← Quay lại trang sách

ĐỒNG CỎ NGỰA ĐUA

Hôm ấy là một ngày tháng bảy đẹp trời, một trong những ngày mà ta chỉ gặp được khi thời tiết tốt đã ổn định lâu dài. Từ sớm tinh mơ bầu trời đã sáng sủa. Bình minh không rực lên như ánh lửa đám cháy, mà ửng lên một màu hồng dịu dàng. Mặt trời không đỏ lửa, không hừng hực ánh thép nung như trong kỳ đại hạn, không đỏ quạch như trước cơn bão, mà tươi sáng, huy hoàng, niềm nở: nó từ tốn nhô lên dưới đám mây dài và hẹp ngời lên vẻ tươi tắn và tắm mình trong làn hơi nước màu tím hoa cà từ đám mây toả ra. Một đám mây nhỏ giăng dài, đường rìa trên cùng mỏng mảnh sáng lấp lánh, nom như những con rắn nhỏ nối đuôi nhau. Ánh hào quang phát ra từ rìa đám mây nom như ánh bạc dát mỏng... Nhưng kìa, những tia sáng tinh nghịch đã lại vọt ra, vầng dương hùng tráng như cất cánh bay lên, vui vẻ và trang nghiêm. Gần trưa, thường thấy xuất hiện vô số những đám mây tròn cao vòi vọi, màu xám pha sắc vàng óng ánh, viền những đường rìa trắng mềm mại. Những đám mây này dường như không rời khỏi chỗ, giống như những hòn đảo rải rác trên con sông nước tràn mênh mang. Sông rẽ thành những nhánh nhỏ, chỗ nào cũng xanh đều như nhau trong suốt, sâu thăm thẳm, ôm quàng lấy những hòn đảo. Xa hơn nữa, phía chân trời, những đám mây chuyển động, dồn vào nhau, không còn thấy màu xanh lơ ở khoảng giữa đám mây này với đám mây khác nữa. Nhưng mây cũng nhuốm màu thanh thiên như chân trời, tràn đầy ánh sáng và hơi ấm. Màu chân trời thanh thoát, phơn phớt sắc hoa cà, suốt ngày không thay đổi và chỗ nào cũng như nhau. Không chỗ nào mây sầm tối, dày đặc lại báo hiệu có cơn dông; chỉ trừ một đôi chỗ có những dải màu lam nhạt buông rủ từ trên cao xuống đến tận mặt đất: đấy là cơn mưa bụi khó nhận thấy. Chiều đến, những đám mây ấy biến mất. Những đám mây cuối cùng hơi đen và mờ ảo như khói đọng thành từng cụm màu hồng ngay phía trước vầng mặt trời đang lặn. Ở chỗ mặt trời đang lặn xuống một cách êm ả, cũng êm ả như khi nó nhô cao lên trời, một vầng ráng đỏ lơ lửng phía trên mặt đất và mờ tối. Một ngôi sao đầu hôm hiện lên sáng mờ mờ trên cái nền đỏ ấy, khẽ nhấp nháy như ngọn lửa nến đang được mang đi một cách thận trọng. Trong những ngày như thế, mọi màu sắc đều êm dịu, tươi sáng, nhưng không chói lọi. Mọi vật đều mang dấu vết của một cái gì hiền hậu đáng cảm động. Trong những ngày như thế, khí nóng đôi khi rất gay gắt; đôi khi cả những cánh đồng trên các sườn dốc cũng "bốc hơi" nghi ngút. Nhưng gió xua tan cái nóng đã tích tụ lại và những cơn xoáy lốc - điềm chắc chắn báo hiệu thời tiết đẹp còn kéo dài - dựng lên những cột bụi trắng xóa, cao ngất chạy lướt trên các con đường vắt ngang qua cánh đồng đã cày. Không khí khô ráo, trong sạch, phản phất mùi khổ ngải, mùi lúa mạch đen và mùi kiều mạch đã gặt. Thậm chí đến mười một giờ đêm ta vẫn không cảm thấy hơi ẩm. Người làm ruộng mong muốn thời tiết như thế để gặt lúa...

Có lần, đúng vào một ngày như thế, tôi đã đi săn đa đa ở hạt Tsern, tỉnh Tula. Tôi bắn được khá nhiều chim. Cái túi đi săn đầy ắp của tôi thít dải dây đeo vào vai, làm tôi đau như bị cứa. Khi tôi quyết định trở về nhà thì ánh hoàng hôn đã tắt, và không trung vẫn sáng tuy không còn nhuốm ánh mặt trời, những bóng đen lạnh lẽo bắt đầu sậm lại và loang rộng ra. Tôi rảo bước đi qua cái "bãi" dày chi chít bụi cây, leo lên một quả đồi, và thay cho cảnh tượng mà tôi chờ mong: cánh đồng quen thuộc với khoảnh rừng sồi ở bên phải và ngôi nhà thờ trắng thấp lè tè ở phía xa, tôi thấy những chỗ khác, hoàn toàn lạ lẫm. Dưới chân tôi là một lũng hẹp trải dài, ngay trước mặt là một khu đất trồng toàn diệp liễu um tùm, dựng lên như bức tường. Tôi băn khoăn dừng lại, ngó quanh... "Thôi! - Tôi nghĩ - Như vậy là ta đã đâm vào một chỗ hoàn toàn không biết là đâu nữa: ta đã đi chênh về bên phải nhiều quá". Và, ngạc nhiên về sai lầm của mình, tôi nhanh nhẹn xuống đồi. Vừa xuống đến chân đồi, hơi ấm ngưng đọng đến là khó chịu, đã vây lấy tôi, dường như tôi bước vào cái hầm chứa đồ. Cỏ mọc cao um tùm dưới đáy thung lũng, chỗ nào cũng ướt hơi sương, trắng như tấm khăn trải bàn phẳng phiu. Đi vào đấy kể cũng hơi rợn. Tôi leo mau sang mé bên kia và rẽ sang trái, đi dọc khu trồng hoàn diệp liễu.

Giới đã bay lên những ngọn cây, lượn vòng một cách bí ẩn và chập chờn trên nền trời sáng mờ. Một con diều hâu về muộn lao vun vút trên cao, đường bay thẳng tắp như kẻ chỉ, hối hả trở về tổ. "Hễ ta ra đến gốc từng ấy là sẽ có đường ngay - Tôi nghĩ thầm  Vậy mà ta đã đi loanh quanh đến một dặm".

Cuối cùng, tôi đã đến góc rừng, nhưng chẳng có con đường nào cả: những bụi cây thấp, không rõ là loại cây gì, nằm trải rộng trước mắt tôi, và sau đám bụi cây ấy, mãi đằng xa kia, tôi thấy cánh đồng hiu quạnh. Tôi lại dừng chân. "Thế là cái quái gì?..Ta ở đâu đây?". Tôi bắt đầu nhớ lại xem ban ngày tôi đã đi như thế nào và đi những đâu... "A! đấy là nhưng bụi cây của Parakhin? Cuối cùng tôi kêu lên.  Đúng rồi? Còn đây hẳn là khoảnh rừng của Xinđnêep... Nhưng làm sao ta lại đâm vào đây được nhỉ? Xa đến thế kia ư? Lạ thật? Bây giở lại phải đi về hướng bên phải".

Tôi lại đi về phía bên phải, vượt qua các bụi cây. Trong lúc đó càng về khuya bóng tối càng dày lại và lan rộng ra như đám mây dông. Dường như bóng đêm bốc lên từ khắp nơi cùng với hơi ẩm buổi tối và thậm chí bóng tối đổ xuống cả từ các ngọn cây. Tôi gặp được một con đường nhỏ khó đi, cỏ mọc rậm rịt. Tôi đi trên con đường ấy, chăm chú nhìn về phía trước. Cảnh vật xung quanh nhanh chónh thẫm đen lại và trở nên im ắng, chỉ có những con cun cút thỉnh thoảng cất tiếng kêu. Một con chim ăn đêm bé nhỏ bay thấp và không có tiếng động bằng đôi cánh mềm mại; nó gần như đâm vào tôi và hoảng hốt quặt sang bên. Tôi đã ra được rìa đám bụi cây và đi trên bờ ruộng. Tôi đã phân biệt được những vật xung quanh. Đằng sau cánh đồng, bóng tối ảm đạm bốc lên, mỗi lúc một sáp tới gần, cuồn cuộn từng cụm lớn. Tiếng bước chân tôi vang thình thịch trong không khí đang ngưng tụ lại. Bầu trời đã bệch màu lại bắt đầu xanh, nhưng đây đã là màu xanh của trời đêm. Những ngôi sao nhỏ nhấp nháy lung linh trên bầu trời. Cái mà ban nãy tôi cho là khoảnh rừng thưa té ra lại là cái gò tròn thu lu, tối thẫm. "Ta ở đâu đây nhỉ"? - Tôi nhắc lại, nói lên thành tiếng, dừng lại lần thứ ba và đưa mắt nhìn con chó Đianka, dò hỏi.

Đấy là con chó Anh, lông trắng đốm vàng, dứt khoát là khôn hơn hết thảy mọi con vật thuộc loài bốn chân. Nhưng con chó khôn hơn hết thảy các con vật thuộc loài bốn chân chỉ ngoe nguẩy đuôi chớp đôi mi mắt mệt mỏi với vẻ chán nản và không góp cho tôi một lời khuyên đắc dụng nào cả. Tôi cảm thấy xấu hổ với nó, tôi hăm hở xông về phía trước, như bỗng đoán ra là phải đi về đâu, tôi vòng qua cái gò và lọt vào một cái lũng không trũng lắm, đất đã cày hết. Một cảm giác lạ lùng lập tức choán lấy tâm hồn tôi. Cái lũng đó hình lòng chảo gần như đều đặn, sườn dốc thoai thoải. Ở đáy lũng có mấy khối đá dựng đứng, dường như chúng trườg xuống đây để hội họp bí mật với nhau. Phía trên khu đất lòng chảo ấy, bầu trời câm lặng và quạnh quẽ bằng phẳng và u sầu đến nỗi lòng tôi se lại.

Một con vật nhỏ, không rõ là con gì, choé lên mộ tiếng yếu ớt và ai oán giữa các tảng đá. Tôi vội quay trở lại, leo lên gò, Cho đến giờ, tôi vẫn chưa mất hy vọng tìm thấy đường về nhà, nhưng lúc này tôi hoàn toàn thấy rõ rằng tôi đã lạc hẳn rồi, và tôi cũng chẳng còn gắng công nhận cho ra các vùng xung quanh; vả chăng, mọi vật hầu như đã chìm hẳn trong sương mù. Tôi cứ đi thẳng, nhìn sao để lấy hướng, hy vọng sẽ gặp may... Tôi đi như thế ngót nửa giờ, lê bước một cách trầy trật. Tôi có cảm giác như cả đời tôi chưa từng đến nơi nào hoang vắng như thế này: không nơi nào có ánh lửa le lói, không một âm thanh. Quả đồi thoai thoải này nhường chỗ cho quả đồi khác, cánh đồng nối tiếp cánh đồng, kéo dài vô tận, các bụi cây dường như bỗng từ dưới đất mọc lên ngay trước mũi tôi. Tôi vẫn đi và không còn có ý định nằm xuống chỗ nào để chờ sáng, và đột nhiên, tôi thấy mình đứng trên một bờ vực khủng khiếp.

Tôi co nhanh cái chân vừa đưa ra phía trước và qua bóng đêm gần như trong suốt, tôi thấy  phía dưới, mãi đằng xa có một bình nguyên bao la.

Một con sông rộng ôm lấy nó thành một vành bán nguyệt một đầu xuất phát từ chỗ tôi. Nước sông màu ánh thép thỉnh thoảng lại loé lên từng mảng sáng mờ, biểu hiện của dòng chảy. Ngọn đồi tôi đứng đột nhiên đổ xuống thành một bờ dốc gần như dựng đứng. Những đường viền đồ sộ của quả đồi sẫm đen lại, nổi rõ trong không trung xanh nhạt. Ngay dưới chân tôi, ở chỗ bờ dốc ấy và bình nguyên gặp nhau tạo thành một góc, gần khúc sông mà ở đó nước phẳng lặng như mặt gương tối thẫm, ngay dưới cái sườn đồi dốc nhất, hai đống lửa nhỏ cháy đỏ rực và bốc khói cạnh nhau. Xung quanh những đống lửa ấy có những bóng người đang loay hoay làm gì, những bóng đen chập chờn, đôi khi nửa trước của một cái đầu nhỏ tóc xoăn được chiếu sáng rất rõ...

Cuối cùng, tôi nhận ra là tôi đã đến đâu. Đồng cỏ này nổi tiếng trong vùng chúng tôi, tên nó là Đồng cỏ ngựa đua... Nhưng lúc ấy không thể nào trở về nhà được nữa, đặc biệt là giữa đêm hôm như thế này. Chân tôi mỏi nhừ đến nỗi chỉ chực khuỵu xuống. Tôi quyết định đến chỗ đống lửa và nhập bọn với những người mà tôi cho là đám người lùa gia súc đi bán, và tôi sẽ ở đó với họ chờ trời sáng.

Tôi xuống được chân đồi một cách yên ổn, nhưng chưa kịp buông hai tay ra khỏi cái cành cây cuối cùng mà tôi bám lấy thì đột nhiên hai con chó xồm lớn, lông trắng đã xồ tới, cất tiếng sủa dữ tợn.

Tiếng trẻ con lanh lảnh vang lên xung quanh những đống lửa. Hai ba thằng bé nhanh nhẹn đứng lên khỏi mặt đất. Tôi trả lời những tiếng thét hỏi của chúng. Chúng quay tới gần tôi, lập tức gọi chó về, hai con chó này đặc biệt sững sờ vì sự xuất hiện của con Đianka. Tôi đến gần chúng.

Tôi đã lầm khi cho rằng những người xun quanh các đống lửa là những người lùa gia súc. Đấy chỉ là trẻ em nông dân ở làng bên đi chăn ngựa. Vào mùa hè nóng nực, người ta lùa ngựa đi ăn đêm ở ngoài cánh đồng: ban ngày ruồi và ruồi trâu không để chúng yên. Lùa ngựa đi chăn lúc sắp tối và lùa về lúc rạng đông là một dịp vui lớn đối với những thằng bé con nhà nông dân. Đầu không mũ, mình mặc chiếc áo khoác ngắn cũ kỹ bằng lông thú cưỡi trên lưng những con ngựa linh lợi nhất chúng vừa phóng đi vừa hò reo vui vẻ, vung vẩy tay và chân, chúng nhảy chồm chồm thật cao trên lưng ngựa, cười ha hả. Bụi bốc lên thành cột màu vàng và cuốn theo chúng trên đường. Tiếng vó ngựa rầm rập vang rất xa, ngựa dỏng tai lên mà chạy. Dẫn đầu cả đoàn là một con ngựa sắc hung, lông xù đang phi nước đại, bờm rối bù vương những cành ngưu bàng, đuôi dựng lên và luôn luôn đổi chân.

Tôi nói với những thằng bé là tôi bị lạc và ngồi xuống cạnh chúng. Chúng hỏi tôi từ đâu đến, rồi im lặng và nhích ra xa. Chúng tôi nói với nhau vài ba câu. Tôi ngả mình dưới một bụi cây nhỏ đã bị gặm nham nhở và bắt đầu nhìn quanh. Cảnh tượng thật huyền diệu: xung quanh những đống lửa, một vừng sáng đỏ nhạt lung linh và dường như lịm đi khi tỏa vào bóng tối. Ngọn lửa thỉnh thoảng bừng lên, ném  ra ngoài cái vòng sáng đó những ánh phản quang lóe nhanh. Cái lưỡi ánh sáng mỏng mảnh liếm vào những cành miên liễu trơ trụi rồi biến mất ngay. Những bóng đen dài và nhọn vụt hiện ra trong giây lát, và bây giờ đến lượt chúng chạy sát tới tận chỗ những đống lửa. Bóng tối đấu tranh với ánh sáng. Đôi lúc, khi ngọn lửa yếu đi và cái vòng sáng như thu hẹp lại, từ trong bóng tối đã ập đến chợt nhô ra một cái đầu ngựa hồng với một vệt lang trắng ngoằn ngoèo trên mặt hay một cái đầu ngựa trắng tuyền, chăm chú và ngây ngô nhìn chúng tôi, mõm vẫn nhai một cụm cỏ dài, rồi cái đầu ngựa ấy lại cúi xuống, biến mất liền. Chỉ còn nghe thấy tiếng nhai cỏ tiếp tục và tiếng thở phì phì. Từ chỗ sáng khó mà nhận rõ cái gì đang diễn ra trong bóng tối vì vậy mọi vật ở gần mình đều như bị bao phủ bởi một tấm màn đen tuyền. Nhưng xa xa về phía chân trời, đồi và rừng vạch thành những vệt dài mờ mờ.

Bầu trời quang đãng, tối thẫm trải rộng trên đầu chúng tôi với tất cả vẻ hùng tráng bí ẩn của nó trang nghiêm và bao la, cao lồng lộng. Lồng ngực co lại một cách khoan khoái khi ta thở hít cái mùi đặc biệt, u trầm và tươi mát của đêm hè Nga. Xung quanh hầu như không một tiếng động... Chỉ thỉnh thoảng, một con cá lớn bất ngờ quẫy một tiếng âm vang trong con sông gần đấy và bụi sậy ven bờ khẽ xạc xào vì một làn sóng làm nó hơi lay động... Duy có những đống lửa vẫn nổ tí tách.

Mấy thằng bé ngồi xung quanh các đống lửa. Cả hai con chó đã toan ăn tươi nuốt sống tôi cũng ngồi đấy. Mãi về sau chúng vẫn chưa thể bằng lòng với sự có mặt của tôi, và vừa nheo mắt như buồn ngủ vừa liếc nhìn đống lửa, thỉnh thoảng lại gầm gừ với vẻ tự hào khác thường. Thoạt tiên chúng còn gầm gừ, nhưng sau chúng khẽ rít lên, như tiếc là không thể thực hiện được ý muốn của chúng. Có năm thằng bé cả thảy: Fêđya, Pavlusa, Iliusa, Koxtya và Vanya (nghe chúng nói chuyện với nhau tôi biết được tên chúng và bây giờ tôi có ý định giới thiệu chúng với bạn đọc).

Fêđya là bằng bé lớn hơn cả, bạn có thể đoán là nó chừng mười bốn tuổi. Đấy là một thằng bé vóc người cân đối, mặt có những đường nét khá tinh vi, đẹp và thanh tú, tóc vàng hoe, loăn xoăn, mắt màu sáng, miệng luôn luôn mỉm một nụ cười nửa như vui vẻ nửa như lơ đễnh. Tất cả các đặc điểm của nó nói lên rằng nó là con một gia đình giàu có và nó đi chăn ngựa ngoài đồng không phải vì cần thiết, mà đó là một trò vui thú đối với nó. Nó mặc chiếc sơ mi vải hoa sặc sỡ có đường viền vàng. Chiếc măng tô mới bé nhỏ, bằng vải len thô quàng lên người, chỉ dính hờ trên đôi vai hẹp của thằng bé. Trên cái dây lưng màu xanh có đeo một chiếc lược con. Đôi ủng thấp ở chân nó đúng là ủng của nó, không phải của bố. Thằng bé thứ hai, Pavlusa, thì tóc đen bù xù mắt xám, gò má rộng, mặt nhợt nhạt, rỗ hoa, miệng rộng nhưng cân xứng, đầu quá to - to như cái thùng nấu bia, như người ta thường nói, thân hình lùn tịt, thô kệch. Thằng bé xấu xí - cái đó thì hiển nhiên! - nhưng tôi vẫn thích nó: nó có cái nhìn rất thông minh và thẳng thắn, và giọng nói của nó biểu lộ một sức mạnh cường tráng. Nó không thể hãnh diện về quần áo của mình: toàn bộ y phục của nó chỉ vẻn vẹn có chiếc sơ mi vải thô xoàng xĩnh và chiếc quần đùi vá víu. Khuôn mặt của đứa thứ ba  Iliusa - thì khá là vô duyên: mũi gồ, cầm dài vêu, mắt kém. Khuôn mặt ấy biểu lộ một vẻ lo âu đần độn, bệnh tật. Cặp môi mím chặt của nó không mấp máy, đôi lông mày cau lại không lúc nào dãn ra, thằng bé dường như lúc nào cũng nheo mắt vì ánh lửa. Mái tóc vàng nhạt gần như trắng của nó thòi ra từng chòm nhọn dưới chiếc mũ trùm thấp bằng dạ mà chốc chốc nó lại đưa hai tay lên kẻ sụp xuống đến tận tai. Chân nó quấn vải bọc và đi đôi giày mới bện bằng vỏ cây. Một sợi thừng to quấn ba lần quanh thân, nịt gọn lấy chiếc áo xvitka ( [41] ) khá tươm. Cả nó lẫn Pavlusa nom đều chưa quá mười hai tuổi. Đứa thứ tư, Koxtya, là một thằng bé trạc mười tuổi, nó có cái nhìn tư lự và buồn rầu khêu gợi sự tò mò của tôi. Cả khuôn mặ nó nhỏ nhắn, gày guộc, lấm chấm tàn hương, phía dưới nhọn như mặt sóc. Môi nó khó có thể thấy rõ được Nhưng đôi mắt to, đen, long lanh như có nước của nó gây nên ấn tượng lạ lùng nhất. Đôi mắt ấy như muốn nói một điều gì mà tiếng nói - ít ra là tiếng nói của thằng bé - không có đủ lời lẽ để diễn tả. Nó thấp bé, vóc dác mảnh khảnh và mặc khá tồi tàn. Đứa cuối cùng là Vanya, thoạt tiên tôi không nhận thấy nó: nó nằm trên mặt đất, quấn cái chiếu nhỏ, nằm im thin thít, chỉ thỉnh thoảng thò cái đầu nhỏ tóc xoăn màu hạt dẻ ra khỏi chiếu. Thằng bé ấy chỉ mới bẩy tuổi là cùng.

Vậy là tôi nằm dưới một bụi cây ở mé ngoài và nhìn những thằng bé. Một cái xoong nhỏ treo trên một đống lửa, bọn trẻ luộc "khoai". Pavlusa trôn nom xoong khoai, nó quì gối, dùng một mảnh gỗ thọc vào nước sôi. Fêđya nằm chống khuỷu tay xuống đất và phanh tà áo bành tô sang hai bên.  Iliusa nằm cạnh Koxtya và vẫn nheo mắt chăm chú  như trước. Koxtya hơi cúi đầu xuống và nhìn ra một nơi nào phía xa. Vanya không động đậy dưới chiếc chiếu của mình. Tôi vờ ngủ. Những thằng bé dần dần lại nói chuyện với nhau.

Thoạt tiên, chúng nói những chuyện linh tinh  chuyện công việc ngày mai, chuyện ngựa. Nhưng   đột nhiên, Fêđya hỏi Iliusa, dường như để nối lại  câu chuyện bị bỏ dở - Này, mày bảo là mày nhìn thấy "gia thần"( [42] )  phải không?

- Không tao không nhìn thấy, mà không thể nhìn thấy gia thần được - Ihusa trả lời bằng một giọng khàn khàn và yếu ớt phù hợp tuyệt vời với vẻ mặt nó. - Tao nghe thấy. Mà không phải một mình tao đâu nhé.

- Thế gia thần của nhà mày trú ở chỗ nào?  Pavlusa hỏi.

- Trọng cái nhà xeo ( [43] ) cũ.

- Thế chúng mày vẫn đến xưởng giấy đấy à?

- Chứ sao, chúng tao vẫn đến. Tao với em Apđiuska tao vẫn làm công việc đánh láng giấy.

- Mày mà cũng là thợ xưởng máy kia đấy!

- Này, nhưng mày nghe thấy tiếng gia thần như thế nào kia? - Fêđya hỏi.

-Thế này nhé, tao với em Apđiuska tao, với Fêđor Mikhêepxki, với Ivaska Kôxưi, với Ivask khác ở Đồi đỏ, với Ivaska Xukhôrukôp, và một số đứa khác nữa. Tất cả bọn tao có mười đứa, vừa trọn một kíp. Chúng tao phải ngủ đêm trong nhà xéo, lẽ ra chúng tao không phải ngủ lại đâu, nhưng cai Nazarôp không cho về, hắn bảo: "Chúng mày lóc cóc về nhà làm gì cho mệt. Mai có nhiều việc đấy, chúng mày không được về". Thế là chúng tao ở lại và nằm cụm một chỗ với nhau. Thằng Apđiuska nhà tao bỗng nói: anh em ơi, ngộ nhỡ gia thần đến thì sao?... Nó chưa nói hết thì ở phía trên đầu chúng tớ đột nhiên có bước chân ai bước đi. Chúng tớ nằm ở dưới, kẻ đó đi ở phía trên, ngay cạnh guồng nước. Chúng tớ nghe thấy tiếng bước chân, những tấm ván oằn xuống và kêu răng rắc. Kẻ đó vượt qua đầu chúng tớ. Nước bỗng ào ào đổ vào guồng, guồng nước quay lọc xọc, lọc xọc; nhưng tấm chắn ở cửa ngăn nước đã đóng rồi kia mà. Chúng tớ ngạc nhiên: ai đã kéo tấm chắn ấy lên để nước chảy vào. Nhưng guồng nước quay quay một lúc rồi đứng lại. Kẻ đó lại đi về phía cái cửa ở bên trên, rồi bắt đầu xuống thang, và xuống rất thong thả, thong thả, các bực thang rên lên dưới chân hắn... Thế rồi kẻ đó đã tới gần cửa của chúng tớ, dừng lại chờ đợi một lát. Cửa bỗng nhiên bật toang ra. Chúng tớ nhốn nháo kinh hoàng nhưng nhìn thì chẳng thấy gì... Bỗng nhiên, các khuôn ở một thùng ngâm động đậy, bốc lên cao nhúng xuống nước rồi chao đi chao lại trên không như có ai lắc tráng nó, rồi lại trở về chỗ.

Rồi ở cạnh một thùng ngâm khác, cái móc rời khỏi đinh, xong lại móc vào đinh. Rồi có người nào tới gần cửa, và bỗng cất tiếng ho, be lên một tiến như tiếng cừu kêu, tiếng kêu hết sức âm vang...Chúng tớ túm tụm cả lại và thằng nọ nằm đè lên thằng kia... Lúc ấy thật là hồn vía lên mây!

- Lạ nhỉ! - Paven thốt lên - Sao gia thần lại ho là thế nào?

- Không biết, có lẽ vì trời ẩm.

Tất cả đều im lặng.

- Thế nào, khoai chín chưa? - Fêđya hỏi.

Pavlusa chọc thử.

- Chưa, còn sượng... Chà, cá quẫy mạnh gớm  Nó nói thêm, quay mặt nhìn ra sông - Chắc là cá măng... Kìa, sao đổi ngôi.

- Này, tao kể cho chúng mày chuyện này  Koxtya nói bằng giọng lanh lảnh - nghe nhé, câu chuyện này bố tao kể ngay trước mặt tao.

- Kể đi, chúng tao nghe đây - Fêđya nói với vẻ độ lượng.

- Chúng mày biết Gavrila, thợ mộc ở trấn chứ?

- Biết.

- Thế chúng mày có biết tại sao lúc nào ông ấy cũng ủ ê, lúc nào cũng lầm lì không? Có biết không? Duyên do là thế này này: bố tao bảo là có lần ông ấy vào rừng lấy hồ đào. Thế, ông ấy vào rừng lấy hồ đào và bị lạc, ông ấy đâm quàng đâm xiên đến những đâu, có mà trời biết. Ông ấy đi, đi mãi, chúng mày ạ, nhưng không thể tìm ra đường. Đêm đã xuống. Ông ấy bèn ngồi dưới một gốc cây bụng bảo dạ: ta ngồi chờ đến sáng sẽ đi. Ông ấy ngồi đấy và thiu thiu ngủ. Đang thiu thiu ngủ thì bỗng nghe thấy có ai gọi mình. Nhìn thì chẳng thấy ai. Ông ấy lại thiu thiu ngủ, và lại có tiếng gọi. Ông ấy lại nhìn quanh quẩn: cuối cùng ông ấy thấy trước mặt có một cô gái nửa người nửa cá ngồi vắt vẻo trên cành cây, vừa lắc lư vừa gọi ông ấy đến, và cười sằng sặc, cười ngất... Lúc ấy trăng sáng vằn vặc, sáng ghê lắm kia, sáng tỏ lạ lùng, mọi cái nom rõ mồn một. Cô gái nửa người nửa cá vẫn gọi ông ấy và nàng ngồi trên cành cây, toàn thân sáng ngời, trắng muốt, như con cá diếc hay cá lòng tong, mà cá chép cũng trắng và óng ánh bạc như thế...

Ông thợ mộc Gavrila gần như chết ngất đi, còn nàng vẫn cười lớn và vẫy tay gọi ông ấy đến, chúng mày ạ. Gavrila đã toan đứng dậy, nghe theo lời nàng, nhưng có lẽ Chúa đã làm ông ấy tỉnh ra: ông ấy làm dấu chữ thập trên mình... Mà ông ấy là dấu đến là khó khăn, chúng mày ạ, ông ấy kể lại là tay nặng trịch như tảng đá, không cất lên được. Chà, thế mới kỳ chứ!... Rồi ông ấy cũng làm được dấu chữ thập và cô gái nửa người nửa cá liền thôi cười và tự dưng oà khóc. Nàng vừa khóc vừa đưa tóc lên lau mắt, mà chúng mày ạ, tóc nàng xanh như vỏ cây đay tươi. Gavrila nhìn mãi, nhìn mãi rồi hỏi: "Này, yêu quái của rừng thiêng, tại sao ngươi khóc? " Còn cô gái nửa người nửa cá bỗng cất tiếng nói với ông ta: "Con người kia ơi, nếu anh không làm dấu chữ thập, anh sẽ sống vui vầy vớ tôi cho đến chót đời. Tôi khóc, tôi đau buồn vì anh đã làm dấu. Nhưng không phải riêng tôi đau buồn đâu: anh cũng sẽ đau buồn cho đến ngày từ giã cõi đời". Nói xong nàng biến đi, còn Gavrila bỗng hiểu ngay là mình đi lối nào thì ra được khỏi rừng... Có điều là từ bấy đến nay, lúc nào ông ấy cũng ủ ê.

- Kỳ quái thật – "Fêđya thốt lên sau một lúc im lặng - Lẽ nào con ma rừng ấy lại có thể làm hỏng được linh hồn một người theo đạo thiên chúa kia chứ, vì ông ấy đã không nghe theo cơ mà?

- Ồ, nói thế! - Koxtya lên tiếng - Gavrila kể lại rằng giọng nói của nó lảnh lói, ai oán như tiếng cóc kêu.

- Chính bố mày kể câu chuyện ấy à?- Fêđy hỏi tiếp.

- Chính bố tao. Tao nằm trên giường ván treo ( [44] ) và nghe thấy hết.

- Kỳ dị thật? Thế thì can gì ông ấy phải ủ ê kia chứ? Có lẽ ông ấy mê hồn vì nó gọi ông ấy.

- Đúng là mê hồn! - Iliusa phụ họa - Đúng thế! Nó định khêu gợi lòng ham muốn của ông ấy, nó định thế đấy. Bọn nữ thủy thần là chuyên làm cái trò ấy mà. - vậy thì ngay ở đây cũng phải có những nữ thủy thần nửa người nửa cá. - Fêđya nói.

- Không - Koxtya đáp. - Nơi này quang quẻ thoáng đãng. Chỉ phải cái gần sông thôi.

Cả bọn im bặt. Bỗng nhiên, ở nơi nào xa xa một âm thanh ngân nga, gần như rền rĩ vang lên. Đấy là một trong những âm thanh đôi khi thường xuất hiện giữa đêm khuya thanh vắng, bay lên, lơ lửng trong không trung, và cuối cùng, vừa từ từ lan ra vừa lặng dần đi. Lắng nghe thì dường như không có gì cả, vậy mà vẫn có âm thanh. Tưởng chừng như có người nào chốc chốc lại gào lên một tiếng rất dài ở mãi tận chân trời, và có một người nào khác ở trong rừng cất tiếng cười the thé, gay gắt đáp lại tiếng gào của người kia, và một tiếng huýt gió yếu ớt, vi vút bay trên mặt sông. Những thằng bé nhìn nhau, rùng mình.

- Sức mạnh của Chúa hằng ở với chúng ta!  Iliusa thì thầm.

- Ồ chúng mày thật là ngờ nghệch? - Paven kêu lên - Có gì mà sợ kia chứ? Xem kìa, khoai chín rồi đấy. (Cả bọn xúm lại gần cái xoong và ăn những củ khoai bốc hơi. Riêng Vanya vẫn không nhúc nhích). Mày làm sao thế - Paven nói.

Nhưng thằng bé vẫn không chịu ra khỏi chiếu.

- Thế chúng mày có nghe nói gần đây ở Varnavitsu đã xảy ra chuyện gì không - Iliusa mở đầu câu chuyện.

- Ở đê ấy hả?

- Ừ đúng, ở quãng đê hỏng ấy. Đấy là một chỗ ghê rợn, rất ghê rợn, vắng lắm. Xung quanh toàn khe ngòi, mà trong khe rặt những rắn là rắn.

- Ừ, nhưng đã xảy ra chuyện gì? Kể đi...

- Thế này nhé, Fêđya ạ, có lẽ mày không biết đâu, ở đấy người ta chôn một người trẫm mình. Người đó trẫm mình đã lâu lắm rồi, hồi ao còn sâu kia. Nhưng vẫn còn thấy mộ, trông không rõ lắm, đâu chỉ còn là một mô đất... Mới đây, ông quản lý gọi tay quản chó săn là Ermin đến, bảo: "Này Ermin, ra bưu điện đi". Ermin xưa nay vẫn đi ra bưu điện. Anh ta không còn một con chó nào, anh ta hành hạ chúng chết ráo cả rồi: không rõ vì sao không con nào sống nổi với anh ta, trước cũng thế, vậy mà anh ta là người luyện chó giỏi đấy, không chê trách vào đâu được. Thế là Ermin cưỡi ngựa ra bưu điện, anh ta nán lại chơi trong thành phố, lúc trở về thì đã chếnh choáng hơi men. Trời đã về đêm và sáng trăng... Ermin qua chỗ đê: đường của anh ta phải qua đó. Anh quản chó Ermin vẫn ung dung cưỡi trên ngựa và nhìn thấy: trên mộ người trẫm mình, một con cừu non, trắng muốt, lông xoăn tít xinh đẹp đang chạy đi chạy lại. Ermin nghĩ: "Ta sẽ đem nó về, bỏ mặc nó ở đây thì nó chết mất". Và anh ta xuống ngựa, bế nó lên... Con cừu để yên cho anh ta bế lên. Ermin đến gần con ngựa của mình con ngựa vùng vằng lảng ra xa, thở phì phì, lúc lắc đầu Nhưng anh ta hò nó đứng lại, nhẩy lên yên cùng với con cừu và lại dong ngựa đi, đặt con cừu  phía trước. Anh ta nhìn con cừu, nó cũng nhìn thẳng vào mắt anh. Anh quản chó Ermin rợn người lên, anh ta bảo anh ta chưa từng thấy cừu nhìn vào mắt ai như thế. Nhưng anh ta vẫn làm như không có gì lạ Anh ta bắt đầu vuốt ve nó và nói: "Biasa biasa!". Con cừu bỗng nhe răng ra và cũng nói với anh ta: "Biasa, biasa...".

Người kể chuyện chưa kịp nói hết tiếng cuối cùng đó thì đột nhiên hai con chó cùng nhổm dậy vừa sủa loạn lên vừa lao ra xa đống lửa và chạy biến vào bóng tối. Tất cả các thằng bé đều sợ hãi.

Vanya tung chiếu nhổm dậy. Pavlusa hét toáng lên, lao mình đuổi theo mấy con chó. Tiếng chó sủa xa dần. Có tiếng chạy cuống cuồng của bầy ngựa hoảng hốt. Pavlusa quát to: "Xêrưi! Juska!...". Lát sau, tiếng chó sủa im bặt. Đã nghe thấy tiếng nói của Pavlusa từ đằng xa vẳng đến... Một lúc nữa trôi qua. Những thằng bé băn khoăn nhìn nhau như chờ đợi xem cái gì sẽ xảy ra. Thình lình có tiếng lộp cộp của một con ngựa đang phi. Con ngựa dừng phắt lại ngay cạnh đống lửa và Pavlusa nắm lấy bờm nó, khéo léo nhảy xuống. Cả hai con chó cũng nhảy vào vòng ánh sáng và ngồi ngay xuống lưỡi thè lè đỏ tươi.

- Gì thế? Có chuyện gì thế? - Những thằng bé hỏi.

- Chẳng có gì cả - Paven đáp, phảy tay về phía con ngựa. - Thường thôi, chó đánh hơi thấy cái gì đó Tớ đoán là chó sói. Nó nói thêm với giọng thản nhiên, và nhanh nhẹn thở căng lồng ngực.

Tôi ngắm Pavlusa và bất giác cảm phục nó. Lúc ấy nó rất đẹp. Khuôn mặt xấu xí của nó giờ đây trở nên linh lợi vì vừa phóng ngựa nhanh, ngời lên vì can trường và kiên quyết? Trong tay không có lấy một que củi, vậy mà ban đêm, không một chút do dự, nó đã một mình phi ngựa đuổi chó sói... "Thằn bé cừ lắm?" - tôi nhìn nó, bụng bảo dạ.

- Người ta từng thấy chó sói ở vùng này à?  Thằng Kôxtya nhát gan hỏi.

- Vùng này bao giờ cũng nhiều chó sói - Paven đáp - Mà chúng chỉ làm dữ về mùa đông thôi.

Nó lại ngồi xổm trước đống lửa. Lúc ngồi xuốn đất, nó buông một tay xuống cái gáy xù lông của một con chó, và con vật mừng rỡ, hồi lâu không quay đầu, chỉ liếc ngang nhìn Pavlusa với vẻ tự hào và biết ơn.

Vanya lại rúc xuống dưới chiếu. - Mày hay kể cho chúng tao những chuyện sợ ghê lên được, Iliuska ạ - Fêđya lên tiếng. Là con một nông dân giàu có, nó quen với vai trò cầm trịch cho cả bọn (bản thân nó ít nói, như sợ hại đến phẩm giá của mình) - Vừa rồi chó sủa lên cũng là do ma quỉ xui khiến đấy: đúng thế, tớ nghe nó vùng này là vùng có ma.

- Varnavitsư ấy à?... Còn phải nói! Mà ma thiêng phải biết! Nghe nói người ta đã nhiều lần trông thấy một ông quý tộc già đã chết. Ông ta mặc chiếc kafơtan dài vạt và luôn miệng rên rỉ, tìm kiếm cái gì trên mặt đất. Có lần cụ Tơrôfimưts gặp ông ta: "Thưa ngài Ivan Ivanưts, ngài tìm gì trên mặt đất đấy ạ?

- Cụ ấy hỏi à? - Fêđya ngạc nhiên, ngắt lời.

- Ừ, cụ ấy hỏi.

- Thế thì Tơrôfimưts cừ quá đấy... Còn ông kia nói gì?

Ông ta bảo: "Ta tìm thứ cỏ chẻ đá" ( [45] ). - Giọng nói của ông ta khàn đặc, trầm nặng lắm: - Cỏ chẻ đá - Nhưng thưa ngài Ivan Ivanưts, ngài cần thứ cỏ ấy để làm gì kia ạ?

- Nghẹt thở quá, cái mồ đè tôi nghẹt thở Tôrôfimưts ạ ; tôi muốn ra...

- Cái ông già đến lạ! - Fêđya nói - ông ấy sống chưa đủ chán chắc.

- Kỳ dị thật? - Koxtya thốt lên - Tớ tưởng rằng chỉ trong ngày thứ bảy rôđitenskaia ( [46] ) người ta mới có thể gặp linh hồn những người đã chết.

- Có thể gặp linh hồn những người chết vào bất cứ lúc nào - Iliusa nói quả quyết. Tôi nhận thấy nó biết kỹ hơn một đứa khác về tất cả những điều mê tín ở làng quê... - Nhưng trong ngày thứ bẩy rôđitenxkaia , ta có thể thấy cả người sống, tức là người sẽ chết trong năm ấy. Chỉ cần ban đêm đến ngồi  sân nhà thờ và luôn luôn nhìn ra đường. Người đi trên đường qua chỗ ta ngồi là người sẽ chết trong năm ấy. Năm ngoái bà Uliana ra sân nhà thờ đấy.

- Bà cụ có thấy ai không? - Koxtya tò mò hỏi.

- Có chứ. Lúc đầu bà cụ ngồi mãi, lâu lắm chẳng nhìn thấy ai và chẳng nghe thấy gì... Có điều là dường như có một con chó vẫn luôn luôn cất tiếng sủa dai dẳng ở một nơi nào đó... Bỗng nhiên bà ta thấy một thằng bé đi trên đường, trên người chỉ trần một chiếc sơ mi. Bà cụ nhìn kỹ thì ra là Ivaska Fêđôêep...

- Thằng bé chết hồi mùa xuân ấy hả? - Fêđy ngắt lời.

- Chính nó. Nó đi, không ngẩng đầu lên... Bà Uliana nhận ra nó... Nhưng sau đó, bà cụ thấy một người đàn bà đang đi. Bà cụ nhìn kỹ thì - lạ Chúa! - chính là bản thân bà đang đi trên đường.

- Lại chính bà cụ à? - Fêđya hỏi.

- Đúng thế, chính bà cụ.

- Thế là thế nào, bà cụ vẫn chưa chết kia mà?

- Thì đã hết năm đâu. Mà cậu cứ nhìn bà ta xem: như cái xác không hồn ấy.

Cả bọn im lặng. Paven ném một cành khô và lửa. Ngọn lửa thình lình bùng lên, những cành cây sẫm đen lại, bắt đầu nổ lách tách, bốc khói và những đầu gỗ đã cháy xem cong lên. Ánh lửa bập bùng hắt về mọi phía, đặc biệt là phía trên. Một con bồ câu nhỏ, trắng muốt, không biết ở đâu ra lao thẳng vào vừng ánh sáng, hoảng sợ ngoặt lại ngay tại chỗ, toàn thân bừng lên ánh lửa rực hồng và vỗ cánh phành phạch, bay đi mất!

- Chắc là nó quên đường về nhà - Paven nói  Bây giờ nó sẽ bay cho đến khi gặp được một chỗ đậu và chúi được vào đâu là sẽ ở đó suốt đêm ch đến rạng đông.

- Pavlusa này - Koxtya thốt lên - có phải đấy là một linh hồn công chính bay lên trời không hả?

Paven ném một nắm cành cây nữa vào lửa.

- Có lẽ vậy - Cuối cùng, nó đáp.

- Này Pavlusa, mày nói cho chúng tao biết nhé - Fêđya nói - ở Salamôp chúng mày cũng trông thấy điềm trời ( [47] ) chứ?

- Thấy mặt trời bị che lấp ấy hả? Có chứ.

- Dân làng bên ấy chắc cũng sợ như dân làng tớ đấy nhỉ?

- Không phải chỉ có cánh nông dân ta mới sợ đâu. Chủ đất của chúng tớ tuy đã nói trước với dân làng rằng sẽ có điềm trời , ấy thế mà người ta kể lạ rằng khi trời tối sầm lại, ông ấy vẫn sợ đến nỗi nằm bẹp xuống đất. Trong nhà của kẻ ăn người làm có một bà nấu bếp, khi trời tối lại, bà ta bỗng vơ lấy que lò, đập vỡ hết nồi trong bếp lò và nói: "Bây giờ thì còn ai cần ăn nữa, ngày phán xét đã đến rồi". Thế là cháo bắp cải chảy tung toé cả ra. Còn trong làng tớ người ta kháo nhau rằng rồi đây khắp trái đất sẽ đầy rẫy những con chó sói trắng chạy lung tung khắp nơi, ăn thịt người, con chim ăn thịt sẽ bay ra có khi sẽ còn thấy cả Tơriska nữa ấy chứ ( [48] ).

- Tơriska nào kia? - Koxtya hỏi.

- Thế mày không biết à? - Iliusa hăm hở đáp lời.  Này, sao mày lại không biết Tơriska nhỉ? Ở làng này người ta chỉ ru rú ngồi nhà, đúng là ru rú xó nhà! Tơriska là một người kỳ dị rồi đây sẽ đến. Người ấy sẽ đến khi giờ tận thế sắp tới. Đó là một người kỳ lạ, vì không thể bắt được y, không thể làm gì y được: con người kỳ dị ấy sẽ như thế đấy. Chẳng hạn, nông dân muốn bắt y, nhưng y sẽ đánh lừa họ làm họ trông gà hoá cuốc, đến nỗi đánh lẫn nhau. Chẳng hạn họ sẽ tống y vào ngục. Y sẽ xin uống nước trong cái gầu. Người ta mang đến một gầu nước, y sẽ ngập lặn vào trong gầu nước, lúc ấy thì cứ việc mà tìm. Xích y lại, y vỗ tay một cái, thế là xiềng xích tuột ráo cả ra. Thế rồi Tơriska ấy sẽ đi khắp các thành thị, thôn quê. Gã Tơriska quỉ quái ấy sẽ cám dỗ mọi người... và sẽ không thể làm gì  được...Ừ gã sẽ là một kẻ kỳ quái, quỉ quyệt như thế đấy.

- Đúng - Pa ven nói tiếp bằng cái giọng thong thả của mình - Tơriska như thế đấy. Ở làng tao người ta cũng chờ đón y. Các cụ già nói rằng khi điềm trời xuất hiện thì Tơriska sẽ tới. Thì điềm trời đã xuất hiện rồi đấy. Cả làng đổ ra ngõ, ra đồng chờ xem có chuyện gì xảy ra. Mà làng tao thì chúng mày biết đấy, đó là một chỗ dễ nhìn ra xung quanh trống trải. Dân làng nhìn mãi, và bỗng nhiên, từ phía thị trấn, có một người đang đi xuống con đường dốc. Người đó nom kỳ quái, cái đầu đến lạ lùng... Mọi người kêu lên: "Ôi, Tơriska kia kìa"! - và ai trốn được vào chỗ nào thì trốn. Thôn trưởng của chúng tớ lao ngay xuống cái rãnh. Bà vợ ông ta mắc kẹt trong cái cửa ngăn ở dưới cổng lớn, bà ta kêu la inh ỏi, làm cho con chó giữ sân hoảng sợ đến nỗi nó dứt đứt xích, nhảy qua rào, chạy biến vào rừng. Còn Đôrôfêits, bố của Kuzơma, nhảy đại vào đám ruộng lúa mạch ngồi thụp xuống và bắt chước tiếng chim cun cút, kêu to lên. Ông ta nghĩ: "Kẻ hung ác giết người có lẽ cũng phải thương lấy một con chim chứ". Tất cả đều nháo nhác hoảng loạn cả lên?... Nhưng người đang đi chỉ là anh thợ đóng thùng Vavila ở làng thôi mà: anh ta vừa mua một cái bình gỗ mới, và úp chụp cái bình không lên đầu.

Bọn trẻ bật cười và lại im lặng một lát, như thường xảy ra với tất cả những người chuyện trò  ngoài trời. Tôi nhìn quanh: đêm tối trang nghiêm và uy nghi; khí mát ẩm ướt của buổi chiều tối đã nhường chỗ cho hơi ấm khô ráo lúc nửa đêm. Tấm chăn ấm và mềm mại ấy sẽ còn chùm lên những cánh đồng đã yên giấc nồng trong nhiều giờ nữa.

Còn lâu mới có tiếng líu lo đầu tiên, mới có những tiếng sột soạt và rì rào đầu tiên của giây phút vạn vật thức giấc, còn lâu mới có những ánh hồng của buổi rạng đông. Trời không trăng: cữ này trăng mọc muộn. Hằng hà sa số những vì sao óng ánh vàng thi nhau nhấp nháy, dường như cùng nhẹ nhàng trôi về phía sông Ngân, và nhìn sao trên trời, quả thực là dường như ta lờ mờ cảm thấy trái đất đang quay nhanh, không ngừng...Một tiếng kêu lạ lùng, chói gắt, đau đớn bỗng vang lên hai lần liền trên mặt sông và lát sau lại tiếp tục như thế...

Koxtya giật mình. "Gì thế nhỉ? - Con vạc nó kêu đấy - Paven đáp một cách bình tĩnh.

- Vạc - Koxtya lắp lại - Nhưng Pavlusa ạ, tối hôm qua tớ nghe thấy một thứ tiếng lạ lắm, không rõ là tiếng gì - Nó im lặng một lúc rồi nói thêm.  Có lẽ mày biết đấy...

- Mày nghe thấy gì?

- À, tao nghe thấy như thế này. Tao đi từ Kamernaia Građa đến Saskinô. Đầu tiên tao đi suốt dọc khu đất trồng hồ đào, rồi tao ra bãi cỏ mày biết đấy, chỗ đồng cỏ đổ thẳng xuống khe thành bờ dốc đứng, có một cái busilô ( [49] ). Mày biết đấy hố vẫn mọc đầy lau sậy. Chúng mày ạ, tao đi ngang qua cái busilô ấy, và bỗng nhiên, từ dưới đó như có tiếng ai rên rỉ vẳng lên, và tiếng rên nghe thảm ôi là thảm: u-u... u-hu-hu... u-u! Tao sợ choáng người: lúc ấy đã khuya rồi, mà tiếng kêu mới đau đớn làm sao. Nghe tưởng chừng có thể phát khóc lên được. Vậy nó là cái gì? Hở?

- Mùa hè năm kia, bọn ăn cắp dìm chết ông coi rừng Akim trong cái hố ấy - Pavlusa nói - Có lẽ oan hồn ông ấy than đấy.

- Thì ra là thế, chúng mày ạ - Koxtya lên tiếng tròn xoe đôi mắt vốn cũng đã quá to của mình...  Tớ không biết là Akim bị dìm trong cái busilô ấy. Nếu biết thì có lẽ tớ không đến nỗi sợ như thế.

- Nhưng người ta bảo rằng có những con nhái nhỏ xíu cũng kêu thảm thiết như thế cơ - Pavlus nói tiếp.

- Nhái à?... ồ không, đấy không phải là nhái...nhái gì lại thế... (Con vạc lại kêu trên sông) – Đồ chết tiệt! - Koxtya buột miệng thốt lên - Như tiếng kêu của con yêu rừng ấy.

- Yêu rừng không kêu, nó không có tiếng  Iliusa đáp - Nó chỉ vỗ tay và tắc lưỡi thôi...

- Mày đã thấy con yêu rừng rồi chắc? - Fêđy ngắt lời một cách giễu cợt.

- Không, tao không thấy, và cầu Chúa sao cho đừng gặp phải nó. Nhưng có những người khác đã thấy nó. Mới rồi nó đã trêu ghẹo một người làng tớ, nó lôi người đó vào rừng và kéo đi vòng quanh mãi một khu đất trống... Gần sáng ông ta mới lần về được đến nhà.

- Ông ta nhìn thấy nó chứ?

- Thấy, ông ta bảo là nó to ghê gớm, đen ngòm chùm kín từ đầu đến chân, nom có thể tưởng nhầm là cái cây, không thể nhìn rõ được, dường như nó lẩn tránh ánh trăng, nhưng nó có đôi mắt to tướng và giương mắt hấp hay, hấp hay nhìn...

- Gớm cái thằng này! - Fêđya kêu lên, hơi rùng mình và nhún vai...

- Cái giống nhơ bẩn ấy sinh sôi nẩy nở trên đời để làm gì kia chứ? - Paven nói - Quả thực là tớ không hiểu đấy!

- Đừng chửi. Coi chừng, nó nghe thấy đấy - Ilya nói.

Lại bắt đầu im lặng.

- Xem kìa, xem kìa, các anh - Cái giọng con nít của Vanya đột nhiên vang lên - Hãy nhìn những ngôi sao của Chúa, hệt như đàn ong lúc nhúc!

Nó thò khuôn mặt xinh xắn, tỉnh táo ra khỏi chiếu, chống nắm tay nhỏ bé xuống đất và thong thả ngước đôi mắt to ngoan ngoãn lên trời. Tất cả bọn trẻ cũng ngước mắt lên trời và một lúc lâu sau mới nhìn xuống.  - Vanya này - Fêđya nói một cách âu yếm – Chị Anhiutka của em có khỏe không?

- Khỏe ạ - Vanya đáp, hơi ngọng.

- Em hãy bảo chị em đến chơi với bọn này đi, vì sao lại không đến?

- Em không biết.

- Em bảo chị ấy đến đi.

- Em sẽ bảo.

- Em bảo chị ấy rằng anh sẽ tặng chị ấy quà.

- Thế cho cả em nữa chứ?

- Anh sẽ cho cả em nữa.

Vanya thở dài.

- Mà thôi, em không cần. Cho chị ấy hơn, chị em tốt lắm cơ.

Vanya lại ngả đầu xuống đất. Paven đứng lên và cầm lấy cái xoong rỗng.

- Mày đi đâu đấy? - Fêđya hỏi.

- Ra sông múc nước. Tao muốn uống nước cho đã.

Hai con chó đứng lên và theo nó.

Khéo kẻo ngã xuống sông đấy! - Iliusa hét với theo nó.

- Việc gì mà nó ngã - Fêđya nói - Nó sẽ cẩn thận chứ.

- Phải, sẽ cẩn thận. Thiếu gì chuyện có thể xảy ra: nó cúi xuống múc nước, hà bá sẽ tóm lấy tay nó và kéo tuột xuống. Rồi sau người ta sẽ bảo: thằng bé ngã xuống nước... Mà ngã cái cóc gì?... Đây kìa nó đã chui vào bụi sậy đấy - Nó vừa nói thêm vừa lắng nghe.

Đám sậy dường như rẽ ra, sột soạt.

Có phải là Akulina đâm ra ngớ ngẩn từ hồi bị chìm lâu dưới nước phải không nhỉ? - Koxtya hỏi. - Từ hồi ấy đấy...Bây giờ cô ta nom thật thảm thương! Vậy mà người ta bảo trước kia cô ta xinh lắm đấy. Hà bá đã làm hại cô ta. Chắc nó không ngờ là cô ta sẽ được cứu lên nhanh thế. Chính nó đã hãm hại cô ta ở dưới nước mà.

(Chính tôi đã gặp Akulina ấy nhiều lần. Xống áo rách mướp, gầy kinh khủng, mặt đen như than, mắt ngây dại và răng luôn luôn nhe ra, cô ta đứng giậm chân ở một chỗ nào trên đường suốt mấy giờ liền ghì chặt hai cánh tay gầy giơ xương vào ngực và chậm chạp đổi thế đứng ở chân nọ sang chân kia như con thú hoang trong lồng. Nói gì cô ta cũng không hiểu, chỉ thỉnh thoảng lại cười ngặt nghẽo).

- Người ta còn bảo Akulina gieo mình xuống sông vì bị người yêu lừa dối. - Koxtya nói tiếp.

- Chính thế đấy.

- Mày có nhớ Vaxya không? - Koxtya nói thêm với vẻ buồn rầu.

- Vaxya nào? - Fêđya hỏi.

- Thằng Vaxya chết đuối chính trong con sông này ấy mà - Koxtya đáp - Nó là một thằng bé dễ thương biết bao. Chà, thằng bé đáng mến lắm cơ! Mẹ nó, bà Fêklixta, yêu nó vô cùng! Mà hình như bà ấy cảm thấy rằng nó sẽ chết vì sông nước. Đôi khi, về mùa hè, Vaxya đi với chúng tớ ra sông tắm.

Mỗi lần như thế, mẹ nó đều run lên bần bật. Những người đàn bà khác thì thản nhiên như không, bưng chậu giặt khệ nệ đi qua, còn Fêklixt đặt chậu xuống đất và gọi nó: "Lên đi, lên đi, tia sáng nhỏ bé của mẹ! Ôi, lên bờ đi, con chim ưng nhỏ bé của mẹ. Và nó chết đuối như thế nào thì có trời biết. Nó chơi trên bờ, mẹ nó cũng ở đấy, đang đánh đống cỏ khô. Bỗng bà ấy nghe như có ai phì bong bóng nước, ngoảnh lại thì chỉ thấy cái mũ của Vaxya nổi lềnh bềnh. Thế là từ đó bà Fêklixta đâm ra ngây dại: bà ấy cứ đến chỗ nó chết đuối và nằm xuống đất. Bà ấy nằm đấy và hát một bài hát ngắn; chúng mày còn nhớ bài mà Vaxya vẫn hát chứ, bà ấy rền rĩ hát bài đó, hát rồi khóc, khóc sướt mướt và oán trách Chúa trời bằng những lời chua xót...

- Pavlusa về kia rồi - Fêđya thốt lên.

Paven tới gần đống lửa, tay xách cái ga men đầy nước.

- Chúng mày ơi - Nó nói, sau một lúc im lặng. Có chuyện không hay.

- Gì thế" - Koxtya hấp tấp hỏi.

- Tao nghe thấy tiếng Vaxya.

Cả bọn tự nhiên đều giật mình.

- Mày bảo sao, hở? - Koxtya lắp bắp.

- Thực đấy. Tao vừa cúi xuống nước thì bỗng nghe thấy tiếng Vaxya gọi, và tiếng gọi như từ đáy nước đưa lên: "Pavlusa, Pavlusa à!". Tớ nghe tiếng đó lại gọi: "Pavlusa, xuống đây!". Tớ lùi lại. Nhưng tớ đã múc được nước.

- Ôi lạy Chúa? Lạy Chúa tôi! - Những thằng bé vừa kêu lên vừa làm dấu thánh.

- Ấy là hà bá gọi mày đấy, Paven ạ. - Fêđy thêm... - Chúng tớ cũng vừa nói chuyện về Vaxya.

- Chà, đấy là điểm chẳng lành - Iliusa nói giọng đứt quãng.

- Chẳng hề gì, kệ - Paven nói với giọng quả quyết và lại ngồi xuống - Chẳng thể nào thoát khỏi số mệnh của mình.

Bọn trẻ nín lặng. Rõ ràng là lời Paven đã gây cho chúng ấn tượng sâu sắc. Chúng bắt đầu nằm xuống trước đống lửa như sửa soạn đi ngủ.

- Cái gì thế? - Koxtya bỗng ngẩng đầu lên, hỏi.

Paven lắng nghe.

- Đấy là chim dẽ gà. Khi bay, thỉnh thoảng chúng lại huýt lên như thế.

- Chúng bay đi đâu?

- Người ta bảo là chúng nó bay về nơi không có mùa đông.

- Có nơi như thế ư?

- Có.

- Xa không?

- Xa, xa lắm, bên kia những biển ấm. Koxtya thở dài và nhắm mắt lại. Đã hơn ba tiếng kể từ lúc tôi nhập bọn với những thằng bé.

Trăng đã lên. Tôi không nhận thấy ngay là trăng đã mọc: vầng trăng nhỏ và hẹp bề ngang quá. Cái đêm không trăng này có vẻ vẫn tráng lệ như trước.

Nhiều ngôi sao ban nãy còn cao vòi vọi, giờ đây đã chếch về phía rìa trái đất mờ tối. Xung quanh đã trở nên im ắng. Chỉ gần sáng, vạn vật mới lặng đi như thế. Tất cả đều ngủ say, không nhúc nhích, giấc ngủ trước lúc rạng đông. Không khí không còn đượm nồng như trước, hơi ẩm dường như lại tràn lan khắp nơi... Đêm hè thật là ngắn ngủi!... Cuộc chuyện trò của bọn trẻ lụi dần theo đống lửa...Những con chó cũng ngủ gà ngủ gật. Dưới ánh sao lung linh sáng mờ, tôi có thể nhận ra những co vật cũng nằm rũ đầu xuống... Tôi mơ màng, rồ thiu thiu ngủ.

Một làn gió mát mẻ mơn trớn trên mặt tôi. Tôi mở mắt: buổi sáng đã đến. Chưa chỗ nào nhuốm ánh hồng, nhưng góc trời đằng đông đã bắt đầu trắng ra. Đã nhìn thấy mọi vật xung quanh, tuy còn mờ mờ. Bầu trời xám nhợt đã sáng hơn, chuyển dần sang màu xanh lơ. Những ngôi sao khi thì nhấp nháy ánh sáng yếu ớt, khi thì biến mất! Mặt đất nhuốm hơi ẩm, lá bắt đầu đổ mồ hôi, những âm thanh sinh động và tiếng nói của các sinh vật đã bắt đầu nổi lên đây đó, làn gió sớm thoang thoảng đã bắt đầu nhởn nhơ bay lượn trên mặt đất. Cơ thể tôi chào mừng nó bằng một cái rùng mình nhè nhẹ vui vẻ. Tôi nhanh nhẹn trở dậy và đến gần những thằng bé. Chúng vẫn ngủ như chết quanh những đống lửa chỉ còn than cháy âm ỉ. Riêng có Paven nhổm nửa người lên và chăm chú nhìn tôi.

Tôi gật đầu với nó và lên đường trở về, đi dọc con sông hơi bốc nghi ngứt. Tôi đi chưa được hai dặm thì xung quanh tôi, những dòng ánh sáng trẻ trung nồng nhiệt, thoạt tiên màu thắm hồng, rồi chuyển sang màu đỏ và vàng, đã chảy tràn ra khắp nơi: trong đồng cỏ bát ngát đẫm hơi sương, trên những quả đồi xanh rờn ở phía trước, từ khu vực này đến khu rừng khác, trên con đường dài bụi bậm ở phía sau, trên những bụi cây lấp lánh màu huyết dụ, và trên con sông bóng lên một màu xanh mờ bẽn lẽn dưới làn sương mù đang tan dần...

Khắp nơi, những giọt sương lớn rực lên như những hạt kim cương chói ngời. Tiếng chuông trong trẻo và sáng rõ, dường như cũng được tắm gội trong khí mát ban mai, bay về phía tôi, và bỗng nhiên, bầy ngựa đã được nghỉ ngơi hồi sức rầm rập lao đi bên cạnh tôi: những thằng bé quen biết lùa chúng đi...

Đáng tiếc là tôi phải nói thêm rằng Paven đã từ giã cõi đời ngay trong năm ấy. Nó không chết đuối nó chết vì ngã ngựa. Thương thay, nó là một gã trai tuyệt diệu!