← Quay lại trang sách

KAXIAN Ở KRAXIVAIA METS

Tôi đi săn về, ngồi trong chiếc xe tải nhỏ xóc nảy người. Bải hoải vì cái nóng ngột ngạt của một ngày hè đầy mây (ai cũng biết rằng những ngày như thế đôi khi còn nóng hơn cả những ngày bầu trời trong sáng, nếu lại không có gió nữa thì càng oi bức không thể chịu được), tôi thiu thiu ngủ và lắc la lắc lư, cau có và kiên gan phó mặc thân mình làm mồi cho đám bụi nhỏ trắng xoá không ngớt bốc lên từ con đường gồ ghề dưới những bánh xe nứt nẻ và xọc xạch. Bỗng nhiên, tôi bừng tỉnh và để ý ngay đến vẻ bồn chồn khác thường và cử động nhấp nhỏm đầy vẻ lo lắng của người đánh xe, trước đó anh ta ngủ còn say hơn tôi. Anh ta giật cương ngọ nguậy trên ghế, bắt đầu thét mắng ngựa và chốc chốc lại nhìn ra nơi nào ở mé bên. Tôi nhìn quanh. Chúng tôi đang đi trên một cánh đồng lớn đã cày. Những quả đồi thấp, cũng đã cày, chạy thoai thoải vào đồng bằng, tạo thành hình thế nhấp nhô như sóng. Tầm mắt nhìn chỉ xa được khoảng năm dặm trong không gian vắng vẻ. Xa xa chỉ có những khoảnh rừng phong nhỏ vươn cao những ngọn cây tròn có khía răng cưa lên trời, làm đứt quãng đường chân trời gần như thẳng băng. Những con đường nhỏ chạy dài trên các cánh đồng biến mất trong các chỗ trũng, lượn vòng quanh các ngọn đồi, và trên con đường nhỏ cắt ngang đường chúng tôi ở một chỗ cách năm trăm bước về phía trước, tôi nhận thấy một đoàn xe đang đi. Chính đó là cái mà người đánh xe của tôi chốc chốc lại đưa mắt nhìn.

Đấy là đám tang. Phía trước, chiếc xe một ngựa đi thong thả. Trên xe có một giáo sĩ, ngồi bên cạnh ông ta là viên tư tế, chính viên tư tế điều khiển ngựa. Đi sau xe là bốn nông dân đầu trần khiên một cỗ quan tài phủ vải trắng. Hai người đàn bà đi sau quan tài. Cái giọng cao, ai oán, yếu ớt của một trong hai người đó bỗng bay đến tai tôi. Tôi lắng nghe: người đàn bà ấy gào khóc. Khúc điệu đau xót tuyệt vọng, đơn điệu, ngân nga ấy vang lên giữa cánh đồng hiu quạnh nghe thật não nùng. Người đánh xe giục ngựa, anh ta muốn vượt đường trước khi đoàn xe tang đến. Gặp người chết trên đường là điềm gở. Anh ta thực sự đã kịp cho xe vượt đường trước khi người quá cố đến nơi. Nhưng chúng tôi đi xa chưa được một trăm bước thì xe xóc mạnh một cái, nghiêng hẳn đi, suýt đổ. Người đánh xe ghìm những con ngựa đang chạy nhanh lại, nghiêng mình ra ngoài xe nhìn xem, rồi phảy tay và nhổ bọt.

- Cái gì thế - Tôi hỏi.

Người đánh xe của tôi lẳng lặng và thong thả xuống xe.

- Sao thế?

- Trục gẫy... bị cháy - Anh ta rầu rĩ trả lời và đột nhiên sửa lại cái đai da của con ngựa phụ với thái độ phẫn nộ đến nỗi con vật suýt ngã nghiêng nhưng cố đứng vững được, phì một tiếng, lắc mình và hết sức điềm tĩnh, bắt đầu dùng răng gãi chỗ dưới đầu gối chân trước.

Tôi xuống xe và đứng một lúc trên đường, trong lòng mơ hồ cảm thấy một nỗi băn khoăn bực dọc. Bánh xe bên phải gần như hoàn toàn bị đè dưới xe âm thầm tuyệt vọng chỏng gọng lên trời.

Làm thế nào bây giờ? - Cuối cùng tôi hỏi.

- Tại cái kia kìa! - Người đánh xe của tôi vừa nói vừa giơ roi chỉ đoàn xe đã lên đường cái và tới gần chúng tôi. - Bao giờ tôi cũng nghiệm thấy rằng gặp người chết là điềm gở. Đúng thế.

Anh ta lại rầy la con ngựa phụ. Con vật thấy anh có vẻ bực bội và nghiêm khắc, liền đứng im không nhúc nhích, chỉ thỉnh thoảng ve vẩy đuôi một cách nết na. Tôi cũng đi đi lại lại dăm ba bước và dừng trước bánh xe.

Trong lúc đó, người quá cố đã đuổi kịp chúng tôi. Đám tang buồn rầu, lẳng lặng rẽ sang vệ cỏ bên đường và kéo theo cỗ xe chúng tôi. Tôi và người đánh xe bỏ mũ, chào ông giáo sĩ, đưa mắt trao đổi với những người khiêng quan tài. Họ đi một các khó nhọc, nhưng bộ ngực rộng của họ ưỡn cao. Trong hai người đàn bà đi sau quan tài, một người già và tái nhợt, nét mặt biến dạng hẳn đi vì đau xót, nom đờ đẫn, nhưng vẫn giữ được vẻ trang nghiêm trịnh trọng. Bà ta lẳng lặng bước đi, thỉnh thoảng đưa bàn tay gầy guộc lên gần cặp môi mỏng móm sâu vào. Người kia còn trẻ, khoảng chừng hai mươi nhăm tuổi, mắt ướt đỏ hoe, sưng húp lên vì khóc. Khi tới chỗ chúng tôi, chị ta thôi không gào khóc nữa và đưa ống tay áo lên che mặt... Nhưng người quá cố đã vượt qua chỗ chúng tôi, lại đi ra giữa đường, và tiếng than khóc ai oán, xé lòng xé ruột của chị lại vang lên. Người đánh xe của tôi đưa mắt nhìn theo chiếc quan tài lắc lư đều đều nói với tôi:

- Đám ma anh thợ mộc Martưn đấy - Anh ta nói - Người ở Riaba.

- Tại sao anh biết?

- Nhìn hai người đàn bà kia là tôi nhận ra. Người già là mẹ anh ta, còn người trẻ là vợ.

- Anh ta ốm à?

- Vâng, sốt cao... Hôm kia, người quản lý cho mời đúc tờ, nhưng ông đúc tờ không có nhà. Anh ta là thợ mộc giỏi, có hơi nghiện rượu, nhưng là thợ mộc giỏi. Ông xem, vợ anh ta đau buồn như thế...ờ, nhưng ai chả biết là nước mắt đàn bà có phải bỏ tiền ra mua đâu. Nước mắt đàn bà cũng như nước lã. Đúng thế.

Người đánh xe của tôi thoạt tiên tì đầu gối vào vai con ngựa chính, lắc cái cóng ngựa hai lần, sửa lại yên, rồi lại luồn qua dưới cương con ngựa phụ nhân tiện tống vào mõm nó một cái, và tới gần bánh xe, nhìn chằm chằm, và vẫn không rời mắt khỏi cái bánh xe, thong thả lấy ở dưới tà áo kafơtan ra một cái hộp nhỏ bằng vỏ cây phong, thong thả kéo sợ dây nhỏ mở nắp hộp, thong thả thò hai ngón tay to tướng vào (hai ngón tay phải khó khăn tắm mới ních vào vừa), vò đi vò lại thuốc lá, nhếch mũi trước khi hít, rồi hít thuốc một lúc lại ngừng, mỗi lần đều kèm theo tiếng khà kéo dài, và nheo nheo, hấp háy cặp mắt ứa nước như bị đau, trầm ngâm suy nghĩ.

- Này, thế nào? - Cuối cùng tôi thốt lên.

Người đánh xe của tôi cẩn thận cho cái hộp vào túi và không dùng tay, chỉ lắc đầu một cái làm mũ sụp xuống tận lông mày, và đăm chiêu leo lên chỗ ngồi.

- Anh định đi đâu thế - Tôi ngạc nhiên hỏi anh ta.

- Xin mời ông lên - Anh ta điềm nhiên trả lời và cầm lấy dây cương.

- Đi bằng cách nào được?

- Đi được chứ.

- Nhưng trục xe...

- Xin mời ông lên.

- Trục gẫy rồi mà.

- Gẫy thì gẫy, nhưng vẫn có thể đi cố đến một xóm gần đây, đi thong thả thôi mà. Sau khoảng rừng kia, ở phía bên phải, có một xóm gọi là xóm Iuđin.

- Thế anh cho rằng chúng ta vẫn dùng xe nà mà đến được nơi ấy à?

Người đánh xe không buồn trả lời tôi.

- Thà tôi đi bộ còn hơn - Tôi nói.

- Xin tuỳ ông...

Anh ta quất roi. Ngựa cất bước.

Chúng tôi quả thực là đã đến được cái xóm ấy tuy bánh xe trước phía bên phải chỉ dính lỏng lẻo vào xe và quay một cách lạ lùng phi thường. Khi xuống một cái gò đất, bánh xe suýt văng ra. Nhưng người đánh xe của tôi quát nó một tiếng hết sức giận dữ, và chúng tôi xuống dốc yên ổn. Xóm Iuđin gồm sáu túp nhà nhỏ thấp lè tè, đã xiêu vẹo tuy có lẽ cũng mới dựng cách đây không lâu; không phải sân nhà nào cũng có rào bao quanh. Khi vào xóm ấy, chúng tôi không gặp một người nào cả, thậm chí đến gà mái hay chó cũng không thấy. Chỉ có một con chó đen, đuôi cộc, từ một cái chậu giặt hoàn toàn khô nhảy ra (chắc nó khát quá nên sục vào đấy tìm nước) và thấy chúng tôi, nó không sủa tiếng nào, hấp tấp chui ngay xuống dưới cổng. Tôi vào túp nhà đầu tiên, mở cửa phòng ngoài, gọi chủ nhân, nhưng không ai trả lời. Tôi gọi lần nữa: phía sau cánh cửa kia, có tiếng meo meo của con mèo đói. Tôi dùng chân đẩy cửa, con mèo nhảy vọt qua bên cạnh tôi, đôi mắt xanh lè trong bóng tối. Tôi thò đầu vào phòng, nhìn: phòng tối tăm, ám khói, vắng tanh. Tôi ra sân, cũng chẳng thấy ai... Trong một khu vực có rào bao quanh, một con bê cất tiếng kêu. Một con ngỗng xám thọt chân khập khiễng lánh đi. Tôi sang nhà thứ hai, nhà này cũng không có mống nào. Tôi ra sân...ở chính giữa cái sân sáng sủa, chỗ nắng ấm nhất, một người nằm sấp, đầu trùm cái áo armiak tôi đoán đó là một thằng bé, cách đấy mấy bước cạnh một chiếc xe tải nhỏ tồi tàn, một con ngựa gà guộc, thắng bộ cương rách nát, đứng dưới cái mái che lợp rạ. Những luồng ánh sáng mặt trời dọi qua các khe hẹp của cái mái rạ cũ nát, in những vệt sáng nhỏ sặc sỡ trên bộ lông xồm màu đỏ của con ngựa. Ngay ở đấy, trong cái chuồng chim treo cao những con sáo sậu chuyện trò huyên thuyên, từ trên căn nhà nhỏ lờ lững của mình ngó xuống với vẻ bình tĩnh và tò mò. Tôi tới gần người đang ngủ đánh thức người đó.

Người đó ngẩng đầu lên, thấy tôi và lập tức bật dậy... "Cái gì? Ai cần gì? Gì thế?" - người đó càu nhàu vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn.

Tôi không trả lời ngay: hình dạng người này làm tôi sửng sốt quá đỗi. Các bạn hãy tưởng tượng ra một người lùn trạc năm mươi tuổi, mặt nhỏ nước da nâu sạm và nhăn nheo, mũi nhỏ và nhọn, cặp mắt màu hạt dẻ mà ta phải để ý lắm mới nhận thấy được, tóc đen xoăn, dầy rậm như cái mũ nấm xoè rộng trên mái đầu nhỏ xíu. Toàn thân người đó rất hom hem và gầy, và dứt khoát là không có lời nào tả cho được cái nhìn của người đó khác thường và kỳ lạ đến thế nào.

- Cần gì? - Người đó lại hỏi tôi.

Tôi nói cho ông ta rõ tôi muốn gì. Ông ta nghe tôi nói, cặp mắt chớp chớp thư thả vẫn không rời khỏi tôi.

- Vậy ông không thể kiếm cho tôi một cái trục mới được à? - Cuối cùng, tôi hỏi - Giá cả thế nào cũng được. - Nhưng các anh là ai? Người đi săn hả? - ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân và hỏi.

- Người đi săn.

- Bắn chim trời chứ gì?... Bắn thú rừng chứ gì? Các người giết những con chim của Chúa, làm đổ máu những con vật vô tội chẳng phải là có tội ư?

Ông già kỳ lạ nói rất dài giọng. Giọng nói của ông ta cũng khiến tôi ngạc nhiên. Nó không có vẻ gì là già yếu, mà ngọt ngào lạ thường, trẻ trung và dịu dàng gần như giọng phụ nữ.

- Tôi không có trục xe - ông ta nói thêm, sau một lúc im lặng - Cái này không dùng được (ông ta chỉ chiếc xe của mình), xe của ông có lẽ to hơn.

- Thế có thể tìm trong làng được không?

- Làng gì ở đây!... ở đây chẳng có ai cả. Mà cũng chẳng có ai ở nhà: đi làm hết cả. Các anh đi đi - ông ta bỗng thốt lên và lại nằm xuống đất.

Tôi không hề ngờ tới cái kết thúc như thế.

- Này, ông già - Tôi chạm vào vai ông ta, nói - ông vui lòng giúp chúng tôi với.

- Mời các anh đi cho! Tôi mệt rồi, tôi vừa ra thành phố về. - ông ta nói và kéo cái áo armiak lên che đầu.

- Ông giúp hộ - Tôi nói tiếp - Tôi... tôi sẽ trả tiền.

- Tôi không cần tiền của anh.

- Ông già ơi, ông làm ơn...

Ông ta nhỏm nửa người lên và ngồi dậy, xếp bằng tròn, đôi chân mảnh khảnh thu lại.

- Thôi được, tôi sẽ dẫn ông đến khu đốn cây. Những người lái buôn ở đây đã mua một khoảnh rừng, Chúa sẽ phán xét họ, họ sẽ đốn khoảnh rừng đó và đã lập một chi điếm buôn, Chúa sẽ xét xử họ. Đến đấy anh sẽ đặt họ làm một cái trục hay mua một cái làm sẵn.

- Hay lắm! - Tôi sung sướng kêu lên - Tuyệt lắm! Ta đi đi.

- Trục gỗ sồi, loại trục tốt đấy - ông ta nói tiếp nhưng vẫn không đứng lên.

- Đến khu đốn gỗ có xa không?

- Ba dặm.

- Thế thì được? Có thể dùng xe của ông đi đến đó!

- Ồ, không...

- Ta đi đi - Tôi nói - Chúng ta cùng đi, ông già ạ? Người đánh xe đang chờ chúng ta ở ngoài đường.

Ông già miễn cưỡng đứng lên và theo tôi ra đường. Người đánh xe của tôi đang cáu: anh ta định cho ngựa uống nước, nhưng giếng rất cạn, mùi vị nước lại khó chịu, mà theo lời những người đánh xe, nước uống cho ngựa là quan trọng bậc nhất.

Tuy thế, thấy ông già, anh ta cười toác miệng, gật đầu và kêu lên - A, Kaxianuska! Chào ông!

- Chào anh, Êrôfây, chào người công chính!  Kaxian đáp, giọng chán ngán.

Tôi lập tức nói cho anh ta biết đề nghị của ông già. Êrôfây  đồng ý và cho xe vào sân. Trong lúc anh ta tháo ngựa một cách chăm chú, cẩn thận, ông già đứng tựa vai vào cổng, khi thì nhìn anh ta, khi thì nhìn tôi với vẻ không vui. Ông ta dường như băn khoăn: tôi nhận thấy ông ta không lấy gì làm vui mừng về cuộc đến thăm bất ngờ của chúng tôi.

- Thế ông cũng phải dọn đến ở đây à? - Êrôfây  đột nhiên hỏi ông ta lúc tháo cái vai ngựa.

- Anh thấy đấy.

- Hừ? - Người đánh xe thốt lên qua kẽ răng - ông biết chứ, anh thợ mộc Martưn... ông biết Martưn ở Riaba chứ?

- Biết.

- Anh ta chết rồi. Chúng tôi vừa gặp đám đưa ma anh ta.

Kaxian giật mình.

- Chết rồi à? - ông ta thốt lên và cúi mặt xuống. –

- Phải, chết rồi. Sao ông không chữa cho anh ta, hả? Nghe nói ông vẫn chữa bệnh, ông là thày lang cơ mà?

Có lẽ người đánh xe của tôi đùa bỡn, chế nhạo ông già.

- Đây là xe của ông phải không? - Anh ta nói thêm, hếch vai chỉ cái xe.

- Của tôi.

- Ôi chào, cái này mà cũng gọi là xe... xe với xiếc! - Anh ta nhắc lại và cầm lấy càng xe, gần như lật ngửa nó lên... - Xe với xiếc! Thế các ông định đi ra khu đốn cây bằng xe nào? Không thể thắng ngựa của chúng tôi vào hai càng xe này được: ngựa của chúng tôi là ngựa to, còn cái này là cái gì?

- Tôi không biết các anh sẽ dùng ngựa nào để đi Kaxian đáp - Hay dùng con vật này chăng - ông ta nói thêm, kèm theo tiếng thở dài.

- Con này ấy à? - Êrôfây  nói theo và tới gần con ngựa khổ của Kaxian, dùng ba ngón tay của bàn tay phải xỉa vào cổ nó với vẻ khinh miệt.  Xem này - Anh ta nói thêm với vẻ trách móc - Nó ngủ, của nợ!

Tôi bảo Êrôfây  thắng ngựa mau lên. Tôi muốn đi với Kaxian đến khu đốn cây: ở đấy thường có gà rừng. Khi xe đã sẵn sàng, và tôi cùng với con chó của tôi đã thu xếp ngồi tạm trên cái sàn xe vênh vẹo còn Kaxian cũng ngồi thu lu trên thành xe phía trước, vẻ mặt vẫn chán ngán như trước, thì Erôfây đến gần tôi và thì thầm với vẻ bí mật - Thưa ông, ông đi với lão ta là rất hay. Lão kì quặc thế đấy, lão là thánh hài ( [50] ) mà, người ta đặt biệt hiệu cho lão là Blôkha ( [51] ). Tôi không biết ông làm thế nào mà có thể hiểu được lão.

Tôi toan bảo với Êrôfây  rằng cho đến lúc này tôi vẫn thấy Kaxian là một người hoàn toàn khôn, nhưng người đánh xe của tôi lập tức nói tiếp, vẫn một giọng như thế:

- Ông hãy chú ý xem lão có đánh xe đưa ông đến đấy không? Và trục xe thì xin ông tự chọn lấy, chọn cái nào khỏe ấy... à, ông Blôkha này - Anh ta nói thêm, cất cao giọng - Có thể mua được bánh mì ở vùng này không?

- Cứ tìm đi, có thể sẽ tìm được đấy. - Kaxia đáp, giật dây cương, và chúng tôi đi.

Tôi thực sự ngạc nhiên thấy ngựa ông ta chạy rất khá. Suốt dọc đường, Kaxian cứ gan lì chẳng nói chẳng rằng, tôi hỏi thì ông ta trả lời nhát gừng và miễn cưỡng. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến khu đốn cây, rồi đến được chi điếm buôn. Đấy là một ngôi nhà gỗ cao, đứng trơ trọi trên một cái khe nhỏ được chặn ngang bằng một con đập đắp qua quít, và khe đã biến thành cái ao. Trong điểm giao dịch ấy, tôi gặp hai người quản lý trẻ tuổi, răng trắng như tuyết, mắt nhìn dịu dàng, nói năng nhẹ nhàng và lưu loát, miệng mỉm cười vừa ngọt ngào vừa quỉ quyệt. Tôi mua trục xe của họ và trở lại khu đốn cây. Tôi tưởng Kaxian sẽ ở lại trông ngựa của mình và chờ tôi, nhưng ông ta bỗng tới gần tôi.

- Thế nào, anh sẽ đi bắn chim chứ? Sao? - Ông ta hỏi.

- Vâng, nếu tìm thấy chim.

- Tôi sẽ đi với anh... Được không?

- Được, được chứ.

Chúng tôi đi. Khu đốn cây chỉ dài chừng một dặm. Thú thực là tôi chú ý nhìn Kaxian hơn là nhìn con chó của tôi. Người ta gán cho ông ta cái biệt hiệu "Bọ nhảy" không phải là vô cớ. Cái đầu nhỏ tóc đen để trần của ông ta (tóc ông ta có thể thay thế cho bất cứ cái mũ nào) thấp thoáng trong các bụi cây. Ông ta đi nhanh nhẹn lạ thường và dường như vừa đi vừa nhảy, luôn luôn cúi xuống hái những thứ cỏ gì không rõ, nhét vào ngực áo, lầm bầm một mình và luôn luôn nhìn con chó của tôi, cái nhìn tò mò, lạ lùng hết chỗ nói. Trong các bụi cây thấp, trong các bụi rậm và ở các khu đốn gỗ thường có những con chim nhỏ màu xám chốc chốc lại chuyền từ cây này sang cây khác và vừa huýt lên vừa bất ngờ lẩn biến đi đâu mất.

Kaxian chòng ghẹo chúng, bắt chước tiếng kêu của chúng: một con cun cút vừa kêu vừa bay lên từ dưới chân ông ta, ông ta liền bắt chước tiếng nó gọi với theo. Một con sơn ca bắt đầu là xuống trên đầu ông ta, vỗ cánh và hót lanh lảnh. Kaxian phụ họa theo khúc ca của nó. Ông ta vẫn không nói chuyện với tôi...

Thời tiết vẫn đẹp, càng đẹp hơn trước, nhưng không bớt nóng chút nào. Trên bầu trời trong sáng những đám mây cao và thưa thớt nhẹ nhàng lướt trôi, để ý lắm mới thấy là chúng vẫn lướt đi. Mây nửa trắng nửa vàng như tuyết mùa xuân đến muộn, phẳng phiu và thuôn thuôn như những cánh buồm đã cuốn lại. Đường rìa của chúng có vân hoa nhẹ xốp như bông tơ, mỗi lúc một thay hình đổi dạng một cách chậm chạp, nhưng có thể thấy được.

Những đám mây ấy tan dần ra, nhưng không tỏa bóng tối xuống mặt đất. Tôi với Kaxian đi vơ vẩn một lúc lâu trong khu đốn cây. Những cành cây non chưa cao quá một arsin (0,71m), mảnh và nhẵn, mọc quanh những gộc cây thấp đã xạm đen. Những cục u tròn, xốp có đường viền xám dính vào những gộc

cây ấy: chính những cục u mà người ta chích nhựa để làm bùi nhùi. Dâu rừng thả những tua cuốn màu hồng dọc theo các thân cây, nấm mọc chen chúc từng gia đình đông đúc ngay tại đấy. Chân tôi luôn luôn bị vướng trong đám cỏ dài no nê ánh mặt trời nóng cháy. Nhìn chỗ nào mắt cũng hoa lên vì ánh lấp lánh chói gắt như ánh kim loại của những lá non màu đỏ nhạt trên những cây nhỏ. Khắp nơi phô ra những màu sắc sặc sỡ: những chùm đậu rừng màu thanh thiên, những đài hoa quáng gà vàng óng, những bông Ivan-đa-marya nửa tím nửa vàng. Trên những con đường nhỏ lâu nay không dùng đến nữa, có những dải cỏ lăn tăn màu đỏ, di tích của những vệt bánh xe trước kia. Rải rác đây đó cạnh những con đường ấy, có những đống củi đã sạm đen vì mưa gió, xếp thành khối vuông cao tớ một xagien (2,13m) in xuống mặt đất những vệt bóng mờ mờ hình bình hành. Ngoài ra không còn một vệt bóng nào nữa. Ngọn gió phe phẩy khi thì dậy lên khi thì lặng đi: lúc mới nổi lên, nó đột nhiên hướng thẳng vào mặt và dường như mỗi lúc một mạnh: xung quanh, mọi vật đều ồn ào vui vẻ, bắt đầu gật gù và lay động, những ngọn dương xỉ mềm mại lắc lư một cách duyên dáng, ta vui sướng vì cơn gió mát... nhưng gió lại lặng đi, và tất cả lại im ắng. Riêng có những con dế vẫn kêu ran lên như bực tức: cái âm thanh không ngừng, chua gắt và khô khan ấy làm ta mệt mỏi. Nó bắt nguồn từ cái nóng dai dẳng buổi trưa, dường như do cái nóng ấy sinh ra, do cái nóng ấy làm bật lên từ mặt đất bị nung nóng bỏng.

Cuối cùng, chúng tôi đã đến khu đốn cây mới và vẫn không gặp một ổ chim nào cả. Ở đấy, những cây hoàn diệp liễu mới chặt nằm dài trên mặt đất, nom buồn thiu, đè lên cỏ và những bụi cây nhỏ. Ở một số cây, lá vẫn còn xanh nhưng đã chết, lá rũ xuống trên những cành bất động, ở một số cây khác lá đã khô héo, cong queo. Một mùi đăng đắng đặc biệt, hết sức dễ chịu toả ra từ những mảnh cỏ cây tươi màu trắng và vàng ánh nằm chất đống cạnh những gộc cây còn ứa nhựa. Đằng xa, phía gần rừng, có tiếng rìu bổ chan chát, và chốc chốc, một cái cây um tùm lại ngã xuống một cách trịnh trọng và nhẹ nhàng, như cú chào và giang rộng tay...

Tôi tìm mãi vẫn không thấy con vật nào để bắn. Cuối cùng, từ một bụi sồi non lan rộng, có cỏ ngải mọc suốt từ trong đến ngoài, một con gà nước bay qua. Tôi nổ súng, nó lộn nhào trên không và rơi xuống. Nghe tiếng nổ, Kaxian đưa nhanh tay lên bịt mắt và không nhúc nhích, cho đến khi tôi nạp xong đạn và nhặt con gà lên mới thôi. Khi tôi lại tiếp tục đi, ông ta tới chỗ con chim bị hạ, cúi xuống đám cỏ vấy mấy giọt máu, lắc đầu sợ hãi nhìn tôi...Rồi tôi nghe thấy ông ta thì thầm: "Tội lỗi!... Cha ôi thật là tội lỗi?!'.

Cuối cùng, cái nóng buộc chúng tôi phải vào rừng. Tôi gieo mình xuống dưới một bụi hồ đào cao. Bên trên, một cây phong non, thon gọn, dang rộng những chùm lá nhẹ, nom thật là đẹp. Kaxian ngồi lên cái gốc cụt to của một cây dương bị đốn. Tôi nhìn ông ta. Lá cây hơi lay động trên đỉnh cao, và những bóng lá phơn phớt màu lục nhẹ nhàng lướt đi lướt lại trên tấm thân hom hem đùm trong chiế áo armiăk thẫm màu, trên khuôn mặt choắt của ông già. Ông già không ngẩng đầu lên. Chán ngán vì thái độ lầm lì của ông ta, tôi nằm ngửa mặt lên và bắt đầu ngắm trò chơi hiền hoà của những chiếc lá đan lẫn vào nhau in trên nền trời xa trong sáng.

Nằm ngửa lưng trong rừng và nhìn lên cao là mộ cái thú tuyệt trần! Bạn có cảm giác như bạn đang nhìn cái biển không đáy, dường như cái biển ấy trải rộng dưới lưng bạn, dường như cây cối không mọc từ dưới đất lên, mà chúng là rễ của những cây khổng lồ ăn lan xuống, cắm thẳng vào những làn sóng trong như pha lê. Lá cây khi thì ánh lên màu ngọc bích, khi thì sậm lại thành một màu lục, ánh sáng vàng, gần như đen. Xa tít trên kia, cuối một cành cây mảnh, một chiếc lá không lay động, in lên mảng trời xanh trong, và cạnh đó một chiếc lá khác rung rinh, nom như cái đuôi cá ve vẩy, tưởng chừng như cử động ấy là cử động tự ý của sinh vật chứ không phải do gió gây nên. Những đám mây trắng tròn trĩnh nhẹ nhàng trôi tới và nhẹ nhàng lướt qua như những đảo ngầm thần kỳ. Và, bỗng nhiên, cả cái biển ấy, cả bầu không khí chói lọi ấy cả những cành lá ngập ánh nắng ấy đều bắt đầu chảy thành dòng, đều lấp loé ánh sáng trắng lung linh và tiếng róc rách tươi mới chợt dậy lên, hồi hộp như tiếng vỗ nhỏ nhẹ bất tận của con sóng đột nhiên ùa tới. Bạn không nhúc nhích và nhìn: không lời nào tả được nỗi vui sướng trong lòng bạn, tâm hồn bạn trở nên yên tĩnh và khoan khoái. Bạn nhìn: cái màu xanh da trời sâu thẳm tinh khiết ấy khiến cho trên môi bạn nở một nụ cười cũng trong trắng như thế, như những đám mây trên trời, và dường như cùng với mây trời, những hồi ức sung sướng nối tiếp nhau, thong thả trở lại trong tâm hồn bạn, và bạn luôn luôn có cảm giác rằng luồng mắt bạn phóng ra xa, xa mãi và lôi cuốn chính bản thân bạn vào cái vực không đáy bình yên, ngời sáng ấy, và không thể nào rời mắt khỏi cái đỉnh cao chót vót ấy, cái chiều sâu thăm thẳm ấy...

- Anh quý tộc, này, anh quý tộc! - Kaxian bỗng thốt lên bằng cái giọng âm vang của mình. Tôi ngạc nhiên nhổm dậy. Cho đến giờ, khi tôi hỏi ông ta vẫn chỉ trả lời miễn cưỡng, vậy mà nay bỗng nhiên chính ông ta lại lên tiếng trước.

- Ông cần gì? - Tôi hỏi.

- Này, anh giết chim để làm gì? - ông ta nhì thẳng vào mắt tôi, bắt đầu nói.

- Để làm gì là thế nào?... Gà nước là chim rừng có thể ăn được.

- Anh giết nó không phải để ăn, anh mà lại ăn gà nước! Anh giết nó để tiêu khiển.

- Nhưng có lẽ chính ông cũng ăn ngỗng hay gà chứ hả?

- Ngỗng hay gà là do Chúa định để cho người ăn thịt, còn gà nước là con chim tự do, con chim rừng. Mà không phải chỉ có gà nước: nhiều giống vật ở rừng, cả giống vật ở đồng ruộng, ở sông,  đầm lầy và ở đồng cỏ, ở trên thượng nguồn và dưới hạ lưu cũng thế - giết chúng là có tội, hãy mặc cho chúng sống trên trái đất cho đến hết tuổi đời...Chúa đã định cho con người thứ thức ăn khác. Chúa dành cho con người thức ăn và đồ uống khác: bánh mì là ân huệ của Chúa ban cho, và nước trời cho, và những loài vật mà tổ tiên ta đã nuôi quen trong nhà.

Tôi ngạc nhiên nhìn Kaxian. Lời lẽ của ông ta tuôn ra như nước chảy, ông ta không tìm lời, ông ta nói với vẻ hào hứng trầm tĩnh, vừa nghiêm trang vừa hiền lành, thỉnh thoảng lại nhắm mắt lại.

- Vậy theo ông, giết cá cũng là có tội ư? - Tôi hỏi.

- Cá là loài máu lạnh - ông ta đáp quả quyết  Cá là loài vật câm. Nó không biết sợ, không biết vui. Cá là loài vật không có tiếng nói. Nó không có cảm giác, máu nó không phải là máu sống... Máu. Ông ta im lặng một lát rồi nói tiếp - Máu là thứ thiêng liêng! Máu không thấy mặt trời của Chúa, máu lẩn trốn ánh sáng... phơi máu ra ngoài ánh sáng là một tội lớn vô cùng, lớn vô cùng và thật là đáng sợ... ôi, tội lớn vô cùng!

Ông thở dài và gằm mặt xuống. Thú thật là tôi nhìn ông già kì lạ mà sửng sốt. Lời lẽ của ông ta không phải là lời lẽ của người mujich : những người bình thường không nói như thế, những người khéo mồm cũng không nói như thế. Ngôn ngữ ấy vừa trịnh trọng vừa chín chắn và kỳ lạ... Tôi chưa hề nghe thấy ai nói như vậy...

- Ông Kaxian này - Tôi nói, mắt không rời khiỏ khuôn mặt đã hơi đỏ lên của ông - ông cho tôi biết ông làm gì để sống?

Ông ta không trả lời ngay. Luồng mắt của ông ta chợt trở nên nhớn nhác.

- Tôi sống theo lệnh Chúa phán truyền - Cuối cùng ông ta thốt lên - Còn về việc kiếm sống thì... không, tôi chẳng có nghề ngỗng gì cả. Tôi quá đần độn, từ thuở bé kia. Tôi làm việc chừng nào còn có thể làm được, tôi làm lụng kém lắm... Có ra cái quái gì đâu! Sức khỏe không có, tay chân vụng về. À, mùa xuân thì tôi bẫy họa mi.

- Bẫy hoạ mi ư? Thế sao ông nói rằng không nên đụng đến mọi loài vật ở rừng cũng như ở đồng và mọi loài vật tự do khác?

- Không nên giết những con vật ấy, đúng thế. Thần chết rồi sẽ làm công việc của nó. Cứ xem như anh thợ mộc Martưn đấy: trên đời có anh thợ mộc Martưn, anh ta sống không lâu và đã chết rồi. Bây giờ vợ anh ta héo hắt vì nhớ thương chồng, vì thương lũ con thơ... Không một người hay một con vật nào đánh lừa được thần chết. Cái chết không bỏ trốn đi đâu, và cũng không ai trốn thoát được nó. Cũng không nên giúp sức nó... Còn tôi không giết chim họa mi, cầu Chúa cho tôi đừng phạm tội ác đó? Tôi bẫy chúng không phải để hành hạ chúng, không phải để chúng phải chết, mà để làm đẹp lòng con người, để làm cho con người vui thú.

- Ông vẫn đến Kurxk bẫy chim đấy chứ?

- Tôi đến Kurxk và còn đi xa hơn nữa, nếu có dịp thuận tiện. Tôi ngủ đêm cạnh đầm lầy và bìa rừng hay ở ngoài đồng, bao giờ cũng chỉ có một mình, ẩn trong chỗ kín đáo: này là chim dẽ huýt lên tiếng gió, này là thỏ kêu, này là vịt càng cạc...Buổi chiều, tôi xem xét, sáng sớm tôi lắng nghe, lúc bình minh tôi phủ lưới lên các bụi cây... Có con hót rất thảm thiết, êm ái... đến mức thảm thiết.

- Ông đem bán chúng chứ?

- Tôi bán cho những người nhân đức.

- Ông còn làm gì nữa?

- Làm gì là thế nào?

- Ông còn làm nghề gì nữa.

Ông già im lặng một lát. - Tôi chẳng làm nghề gì cả... Tôi làm việc tồ lắm. Nhưng tôi biết chữ.

- Ông biết chữ à?

- Tôi biết chữ. Chúa và những người nhân đức đã giúp tôi.

- Thế ông có gia đình chứ?

- Không, tôi sống một mình.

- Sao lại thế?...Gia đình chết hết cả rồi ư?

- Không, thế này thôi: đời tôi không may. Nhưng tất cả đều do ý Chúa, tất cả chúng ta đều ở dưới chân chúa. Nhưng con người cần phải chính trực, thế đấy? Như vậy thì đẹp ý Chúa.

- Ông không có bà con gì ư?

- Có. Nhưng... là nói vậy thôi... ông già ngập ngừng.

- Ông nói cho tôi biết điều này nhé - Tôi mở đầu - Tôi nghe anh đánh xe hỏi ông là tại sao ông không chữa cho Martưn? Thế ra ông biết chữa bệnh ư?

- Gã đánh xe của anh là một người chính trực. Kaxian trả lời tôi với vẻ trầm ngâm - nhưng không phải không có tội lỗi. Người ta gọi tôi là ông lang... Lang liếc gì tôi!... mà kẻ nào có thể chữa được bệnh tật? Tất cả là do ý Chúa. Nhưng... có những thứ cỏ, có những thứ hoa cũng giúp ích cho ta phần nào, đúng thế. Như cỏ ba phiến chẳng hạn, đấy là thứ cỏ tốt cho con người, mã đề cũng thế. Những thứ ấy ta có nói đến cũng không hổ thẹn: đấy là loại cỏ sạch, của Chúa ban cho. Có những thứ khác thì không thế. chúng có làm lui bệnh, nhưng dùng chúng là có tội. Chỉ nói đến chúng thôi cũng đủ mang tội rồi. Trừ phi là có đọc lời cầu nguyện... Thật đấy, có những lời cần đọc lên vào lúc đó. Người nào tin, người ấy sẽ được cứu vớt - ông ta hạ giọng nói tiếp.

- Ông không cho Martưn thứ thuốc gì à? - Tôi hỏi.

- Tôi biết muộn quá - ông già đáp - Mà biết cũng chẳng làm gì được? Số trời đã định sẵn cho mỗi người. Anh thợ mộc Martưn, số non mệnh yểu không sống lâu được, thì kết quả là thế đấy. Không, người nào đến lúc phải từ giã cõi trần thì mặt trời không sưởi ấm cho người ấy, bánh mì cũng chẳng ích gì... dường như người đó được gọi đi...Vậy đấy! Cầu Chúa ban cho linh hồn anh ta được bằng an!

- Bà con ta bị đưa đến đây đã lâu chưa? - Tôi hỏi, sau một lúc im lặng.

Kaxian giật mình.

- Không, mới được bốn năm. Hồi còn ông chủ cũ, chúng tôi ở đâu vẫn ở đấy, người giám hộ đã bắt chúng tôi phải dọn đi. Ông chủ cũ của chúng tôi tâm tính hiền lành, sùng đạo, cầu chúa cho ông ấy được lên thiên đàng! Cố nhiên người giám hộ có suy xét, có cái lý của ông ta, có lẽ làm như vậy là phải.

- Thế trước kia bà con ta ở đâu?

- Chúng tôi ở Kraxivaia Mets.

- Cách đây xa không?

- Chừng một trăm đậm.

- Ở đấy tốt hơn chứ?

- Tố hơn... tốt hơn. Ở đấy quang đãng, có sông, đấy là tổ của chúng tôi. Còn ở đây thì chật chội khô cằn... ở đây chúng tôi đâm ra côi cút.  Kraxivaia Mets của chúng tôi mà leo lên một quả đồi thì... lạy Chúa, ta sẽ thấy gì? Nào sông nào đồng cỏ, nào rừng, chỗ kia là nhà thờ, rồi lại bắt đầu là đồng cỏ. Ta nhìn ra xa, xa nữa... Nhìn được xa lắm... Ta nhìn mãi, nhìn mãi, ôi chao là thích mắt, thật đấy! Còn ở đây thì đúng là đất tốt hơn: đất thịt, đất thịt tốt, nông dân bảo thế. Nhưng tôi thì ở đâu cũng sẽ có đủ bánh ăn.

- Ông già này, ông nói thật đi nhé, chắc ông muốn về thăm quê hương đấy nhỉ?

- Đúng, tôi muốn nhìn thấy quê nhà. Nhưng ở đâu cũng tốt thôi. Tôi không có gia đình, lại không ưa ở lỳ một chỗ. Mà thế là phải! Ngồi lỳ ở nhà thì có ích gì lắm đâu. Còn khi ta ra đi, khi ta đi ra ngoài, ông ta cất cao giọng, nói thêm - thì lòng nhẹ thênh thênh, thực thế. Mặt trời chiếu vào ta, Chúa nhì thấy ta rõ hơn, tâm hồn ta cất tiếng hát nhịp nhàng vui sướng hơn. Ta thấy hoa cỏ mọc xung quanh, ta để ý tìm tòi, ta hái. Kia là dòng nước chảy, nước mạch từ nguồn tuôn ra, nước thiêng liêng; ta sẽ uống thoả thích, ta sẽ ghi nhớ nơi đó. Chim trời ca hát rộn ràng... Ra ngoài Kurxk là đến thảo nguyên, thảo nguyên tuyệt diệu, ấy mới là nơi làm cho con người ngạc nhiên, vui thích, đấy là chốn rộng rãi bao la, đấy là ân huệ của Chúa ban cho! Người ta bảo thảo nguyên chạy đến tận những biển ấm, nơi có con chim Gamaun có giọng hót du dương, nơi mà mùa thu cũng như mùa đông, cây không hề rụng lá, và có những quả táo vàng trên những cành cây bằng bạc, ở đó mọi người sống sung túc và hợp với lẽ công bằng... Tôi là tôi muốn đến đấy kia..Tôi đi đây đi đó nào có phải là ít đâu! Tôi đã đến Rômôn, đã đến Ximbirxk, một thành phố tuyệt đẹp, đã đến cả Matxcơva, ở đấy có những mái nhà tròn dát vàng, tôi đã đến Ôka, nguồn nuôi sống nhân dân, tôi đã đến Tsna hiền lành như con bồ câu, tôi đã thăm mẹ Vonga, tôi đã gặp nhiều người nông dân tốt bụng, tôi đã từng đến những thành phố lương thiện...Nhưng tôi muốn đến nơi ấy...và giờ đây...thế là đã...không phải chỉ mình tôi là kẻ có tội. Nhiều người nông dân khác đi giầy bện bằng cỏ cây lang thang khắp thế giới tìm sự thật...đúng thế? Chỉ ngồi ở nhà thì được cái gì, hả? Không có lẽ công bằng trong con người, chính đấy là...

Những tiếng cuối cùng, Kaxian nói liến thoắng gần như lí nhí. Rồi ông ta còn nói gì nữa mà tôi không nghe ra được, còn mặt ông ta có một vẻ lạ lùng đến nỗi bất giác tôi nhớ đến cái tên "thánh hài" mà Êrôfây gán cho ông ta. Ông ta cúi mặt xuống, ho một tiếng và dường như chợt tỉnh.

- Mặt trời đẹp biết bao? - ông ta thì thầm thốt lên - Lạy Chúa, người ban cho cõi trần một ân huệ như thế nào! Trong rừng mới ấm áp làm sao!

Ông ta nhún vai, im lặng một lát, lơ đãng đưa mắt nhìn và cất tiếng hát khe khẽ. Tôi không nghe rõ hết mọi lời lẽ trong bài ca ngân dài của ông ta, chỉ có những lời sau đây lọt vào tai tôi:

Kaxian là ta

Tên hiệu là Blôkha.

"Ồ! - Tôi nghĩ - ông ta sáng tác ra. Bỗng ông ta giật mình và im bặt, nhìn đăm đăm vào rừng.Tôi quay lại và thấy một cô bé nông dân khoảng chừng tám tuổi, mặc áo xarafan ( [52] ) màu xanh lơ, đầu đội tấm khăn kẻ ô vuông, cánh tay trần khoác cái làn đan bằng cành cây. Có lẽ con bé hoàn toàn không ngờ là sẽ gặp chúng tôi. Như người ta nói, nó chạm trán với chúng tôi và đứng không nhúc nhíc giữa đám cây hồ đào xanh tươi, trên bãi cỏ rợp mát giương cặp mắt đen sợ sệt nhìn tôi. Tôi chưa kịp nhìn kỹ thì nó đã lẩn ra sau cái cây.

- Annuska, Annuska! Lại đây, đừng sợ - ông già gọi với vẻ âu yếm.

- Cháu sợ - Cái giọng thanh thanh vang lên.

- Đừng sợ, đừng sợ, đến đây với ta.

Annuska lẳng lặng rời khỏi chỗ ẩn, nhẹ nhàng đi vòng quanh, đôi chân nhỏ nhắn của em bước rón rén trên đám cỏ um tùm, chỉ có tiếng sột soạt rất khẽ. Em ra khỏi lùm cây đến đứng cạnh ông già.

Em gái này không phải lên tám như tôi tưởng lúc đầu vì tầm vóc loắt choắt của em, mà khoảng mười ba - mười bốn tuổi. Toàn thân em nhỏ bé và gày gò, nhưng rất cân đối và thon gọn, còn khuôn mặt xinh đẹp của em giống mặt Kaxian lạ thường, tuy hình dáng Kaxian không lấy gì làm đẹp. Cũng những đường nét sắc sảo như thế, cũng cái nhìn kỳ lạ như thế, vừa ranh mãnh vừa cả tin, vừa đăm chiêu vừa sáng suốt, và cử chỉ cũng như thế... Kaxian đưa mắt nhìn con bé từ đầu đến chân. Nó đứng quay nghiêng về phía ông ta.

- Thế nào, con hái nấm à? - ông ta hỏi.

- Vâng, cháu hái nấm - Cô bé đáp với nụ cười rụt rè.

- Tìm được nhiều không?

- Nhiều ạ (Nó đưa nhanh mắt nhìn Kaxian và lại mỉm cười).

- Có cả nấm trắng chứ?

- Vâng, cả nấm trắng.

- Cho xem nào, cho xem... (Con bé bỏ cái làn trên tay xuống, vén tấm lá ngưu bàng rộng đậy nấm lên) - Chà! - Kaxian cúi xuống gần làn, nói - Nấm ngon quá! Annuska giỏi lắm?

- Con gái ông đấy à, ông Kaxian? Tôi hỏi (mặt Annuska hơi đỏ lên).

- Không, nó có họ hàng với tôi thôi - Kaxia nói, vờ làm ra vẻ thờ ơ - Thôi, Annuska đi đi - ông ta lập tức nói thêm - đi đi, cháu. Mà cẩn thận đấy nhé. Sao lại để em ấy phải đi bộ - Tôi ngắt lời ông ta - Chúng ta sẽ cho em ấy lên xe...

Mặt Annuska đỏ lên như bông hoa anh túc, hai tay nó vồ lấy sợi dây quai làn và lo lắng nhìn ông già.

- Không, nó đi được - ông ta đáp, giọng vẫn uể oải, dửng dưng như trước.... - Nó cần gì xe. Nó đi được Đi đi, cháu.

Annuska lẩn thoắt vào rừng. Kaxian nhìn theo nó một lúc rồi cúi mặt xuống và nhếch mép cười.

Nụ cười hồi lâu không tắt ấy, những lời lẽ ít ỏi mà ông ta nói với Annuska, ngay cả giọng nói của ông khi nói với con bé đều chứa đựng lòng yêu mến thắm thiết, khó giải thích. Ông ta lại nhìn về phía con bé đã đi, lại mỉm cười và vừa xoay mặt vừa lắc đầu mấy cái.

- Tại sao ông lại bảo nó đi ngay thế - Tôi hỏi - Tôi muốn mua nấm của nó...

- Về nhà ông vẫn mua được cơ mà, nếu như ông muốn - ông ta đáp, lần đầu tiên gọi tôi là "ông"

- Con bé cháu của ông xinh quá.

- Không... xinh gì... thường thôi - ông ta đáp dường như miễn cưỡng, và từ lúc ấy, ông ta lại lầm lì như trước.

Khi thấy mọi cố gắng của mình để gợi cho ông ta lại nói chuyện đều chỉ uổng công, tôi bèn trở về khu đốn cây. Trời đã bớt nóng đôi chút, nhưng cuộc đi săn của tôi vẫn không có kết quả, hay như người ta thường nói, vẫn gặp vận đen, tôi trở về xóm với độc một con gà nước và cái trục xe mới. Khi xe đi tới gần sân, Kaxian bỗng quay về phía tôi.

- Anh quý tộc, này anh quý tộc? - ông ta nói - Tôi thật có lỗi với anh. Chính tôi đã làm chim trốn hết cả.

- Bằng cách nào vậy?

- Cái đó thì riêng tôi biết. Đấy, ngay cả con chó tinh khôn và được tập dượt kỹ của anh cũng không thể làm được gì cơ mà. Ồ, con người, con người thì có tài cán gì, phải không? Nhưng kia là con vật, vậy người ta đã dùng được nó vào việc gì?

Nếu như tôi thuyết phục Kaxian rằng không thể dùng "phù chú" sai khiến thú săn được thì ông ta cũng chẳng tin, bởi vậy tôi không trả lời ông ta câu nào. Vừa hay, chúng tôi cũng đã vào cổng.

Không thấy Annuska trong nhà. Em đã đến đây từ trước, và để lại làn nấm. Êrôfây thoạt tiên đánh giá cái trục mới một cách nghiêm khắc và bất công, nhưng rồi anh ta lắp vào rất vừa. Một tiếng sau, tôi lên xe ra đi. Trước khi đi, tôi đưa cho Kaxian ít tiền, thoạt tiên ông ta không chịu nhận, nhưng sau ông ta nghĩ lại, cầm tiền trong tay và nhét vào ngực áo. Suốt một tiếng đồng hồ ấy, ông ta hầu như không thốt lên một lời nào. Ông ta vẫn đứng tựa cổng như trước, không đáp lại những lời trách móc của người đánh xe của tôi và chia tay với tôi hết sức lạnh nhạt.

Ngay từ lúc về tôi đã nhận thấy Êrôfây của tôi lại ủ rũ bực bội... Mà cũng phải thôi, anh ta chẳng tìm được cái gì ăn trong làng, chỗ cho ngựa uống nước thì không dùng được. Chúng tôi ngồi xe ra đi.

Anh ta ngồi trên ghế đánh xe, vẻ bực tức lộ rõ cả trên gáy anh ta, và anh ta rất muốn nói chuyện với tôi. Nhưng trong khi chờ đợi câu hỏi đầu tiên của tôi anh ta đành chỉ lầu bầu khe khẽ và nói với mấy con ngựa những lời dạy bảo đôi khi cay độc. "Làng với xóm!" - Anh ta lầu bầu - Thế cũng gọi là làng! Hỏi nước kvax cũng không có. Ôi, lạy Chúa! Còn nước thì thật kinh tởm! (Anh ta nhổ bọt đánh toẹt một cái). Không có dưa chuột, không có nước kvax chẳng có cái cóc gì hết. Hừ, mày - anh ta quát con ngựa phụ mé bên phải - Tao biết mày mà, cái giống đốn đời! Mày muốn giở quẻ chắc... (Anh ta quất nó một roi). Con này giờ hay vờ vĩnh lắm rồi, vậy mà trước kia tốt nết biết bao... này này, liệu hồn đấy?...

- Êrôfây này, - Tôi lên tiếng - Anh làm ơn nói cho tôi biết ông Kaxian ấy là người thế nào?

Êrôfây không trả lời tôi ngay: nói chung, anh ta là người chín chắn và ung dung. Nhưng tôi có thể đoán ngay được là câu hỏi của tôi làm anh ta vui và bớt bực mình.

- Bọ nhảy ấy à? - Cuối cùng, anh ta giật cương ngựa và nói - Một người kỳ quặc: đúng là thánh hài , không dễ gì tìm được một kẻ nào khác kỳ quặc như thế đâu. Chẳng hạn, lão không khác gì con ngựa hồng đốm vàng kia của chúng ta: cũng bất trị... Nghĩa là cũng lẩn trốn công việc. Đã đành là lão cũng chẳng làm lụng gì được, hom ha hom hem, nhưng dù sao... Lão như thế từ bé kia. Thoạt tiên lão đi đánh xe ngựa chở khách cùng với các ông chủ - họ có một cỗ xe ba ngựa - nhưng sau chắc là lão chán nên bỏ việc. Lão ở nhà, nhưng rồi lão cũng chẳng ngồi nhà được lâu, tính lão hiếu động lắm, đúng là con bọ nhảy. May làm sao, lão gặp được ông chủ tốt, ông ta không bó buộc lão. Từ đó lão cứ đi lung tung như con cừu thả rông. Và lão kỳ lạ lắm, có mà trời biết được lão: khi thì câm như thóc, khi thì bỗng mở miệng nói huyên thuyên không biết đằng nào mà nghe nữa. Đấy là cách làm bộ làm tịch chăng? Không, không phải. Lão gàn dở thế đấy. Nhưng lão hát hay. Đáng kể gì cái tài vặt đó, chẳng làm cóc gì.

- Thế có đúng là lão biết chữa bệnh không?

- Chữa chạy gì!... Lão thì chữa bệnh sao nổi! Một con người như thế? À, vậy mà lão chữa cho tôi khỏi bệnh tràng nhạc đấy...Chạy chữa gì lão! Một thằng ngốc, vậy thôi! - Anh ta nói thêm sau một lúc im lặng.

- Anh biết lão lâu chưa?

- Lâu rồi. Hồi ở Xưtsôpka trên bờ sông Kraxivai Mets, chúng tôi là hàng xóm láng giềng với nhau mà.

- Thế còn con bé Annuska mà chúng tôi gặp trong rừng là chỗ bà con thế nào với lão?

Êrôfây ngoảnh lại, ngó qua vai nhìn tôi và cười toác miệng.

- Hề!... Vâng, chỗ họ hàng. Con bé mồ côi: nó không có mẹ, mà cũng chẳng biết mẹ nó là ai. Nhưng chắc cũng có họ hàng với lão: nó giống lão lắm... Nó ở với lão. Con bé tinh nhanh, cái đó thì khỏi phải nói, kháu khỉnh, lão già yêu nó không gì bằng: con bé cũng kháu thật cơ. Còn điều này chắc ông không tin đâu: lão định dạy Annuska học chữ. Lão sẽ làm thật đấy, lão là con người khác thường lắm mà. Tính khí thất thường, thậm chí điên gàn... E-ê-ê! Người đánh xe của tôi bỗng tự ngắt lời và dừng ngựa lại, cúi xuống phía bên và bắt đầu ngửi hít không khí - Mùi cháy khét chăng? Đúng rồi! Chà, những cái trục mới này... ấy là mình đã bôi dầu đẫm cả rồi đấy...Phải đi kiếm nước thôi, vừa may kia có cái ao.

Êrôfây chậm chạp rời khỏi chỗ ngồi, cởi dây buộc gầu, đi tới ao, và khi về đến xe, anh ta thích thú nghe tiếng xèo xèo của cái ống trục bánh xe bất ngờ bị tưới nước... Trên đoạn đường chừng một chục dặm, anh ta phải tưới nước sáu lần vào cái trục nóng rực, và khi chúng tôi về đến nhà thì trờ đã tối hẳn.