực tình là chính tôi cũng đau lòng khi nhớ lại tất cả câu chuyện đó. Hôm sau, người bệnh của tôi tắt thở. Cầu cho nàng được lên thiên đàng! (Người thầy thuốc nói nhanh và thở dài).
Trước khi chết, nàng bảo người nhà ra ngoài để tôi ở lại một mình với nàng. Nàng nói: "Tha thứ cho em, có lẽ em có lỗi với ông... bệnh tật... nhưng xin hãy tin em... em chưa hề yêu ai hơn ông... đừng quên em... giữ lấy chiếc nhẫn của em...".
Người thầy thuốc quay đi, tôi cầm lấy tay anh.
- Chà! - Anh ta nói - ta nói chuyện gì khác đi hay ông có muốn chơi ván bài nhỏ không? Ông biết đấy những người như chúng tôi không nên thả mình theo những tình cảm cao quý như thế. Bọn chúng tôi chỉ nên nghĩ đến một điều: làm thế nào để con cái đừng kêu khóc oai oái và vợ đừng la rầy.
Vì cho đến nay, tôi đã lập gia đình, một cuộc hôn nhân hợp pháp, như người ta thường nói... Đúng thế...tôi lấy con gái một thương nhân: bảy ngàn đồng hồi môn. Tên người đó là Akulina; Tơrifôn xứng đôi vừa lứa với một cô ả như thế. Tôi phải nói với ông rằng ả là một đàn bà độc ác, được cái là ả ngủ suốt ngày...Thế nào, ta chơi bài chứ ạ?
Chúng tôi chơi bài, ăn mỗi điểm một cô pếch.
Tơrifôn Ivanưts được tôi hai rúp rưỡi và anh ta về muộn, rất hài lòng về thắng lợi của mình.